Luận án Hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ

TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

7

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7

1.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu 22

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM

PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC Ở

VIỆT NAM

25

2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của cơ chế kiểm tra văn bản quy

phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam

25

2.2. Các yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố của cơ chế kiểm tra

văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà

nước ở Việt Nam

45

2.3. Tiêu chí hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp

luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam

58

Chương 3: TÌNH HÌNH, KẾT QUẢ KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP

LUẬT TRONG THỜI GIAN QUA VÀ THỰC TRẠNG CƠ CHẾ

KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ

QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

66

3.1. Tình hình, kết quả kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trong

thời gian qua

66

3.2. Thực trạng cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của

các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam

73

Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ KIỂM TRA

VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH

CHÍNH NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM

100

4.1. Quan điểm hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp

luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam

100

pdf158 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 567 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác tư pháp trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Trong báo cáo tổng kết 10 năm triển khai thực hiện công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (2003-2013) đã đưa ra đánh giá, nhận định chung là, thời gian qua, cùng với những tác động tích cực, hiệu quả do công tác kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật mang lại, chất lượng công tác soạn thảo, thẩm định, ban hành văn bản quy phạm pháp luật được nâng lên rõ rệt, có nhiều chuyển biến tích cực, bảo đảm chất lượng văn bản, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của Bộ, ngành và địa phương. Những kết quả đã đạt được cũng thể hiện vị trí, vai trò, trách nhiệm của cơ quan kiểm tra văn bản, thông qua đó, đưa công tác kiểm tra văn bản đi vào nề nếp. Kết quả đã đạt được trong thời gian qua cũng cho chúng ta thấy, hoạt động kiểm tra, xử lý và rà soát văn bản quy phạm pháp luật là một trong những công cụ quan trọng "làm sạch", bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời, cũng khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, khả thi của việc xác lập cơ chế này trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, chính vì vậy, trong thời gian tới cần phải 71 tiếp tục tăng cường, củng cố và phát huy hơn nữa công tác này để đáp ứng được yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập của đất nước. Mặc dù trong tương lai, có thể thiết lập cơ chế tài phán hoặc một cơ chế khác, ngoài hệ thống cơ quan hành chính để phán quyết đối với các văn bản trái pháp luật thì việc tiếp tục phát huy cơ chế kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước vẫn là yêu cầu cấp thiết, nhằm đảm bảo tính đúng đắn của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở nước ta. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, nổi lên là: (i) Vẫn còn văn bản có nội dung trái pháp luật nhưng chưa được kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời; cơ quan ban hành văn bản chưa tự kiểm tra, xử lý kịp thời, đúng yêu cầu sau khi nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền, điều đó tác động tiêu cực, thậm chí gây bức xúc trong xã hội; (ii) Cơ quan ban hành văn bản chưa chủ động xử lý đối với văn bản trái pháp luật dẫn đến tình trạng văn bản trái pháp luật này vẫn được áp dụng hoặc xử lý không đúng hình thức theo quy định của pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản; việc theo dõi, đôn đốc quá trình xử lý văn bản trái pháp luật của các cơ quan ban hành văn bản chưa được quan tâm chú trọng; (iii) Việc kiểm tra văn bản theo yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại của cá nhân, tổ chức và các phương tiện thông tin đại chúng chưa được chú ý đúng mức; (iv) Việc khắc phục hậu quả do ban hành, áp dụng các văn bản trái pháp luật trên thực tế còn hạn chế; (v) Việc xử lý trách nhiệm đối với cá nhân tham mưu, thẩm định, ký ban hành văn bản trái pháp luật còn chưa nghiêm, chưa thích đáng. Nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế nêu trên có cả khách quan và chủ quan, có thể kể đến một số nguyên nhân chủ yếu như: (i) Thể chế phục vụ công tác soạn thảo, ban hành và kiểm tra, xử lý văn bản mặc dù đã được quan tâm xây dựng, hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều khiếm khuyết, như: khái niệm 72 văn bản quy phạm pháp luật còn chưa rõ và chưa thống nhất; việc quy định "cứng" thời điểm có hiệu lực của văn bản (sau 45 ngày kể từ ngày ký ban hành) gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực (tài chính, ngân hàng...); chưa làm rõ thế nào là văn bản ban hành trong tình trạng khẩn cấp; chưa có hướng dẫn chi tiết, cụ thể về việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với cán bộ, công chức trong việc tham mưu soạn thảo, thẩm định, trình, thông qua và ký ban hành văn bản trái pháp luật; chưa có cơ chế bồi thường thiệt hại do việc ban hành và thực hiện văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật gây ra. (ii) Trong một số trường hợp, văn bản làm cơ sở pháp lý để kiểm tra chưa đảm bảo tính hợp pháp, tính thống nhất, gây khó khăn cho việc quy định chi tiết để tổ chức thực hiện, dẫn đến việc cơ quan ban hành văn bản biện hộ để giải trình cho việc ban hành các quy định trái pháp luật. (iii) Một số Lãnh đạo Bộ, ngành và địa phương (kể cả cấp ủy) chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác văn bản dẫn đến việc tuân thủ quy định kỷ luật, kỷ cương trong công tác soạn thảo, ban hành, kiểm tra, xử lý văn bản tại một số Bộ, ngành và địa phương còn chưa nghiêm; cán bộ tham mưu còn hạn chế về năng lực, chưa làm hết trách nhiệm. Việc đôn đốc, kiểm tra công tác này của cấp trên đối với cấp dưới chưa được thường xuyên, quyết liệt. (iv) Trong kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật, còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, "dĩ hòa vi quý"; còn tư tưởng "lợi ích nhóm", "lợi ích cục bộ địa phương" dẫn đến một số văn bản có dấu hiệu trái pháp luật không được kiểm tra hoặc kiểm tra nhưng không được xử lý, gây tác động tiêu cực, bức xúc trong xã hội. (v) Kiểm tra và xử lý văn bản là công việc phức tạp, khó khăn, việc xử lý văn bản đòi hỏi phải có chuyên môn sâu, bản lĩnh nghề nghiệp, trong khi đó, cán bộ tham mưu còn hạn chế về năng lực, chưa làm hết trách nhiệm dẫn đến công tác kiểm tra, xử lý văn bản chưa đạt được hiệu quả tối đa; kinh phí và chính sách thu hút, đãi ngộ cán bộ làm công tác kiểm tra, xử lý 73 văn bản chưa được quan tâm đúng mức. (vi) Chất lượng của công tác xây dựng, ban hành văn bản còn nhiều hạn chế dẫn đến thực tế là trong một số trường hợp, văn bản làm cơ sở pháp lý để kiểm tra (Luật, Nghị định) có nội dung chưa đảm bảo tính hợp pháp, tính thống nhất, gây khó khăn cho việc hướng dẫn, quy định chi tiết để tổ chức thực hiện, đồng thời, trở thành nguyên cớ dẫn đến việc cơ quan ban hành văn bản biện hộ, giải trình cho việc ban hành các quy định trái pháp luật. Đánh giá khách quan, toàn diện về tình hình, kết quả công tác kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta trong thời gian qua, nhất là những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại, sẽ góp phần quan trọng vào việc đánh giá đúng thực trạng và đưa ra các giải pháp phù hợp để hoàn thiện cơ chế kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam. 3.2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ KIỂM TRA VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM 3.2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan hành chính nhà nƣớc ở Việt Nam 3.2.1.1. Về đối tượng văn bản kiểm tra, nội dung và thẩm quyền kiểm tra văn bản Về đối tượng văn bản kiểm tra, trước ngày 01/7/2016 - thời điểm Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có hiệu lực thi hành, văn bản quy phạm pháp luật được kiểm tra và xử lý (trường hợp phát hiện thấy trái pháp luật) bao gồm: (i) Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; (ii) Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; Thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; (iii) Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân. 74 Theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, một mặt, sẽ không còn hình thức thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; chỉ thị (quy phạm pháp luật) của Ủy ban nhân dân các cấp; bổ sung thêm hình thức văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ban hành, do đó, quy định của pháp luật về kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật cần phải loại bỏ thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; chỉ thị (quy phạm pháp luật) của Ủy ban nhân dân các cấp ra khỏi đối tượng văn bản kiểm tra, đồng thời, bổ sung thêm văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt vào đối tượng văn bản được kiểm tra. Mặt khác, trên thực tế, một số loại văn bản đã ban hành trước đó, đến nay không còn phù hợp về hình thức theo quy định mới của Luật, song nó vẫn tiếp tục được áp dụng nếu chưa hoặc không bị bãi bỏ, do đó, cũng cần có phương án giải quyết vấn đề này. Ngoài các văn bản quy phạm pháp luật đã nêu ở trên, văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật; văn bản có chứa quy phạm pháp luật hoặc có thể thức và nội dung như văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan, người không có thẩm quyền tại Bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương ban hành cũng được kiểm tra, xử lý theo quy định. Tuy nhiên, loại văn bản này chỉ được kiểm tra với phương thức kiểm tra văn bản theo các nguồn thông tin mà không phải đối tượng được kiểm tra ở tất cả các phương thức. Như vậy, pháp luật hiện hành cũng dự báo khả năng quy phạm pháp luật bị "bỏ sót" trong quá trình kiểm tra, nên đã đưa đối tượng văn bản này vào diện văn bản được kiểm tra, nhằm hạn chế tối đa những tác động xấu của việc ban hành và thực hiện những quy phạm pháp luật trái pháp luật gây ra. Về nội dung kiểm tra, để đảm bảo một văn bản quy phạm pháp luật được kiểm tra toàn diện, đầy đủ, không bỏ sót nội dung trái pháp luật thì cần tiến 75 hành kiểm tra đối với các nội dung được pháp luật quy định. Nội dung kiểm tra ở đây chính là tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản. Văn bản hợp hiến, hợp pháp là văn bản bảo đảm đủ các điều kiện: Thứ nhất, được ban hành đúng căn cứ pháp lý, tức là (i) Có căn cứ pháp lý cho việc ban hành; và (ii) Những văn bản làm căn cứ pháp lý đó đã được ký ban hành, thông qua vào thời điểm ban hành văn bản được kiểm tra. Thứ hai, được ban hành đúng thẩm quyền, gồm thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. Theo đó: (i) Thẩm quyền về hình thức là việc cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản theo đúng hình thức đã được quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; (ii) Thẩm quyền về nội dung là việc cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản phù hợp với thẩm quyền của mình theo quy định của pháp luật. Thứ ba, nội dung văn bản phù hợp với quy định của pháp luật. Nội dung này được hiểu là: (i) Văn bản được ban hành theo thẩm quyền phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; các văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; (ii) Văn bản quy phạm pháp luật không quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khác và bảo đảm thống nhất giữa văn bản hiện hành với văn bản mới được ban hành của cùng một cơ quan; (iii) Văn bản do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ khác ban hành phải phù hợp với văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ quản lý nhà nước về lĩnh vực đó; (iv) Quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân phải phù hợp với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Ngoài ra, văn bản do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành phải bảo đảm yêu cầu không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 76 Việt Nam là thành viên. Thứ tư, được ban hành đúng trình tự, thủ tục, thể thức và kỹ thuật trình bày theo quy định của pháp luật. Quy định hiện hành về nội dung kiểm tra như đã nêu ở trên, về cơ bản là phù hợp, cần tiếp tục kế thừa. Riêng nội dung kiểm tra về trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định như hiện nay còn chung chung, khó thực hiện nếu không được hướng dẫn chi tiết. Trên thực tế, nội dung kiểm tra về trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành văn bản chưa được quan tâm chú trọng và chỉ trong trường hợp kiểm tra phát hiện văn bản có nội dung trái pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền kiểm tra mới xem xét đến trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành văn bản để làm cơ sở cho việc xử lý văn bản và xem xét, xử lý trách nhiệm cơ quan, người đã ban hành văn bản trái pháp luật đó và kiến nghị xử lý theo thẩm quyền, tức là chỉ khi văn bản có nội dung trái pháp luật thì mới xem xét đến nội dung kiểm tra này. Do đó, cần có nghiên cứu để quy định cụ thể hơn về nội dung kiểm tra này. Cũng liên quan đến nội dung kiểm tra, có một vấn đề đặt ra là, hiện nay vấn đề về bảo đảm tính hợp lý và tính khả thi của văn bản đang được điều chỉnh, xử lý thông qua hoạt động thẩm tra, thẩm định văn bản, trong khi đó, thẩm tra, thẩm định văn bản được tiến hành trong giai đoạn xây dựng văn bản, diễn ra trước khi văn bản được ban hành. Như vậy, trường hợp văn bản sau khi được ban hành, nếu bộc lộ sự bất hợp lý hoặc không khả thi thì chưa có cơ chế xử lý. Đây là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh cùng với việc hoàn thiện các chế định về rà soát văn bản quy phạm pháp luật. Về thẩm quyền kiểm tra, một trong những nguyên tắc Hiến định là, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật. 77 Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định, Chính phủ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện việc kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của Bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt trái với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành và do bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành về những nội dung có liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình phụ trách. Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tự kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành; Ủy ban nhân dân cấp trên kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp dưới ban hành [80, tr. 79-81]. Trên thực tế, để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn bản, Bộ trưởng, Thủ trưởng ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp giao cho các đơn vị, công chức thuộc quyền quản lý của mình trực tiếp triển khai thực hiện với vai trò là tổ chức, cá nhân chuyên trách. Vấn đề này cũng được thể chế hóa bằng pháp luật, theo đó, (1) Người đứng đầu tổ chức pháp chế ở Bộ, cơ quan ngang bộ giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện việc kiểm tra các văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; (2) Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp kiểm tra các văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; (3) Giám đốc Sở Tư pháp giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện việc kiểm 78 tra văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; (4) Trưởng phòng Tư pháp giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện việc kiểm tra văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Như đã luận giải ở trên, cũng xuất phát từ đối tượng văn bản kiểm tra, tới đây sẽ không còn hình thức Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chỉ thị (quy phạm pháp luật) của Ủy ban nhân dân các cấp, đồng thời, bổ sung thêm văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ban hành (nếu có), bên cạnh đó, sẽ còn một số lượng nhất định văn bản quy phạm pháp luật là thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ hoặc chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp ban hành trước thời điểm thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có hiệu lực thi hành, nhưng chưa hoặc không bị bãi bỏ, vẫn đang được áp dụng. Do đó, quy định của pháp luật về thẩm quyền kiểm tra văn bản cũng cần được xem xét, điều chỉnh cho phù hợp. 3.2.1.2. Về xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật Về các hình thức xử lý văn bản trái pháp luật, thời gian qua áp dụng các hình thức sau đây: (i) Đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản: Hình thức đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp nội dung trái pháp luật đó nếu chưa được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ kịp thời và nếu tiếp tục thực hiện thì có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. (ii) Hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật từ thời điểm văn bản được ban hành. 79 (iii) Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản làm căn cứ ban hành văn bản được kiểm tra đã được thay thế bằng văn bản khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, dẫn đến nội dung của văn bản không còn phù hợp với pháp luật hiện hành hoặc tình hình kinh tế - xã hội thay đổi. Ngoài ra, trong quá trình kiểm tra phát hiện văn bản chỉ sai về căn cứ pháp lý được viện dẫn, thể thức, kỹ thuật trình bày còn nội dung của văn bản phù hợp với quy định của pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp thì đính chính đối với những sai sót đó. Liên quan đến vấn đề này, Hiến pháp năm 2013 không quy định "hủy bỏ" văn bản quy phạm pháp luật là một hình thức xử lý văn bản trái pháp luật. Vì vậy, các nội dung về hủy bỏ văn bản quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 và các văn bản quy phạm pháp luật khác quy định về kiểm tra xử lý văn bản quy phạm pháp luật cần phải được rà soát, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp và vấn đề này đã được xử lý tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015. Như vậy, một số hình thức xử lý văn bản trái pháp luật như đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản; bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản vẫn bảo đảm phù hợp với pháp luật và tiếp tục được áp dụng, song sẽ không còn hình thức hủy bỏ văn bản trái pháp luật nữa. Vấn đề cần lưu ý ở đây là, trong hoạt động rà soát văn bản, khi phát hiện văn bản không còn phù hợp với pháp luật mới được ban hành hoặc không còn phù hợp với tình hình thực tiễn thì sẽ áp dụng hình thức bãi bỏ, do đó, cần cân nhắc đưa ra phương án xử lý vấn đề này cho bảo đảm phù hợp với đặc thù và có cơ sở phân biệt giữa xử lý bãi bỏ văn bản qua hoạt động kiểm tra văn bản với xử lý bãi bỏ văn bản qua hoạt động rà soát văn bản. Về thẩm quyền, trách nhiệm xử lý văn bản trái pháp luật: Thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ: Đình chỉ việc thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung đối với: Thông tư do Bộ trưởng, 80 Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành, liên tịch ban hành, quyết định, chỉ thị do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ, các quy định về ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ khác (trái với nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp đối với quyết định, chỉ thị do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh); Đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung đối với: Nội dung trái pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ trong thông tư liên tịch do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành, đồng thời, yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thỏa thuận với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cùng xử lý văn bản đó. Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định các nội dung trên trong xử lý văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật và giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện các thẩm quyền khác trong việc xử lý văn bản trái pháp luật theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền, trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ: Kiến nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ hoặc Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật do các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, ngành mình; Đình chỉ việc thi hành và đề nghị Thủ tướng Chính phủ hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trái với văn bản về ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành mình; Thực hiện những thẩm quyền khác khi được Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ giao trong việc xử lý văn bản trái pháp luật. 81 Ngoài thẩm quyền, trách nhiệm như các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ khác, riêng Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền, trách nhiệm: Kiến nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ hoặc Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang bộ hoặc liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước; xử lý văn bản liên tịch trái pháp luật giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao như sau: Trường hợp phát hiện nội dung quy định thuộc lĩnh vực của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thông tư liên tịch có dấu hiệu trái pháp luật thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ (đối với thông tư liên tịch với Bộ Tư pháp) thông báo để các cơ quan đó tự kiểm tra, xử lý theo quy định của pháp luật; nếu Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhận được thông báo không xử lý hoặc Thủ tướng Chính phủ không nhất trí với kết quả xử lý thì Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, xử lý theo quy định. Ngoài thẩm quyền, trách nhiệm như các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ khác, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ còn có thẩm quyền, trách nhiệm: Kiến nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp đình chỉ việc thi hành, hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành về ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp; Xử lý thông tư liên tịch trái pháp luật giữa Bộ trưởng Bộ Tư pháp với các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 82 Về thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân: Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyền: (i) Đình chỉ việc thi hành và hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp; (ii) Đình chỉ việc thi hành nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp và đề nghị Hội đồng nhân dân cấp tỉnh hủy bỏ hoặc bãi bỏ. Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân của đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt cũng cần được bổ sung cho phù hợp với pháp luật hiện hành. Do có những vấn đề mới phát sinh; không còn hình thức hủy bỏ văn bản trái pháp luật; phát sinh thêm hình thức văn bản quy phạm pháp luật do chính quyền ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt ban hành, nên các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phù và Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp trong việc xử lý văn bản trái pháp luật cũng cần được rà soát, xem xét để điều chỉnh, bổ sung cho bảo đảm thống nhất, phù hợp. Riêng về hình thức hủy bỏ văn bản trái pháp luật, để bảo đảm phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, khi xử lý theo thẩm quyền đối với văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật đương nhiên sẽ không áp dụng hình thức xử lý này. Song đối với trường hợp văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức văn bản quy phạm pháp luật; văn bản có chứa quy phạm pháp luật hoặc có thể thức và nội dung như văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan, người không có thẩm quyền tại Bộ, cơ quan ngang bộ và chính quyền địa phương ban hành, nếu cũng áp dụng hình thức xử lý bãi bỏ như các trường hợp khác t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoan_thien_co_che_kiem_tra_van_ban_quy_pham_phap_luat_cua_cac_co_quan_hanh_chinh_nha_nuoc_o_viet_nam.pdf
Tài liệu liên quan