NCS đã phân tích được thực trạng quy định pháp luật, thực tiễn
giao kết và thực hiện HĐDV logistics ở Việt Nam hiện nay. NCS phân tích
một số quy định hiện hành về HĐDV logistics, đánh giá những điểm phù
hợp và chưa phù hợp với thực tiễn giao kết thương mại. Đồng thời, NCS
cũng nêu ra được những kết quả đã đạt được và những khó khăn khi thực
hiện hợp đồng này. Điều cần lưu ý là không phải chủ thể nào cũng được
kinh doanh dịch vụ logistics mà chỉ những chủ thể đáp ứng được các điều
kiện kinh doanh nói chung và theo pháp luật chuyên ngành nói riêng mới
được gia nhập thị trường cung ứng dịch vụ logistics ở Việt Nam. HĐDV
logistics áp dụng nhiều nguồn pháp luật điều chỉnh trong đó có BLDS điều
chỉnh chung về hợp đồng, LTM điều chỉnh về HĐDV thương mại, các luật
chuyên ngành điều chỉnh các dịch vụ logistics cụ thể và các điều ước, tập
quán, thói quen thương mại, các cam kết quốc tế, các hiệp định thương mại
liên quan đến dịch vụ logistics
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 850 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hợp đồng dịch vụ logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoàn thiện một số quy định
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện HĐDV logistics ở Việt Nam hiện
nay.
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết nghiên cứu
Hợp đồng là một loại giao ước mà đặc điểm chung là sự thống nhất ý
chí, ý chí có vai trò quan trọng không thể thiếu được để hình thành hợp
đồng, làm phát sinh các nghĩa vụ pháp lý. Do đó, lý thuyết tự do ý chí được
tác giả tập trung nghiên cứu trước tiên. Tuy nhiên, tự do ý chí cần phải dung
hòa các lợi ích và trật tự xã hội. Để giải quyết vấn đề này cần phải dung hòa
hai thuyết tự do ý chí và thuyết xã hội bằng cách tôn trọng quyền tự do giao
kết hợp đồng và chỉ giới hạn sự tự do này bởi những nguyên nhân chính
đáng mà tiêu biểu là trật tự công cộng và đạo đức xã hội.
Ngoài ra, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, nghiên cứu lý thuyết
về kinh tế thị trường là cần thiết trong đó người mua và người bán dịch vụ
logistics tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả
và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu
Về lý luận: Khái niệm, đặc điểm, vai trò dịch vụ logistics là gì? Khái
niệm, đặc điểm, phân loại, nội dung, vai trò của HĐDV logistics? Nguồn
luật điều chỉnh, nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng, chủ thể, hình
thức, nội dung, điều kiện có hiệu lực và vô hiệu của HĐDV logistics,
trường hợp miễn trách và giới hạn trách nhiệm của bên cung ứng dịch vụ
logistics là gì?
Về thực tiễn: Thực trạng pháp luật về HĐDV logistics ở Việt Nam hiện
nay như thế nào? Kết quả và các vấn đề đặt ra trong việc giao kết và thực
hiện HĐDV logistics ở Việt Nam hiện nay ra sao?
Về giải pháp: Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về HĐDV
logistics hiện nay dựa trên các quan điểm nào? Giải pháp nhằm hoàn thiện
một số quy định pháp luật về HĐDV logistics và nâng cao hiệu quả thực
hiện HĐDV logistics ở Việt Nam hiện nay gồm những gì?
1.2.3. Giả thuyết nghiên cứu và dự kiến kết quả
Giả thuyết 1: HĐDV logistics là HĐDV thương mại đặc thù, đối
tượng của hợp đồng rất đa dạng, có tính chất phức tạp hơn nhiều HĐDV
thương mại khác.
Kết quả nghiên cứu (dự định): Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và
pháp luật về HĐDV logistics và thực tiễn giao kết HĐDV logistics.
Giả thuyết 2: Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, tham gia đàm phán và
ký kết nhiều hiệp định, thực hiện các cam kết quốc tế về logistics, hội nhập
9
kinh tế quốc tế và cùng với sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghệ 4.0,
số lượng, giá trị HĐDV logistics gia tăng, hình thức giao kết hợp đồng
phong phú, nội dung hợp đồng phức tạp hơn.
Kết quả nghiên cứu (dự định): Đánh giá thực trạng HĐDV logistics
trong những năm gần đây, từ đó nêu bật được những kết quả và hạn chế
trong việc giao kết và thực hiện HĐDV logistics.
Giả thuyết 3: Những bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam về
HĐDV logistics và nhận thức yếu kém của các doanh nghiệp về HĐDV
logistics là nguyên nhân chủ yếu xảy ra bất đồng, tranh chấp.
Kết quả nghiên cứu (dự định): Phân tích rõ những bất cập trong quy
định và thực trạng nhận thức của doanh nghiệp đối với HĐDV logistics,
đồng thời đề xuất giải pháp hoàn thiện một số quy định pháp luật về HĐDV
logistics ở Việt Nam hiện nay và nâng cao hiệu quả thi hành HĐDV
logistics bao gồm cả nâng cao nhận thức của các chủ thể.
1.2.4. Hướng tiếp cận nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu của luận án thuộc ngành Luật Kinh tế, do đó hướng
tiếp cận của đề tài là phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về HĐDV
logistics liên quan đến các khía cạnh pháp lý dưới góc độ Luật Kinh tế.
Kết luận Chương 1
Trong Chương 1, NCS đánh giá thực trạng các công trình đã công bố
liên quan đến đề tài luận án để xác định được các công trình trước đây đã
giải quyết được những gì liên quan đến đề tài “Hợp đồng dịch vụ logistics
theo pháp luật ở Việt Nam hiện nay” và trên cơ sở đó NCS kế thừa và tìm
ra cái mới của đề tài. Qua những nghiên cứu này, NCS nhận thấy:
Thứ nhất, dịch vụ logistics là một phần của chuỗi cung ứng được tiếp
cận với nhiều giác độ khác nhau. HĐDV logistics được hình thành qua sự
phát triển của các cấp độ dịch vụ logistics từ 1PL đến 5PL. Nghiên cứu
HĐDV logistics là vấn đề cần thiết trong thời kỳ hội nhập, góp phần hoàn
thiện pháp luật là yêu cầu bức thiết, phù hợp với lý luận và thực tiễn. Đây là
vấn đề mới, luôn có sự thay đổi và phát triển nhanh do sự phát triển của
công nghệ thông tin nên nhiều vấn đề pháp lý đã và đang phát sinh tác động
đến mô hình pháp luật điều chỉnh, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi
nhiều văn bản nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật, từ đó thúc đẩy việc giao
kết HĐDV logistics, thúc đẩy ngành dịch vụ logistics phát triển.
Thứ hai, hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam cũng đã có nhiều công
trình khác nhau về dịch vụ logistics, HĐDV và HĐDV logistics nhưng chưa
có công trình nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về HĐDV logistics để tìm ra
những bất cập, đưa ra các giải pháp hoàn thiện. Vì vậy, NCS chọn đề tài:
“HĐDV logistics theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến
10
sỹ luật học của mình. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu cơ
bản, toàn diện về lý luận và thực tiễn HĐDV logistics ở Việt Nam dưới góc
độ luận án tiến sỹ luật học. Những kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở
lý luận và thực tiễn có giá trị tham khảo đối với việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về HĐDV nói chung và HĐDV logistics nói riêng hiện tại
và trong tương lai.
Thứ ba, để đạt được mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu, luận
án dựa trên phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về nền kinh tế thị trường, dịch vụ
logistics trong điều kiện tự do hóa thương mại và hội nhập kinh tế. Đồng
thời, để triển khai nghiên cứu đề tài NCS kết hợp linh hoạt các phương
pháp như phương pháp thu thập thông tin, tổng hợp, phân tích, đánh giá, so
sánh, điều tra xã hội học, phỏng vấn chuyên gia và các phương pháp nghiên
cứu khác phù hợp với từng Chương của luận án.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ LOGISTICS
VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ LOGISTICS
2.1. Cơ sở lý luận về hợp đồng dịch vụ logistics
2.1.1. Khái niệm dịch vụ logistics
Hiện nay có nhiều khái niệm về dịch vụ logistics dưới nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Dưới góc độ luật học thì logistics là dịch vụ thương mại, theo
đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện nhiều dịch vụ liên quan đến việc lập kế
hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm soát việc vận chuyển và lưu trữ hàng hoá
(bao gồm cả các dịch vụ và những thông tin liên quan) từ điểm xuất phát đầu
tiên đến nơi tiêu thụ cuối cùng một cách hiệu quả nhất nhằm thỏa mãn tối đa
các yêu cầu của khách hàng.
2.1.2. Khái niệm hợp đồng dịch vụ logistics
Dưới góc độ luật học, HĐDV logistics là sự thỏa thuận giữa một bên
gọi là bên cung ứng dịch vụ và một bên gọi là bên sử dụng dịch vụ, theo đó
bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ thực hiện một hoặc nhiều dịch vụ logistics
còn bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán phí và sử dụng dịch vụ đã thỏa
thuận.
2.1.3. Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ logistics
HĐDV logistics có những đặc điểm sau: HĐDV logistics là thỏa thuận pháp
lý mang tính thương mại, phức tạp và giá/phí dịch vụ khó xác định; HĐDV
logistics là hợp đồng song vụ, hợp đồng ưng thuận hoặc hợp đồng gia nhập
và mang tính chất đền bù; HĐDV logistics có tính rủi ro cao; Hợp đồng dịch
vụ logistics có thể là hợp đồng dịch vụ vì lợi ích của người thứ ba; HĐDV
11
logistics điện tử có sự tham gia điều tiết của các chủ thể trung gian; HĐDV
logistics có thể có yếu tố quốc tế.
2.1.4. Phân loại hợp đồng dịch vụ logistics
Dựa vào khái niệm dịch vụ logistics: HĐDV logistics được chia thành
HĐDV logistics thực hiện một dịch vụ logistics và HĐDV logistics thực
hiện từ hai dịch vụ logistics trở lên.
Dựa vào hình thức giao kết HĐDV logistics: HĐDV logistics được chia
thành HĐDV logistics truyền thống HĐDV logistics điện tử.
2.1.5. Vai trò của hợp đồng dịch vụ logistics
HĐDV logistics có các vai trò sau: HĐDV logistics là cơ sở phát sinh
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể; HĐDV logistics là cơ sở để giải quyết
các tranh chấp giữa các chủ thể; HĐDV logistics là cơ sở để cơ quan nhà
nước có thẩm quyền kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các chủ
thể; HĐDV logistics là công cụ để các chủ thể gia nhập thị trường dịch vụ
logistics; Thông qua HĐDV logistics, 3PL thực hiện tốt vai trò của mình là
con thoi trong trung gian đa cấp.
2.2. Điều chỉnh pháp luật về hợp đồng dịch vụ logistics
2.2.1. Nguồn luật điều chỉnh của hợp đồng dịch vụ logistics
Nguồn luật điều chỉnh của hợp đồng dịch vụ logistics rất đa dạng, bao
gồm pháp luật quốc gia, pháp luật và điều ước quốc tế, hiệp định song
phương và đa phương, các cam kết quốc tế của Việt Nam, tập quán và các
thói quen thương mại.
2.2.2. Nguyên tắc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ logistics
Giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ logistics bao gồm các nguyên
tắc sau: Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận hợp đồng; Nguyên tắc thiện
chí, trung thực; Nguyên tắc áp dụng tập quán và thói quen thương mại;
Nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi; Nguyên tắc thừa nhận giá trị
pháp lý của các thông điệp dữ liệu điện tử; Nguyên tắc áp dụng pháp luật
bảo vệ người tiêu dùng.
2.2.3. Trình tự giao kết hợp đồng dịch vụ logistics
Đề nghị giao kết HĐDV logistics: Các chủ thể có mong muốn giao kết hợp
đồng thì phải biểu lộ cho chủ thể khác biết bằng một đề nghị giao kết hợp đồng.
HĐDV logistics thường là bên sử dụng dịch vụ bày tỏ ý chí trước vì họ là người có
hàng hóa, có nhu cầu sử dụng dịch vụ và họ sẽ chủ động tìm nhà cung cấp đáp ứng
giá cả và yêu cầu của mình. Đề nghị giao kết hợp đồng thường được thực hiện
bằng nhiều hình thức khác nhau như văn bản, lời nói và hành động khác.
Chấp nhận giao kết HĐDV logistics: Chấp nhận giao kết HĐDV
logistics là sự đồng ý toàn bộ nội dung của đề nghị giao kết, được thể hiện
bằng các hình thức như văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể. Hình thức trả
12
lời chấp nhận giao kết hợp đồng do hai bên thỏa thuận, trả lời ngay hoặc
một thời gian nhất định do hai bên thỏa thuận, thậm chí im lặng cũng có thể
được coi là đồng ý giao kết hợp đồng nếu các bên có quy định. Khi bên đề
nghị giao kết ấn định thời gian trả lời thì việc chấp nhận giao kết hợp đồng
chỉ có giá trị khi được thực hiện trong thời hạn đó.
2.2.4. Chủ thể của hợp đồng dịch vụ logistics
Chủ thể cung ứng dịch vụ logistics: Theo khả năng tài chính thì chủ thể
cung ứng dịch vụ logistics chia thành hai loại: Chủ thể sở hữu tài sản và chủ
thể không sở hữu tài sản. Theo chuyên ngành dịch vụ thì chủ thể cung ứng
dịch vụ logistics chia thành: Chủ thể cung cấp dịch vụ vận tải, chủ thể cung
cấp dịch vụ phân phối, chủ thể cung cấp dịch vụ hàng hóa và chủ thể
logistics chuyên ngành.
Chủ thể sử dụng dịch vụ logistics: Chủ thể sử dụng dịch vụ logistics là
những cá nhân hoặc tổ chức tham gia xác lập, thực hiện HĐDV logistics có
quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, chịu trách nhiệm về việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó.
2.2.5. Hình thức của hợp đồng dịch vụ logistics
Trừ một số HĐDV logistics bắt buộc phải lập thành văn bản (như hợp
đồng bảo hiểm hàng hóa, hợp đồng vận chuyển theo chuyến...) còn lại đa số
hình thức hợp đồng do các bên tự định đoạt, có thể bằng lời nói, bằng văn
bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
2.2.6. Nội dung chủ yếu của hợp đồng dịch vụ logistics
2.2.6.1. Điều khoản về thông tin của các chủ thể giao kết HĐDV
logistics
Hợp đồng chỉ được xác lập khi có từ hai bên tham gia thỏa thuận, do đó,
nội dung về chủ thể của hợp đồng là bắt buộc phải có, bao gồm thông tin về tên
cơ quan/tổ chức/cá nhân, địa chỉ, mã số thuế của cơ quan/tổ chức/cá nhân đó,
tên và chức danh của người đại diện hoặc người được ủy quyền giao kết hợp
đồng.
2.2.6.2. Điều khoản về đối tượng của HĐDV logistics
Đối tượng của HĐDV logistics là các dịch vụ logistics, đáp ứng các
điều kiện như dịch vụ đó không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội,
không vi phạm điều cấm của pháp luật.
2.2.6.3. Điều khoản về phí/giá dịch vụ và phương thức thanh toán của
HĐDV logistics
Phí/giá dịch vụ là số tiền mà bên sử dụng dịch vụ phải trả cho bên cung
cấp dịch vụ để nhận được lợi ích là kết quả công việc là đối tượng của
HĐDV logistics. Đây là điều khoản quan trọng của hợp đồng và nếu có
13
thay đổi trong quá trình thực hiện hợp đồng thì các bên phải đàm phán,
thương lượng lại.
2.2.6.4. Điều khoản về quyền và nghĩa vụ của chủ thể HĐDV logistics
Bên cung ứng dịch vụ có các quyền chủ yếu sau: Yêu cầu bên thuê dịch
vụ phải cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện để thực hiện dịch vụ vì
lợi ích của bên thuê dịch vụ; Thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên
thuê dịch vụ mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của bên thuê dịch vụ nếu
việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho bên thuê dịch vụ, nhưng phải báo ngay
cho bên thuê dịch vụ biết; Yêu cầu bên thuê dịch vụ phải trả tiền công theo
thỏa thuận trong hợp đồng; Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và
yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu bên thuê dịch vụ không thực hiện nghĩa vụ
của mình hoặc thực hiện không đúng như nghĩa vụ mà các bên đã cam kết;
Quyền cầm giữ hàng hóa.
Bên cung ứng dịch vụ có nghĩa vụ chủ yếu sau: Một là thực hiện việc
cung ứng dịch vụ; Hai là nghĩa vụ thay mặt khách hàng giao dịch với các
bên liên quan; Ba là nghĩa vụ bảo quản hàng hóa; Bốn là nghĩa vụ cảnh báo
rủi ro; Năm là các nghĩa vụ khác như giữ bí mật thông tin mà mình biết
được trong thời gian cung ứng dịch vụ. Nhiều hợp đồng, các chủ thể còn
quy định các bên không được tuyển dụng nhân sự của nhau, không được
chuyển giao quyền và nghĩa vụ cho bên thứ ba hoặc quy định về các hành vi
để chống tham nhũng, hối lộ đối với các cá nhân có ý định hưởng lợi ích từ
việc giao kết hợp đồng.
Bên sử dụng dịch vụ có các quyền chủ yếu sau: Yêu cầu bên cung ứng
dịch vụ thực hiện công việc theo đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa
điểm và các nội dung khác mà hai bên đã thỏa thuận; Đơn phương chấm
dứt thực hiện hợp đồng, yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu bên cung ứng
dịch vụ vi phạm nghĩa vụ. Trong trường hợp chất lượng, số lượng dịch vụ
không đạt được như thoả thuận hoặc công việc không được hoàn thành
đúng thời hạn do lỗi của bên cung ứng dịch vụ thì bên thuê dịch vụ có
quyền yêu cầu giảm phí dịch vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ chủ yếu sau: Một là nghĩa vụ hợp tác
và phối hợp với bên cung ứng dịch vụ; Hai là nghĩa vụ trả tiền; Ba là nghĩa
vụ sử dụng dịch vụ đúng mục đích; Bốn là nghĩa vụ cảnh báo những bất
thường của hàng hóa; Năm là các nghĩa vụ khác như giữ bí mật kinh doanh
và thông tin về đối tác, khách hàng, nhân sự trong quá trình sử dụng dịch vụ
mà bên thuê biết được, không được tuyển dụng nhân sự của nhau, không
được yêu cầu tiền hoa hồng, không được yêu cầu hưởng những lợi ích nào
đó từ việc giao kết hợp đồng.
14
2.2.6.5. Điều khoản về vi phạm và giải quyết tranh chấp phát sinh từ
HĐDV logistics
Để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên và đảm bảo việc thực hiện
đúng theo thỏa thuận trong hợp đồng thì các bên nên thỏa thuận về điều
kiện phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.
HĐDV logistics là hợp đồng thương mại được giải quyết theo trình tự
tranh chấp thương mại. Cách thức phổ biến được ghi nhận là các bên tự
thương lượng và hòa giải, trường hợp không thỏa thuận được thì các bên có
thể giải quyết bằng các cơ chế được nhà nước ghi nhận như kiện ra tòa án,
trọng tài thương mại.
2.2.6.6. Điều khoản chung của HĐDV logistics
Đối với HĐDV logistics truyền thống, các bên thoả thuận cụ thể thời
điểm bắt đầu có hiệu lực của hợp đồng, thời hạn thực hiện hợp đồng như
thời gian giao hàng, thời gian thực hiện dịch vụ, thời điểm kết thúc hợp
đồng, hợp đồng có tự động gia hạn hay không, hợp đồng được viết bằng bao
nhiêu ngôn ngữ, ngôn ngữ nào sẽ giá trị khi giải quyết tranh chấp và lập thành
bao nhiêu bản dưới sự quản lý của những bên nào.
2.2.7. Các trường hợp miễn trách của bên cung ứng dịch vụ logistics
Thực tế có nhiều sự cố nằm ngoài khả năng kiểm soát của các bên dẫn
đến một hoặc cả hai bên không thể thực hiện được hợp đồng dù không được
thỏa thuận trong hợp đồng thì pháp luật cũng quy định các trường hợp miễn
trách nhiệm cho các sự cố đó.
2.2.8. Giới hạn trách nhiệm của bên cung ứng dịch vụ logistics
Trong chuỗi logistics, hàng hóa và dịch vụ thường qua nhiều công
đoạn, giá trị lại rất lớn, bên cung ứng dịch vụ không thể đền bù được toàn
bộ giá trị tổn thất nếu có thiệt hại xảy ra. Giới hạn trách nhiệm của bên cung
ứng dịch vụ đặt ra là phù hợp với thông lệ quốc tế vì thực tế rất dễ xảy ra
những tổn thất trong vận chuyển như hàng rách vỡ, đâm va hư hỏng là điều
khó tránh khỏi. Những tổn thất này nằm ngoài ý chí chủ quan của bên cung
ứng dịch vụ.
2.2.9. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dịch vụ logistics
Điều kiện có hiệu lực của HĐDV logistics giống như điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng nói chung là đáp ứng các điều kiện là chủ thể ký kết hợp
đồng phải hợp pháp, chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện,
mục đích và nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội,
thủ tục và hình thức của hợp đồng (nếu có pháp luật có quy định).
2.2.10. Những trường hợp vô hiệu của hợp đồng dịch vụ logistics
Căn cứ vào thủ tục tố tụng, HĐDV logistics vô hiệu chia thành hai loại:
HĐDV logistics vô hiệu tuyệt đối và HĐDV logistics vô hiệu tương đối.
15
Căn cứ vào phạm vi bị vô hiệu, HĐDV logistics vô hiệu chia thành:
HĐDV logistics vô hiệu toàn bộ và HĐDV logistics vô hiệu từng phần.
HĐDV logistics vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền
và nghĩa vụ các bên kể từ thời điểm giao kết. Các bên hoàn trả các lợi ích
thu được từ hợp đồng vô hiệu.
Kết luận Chương 2
HĐDV logistics là một loại hợp đồng dịch vụ đặc thù hình thành từ
thỏa thuận giữa bên cung ứng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ logistics. Quy
định pháp luật về HĐDV logistics tồn tại độc lập với tư cách là một bộ
phận, một ngành độc lập trong hệ thống pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam,
điều chỉnh hiệu quả các quan hệ cung ứng dịch vụ logistics. Xây dựng các
khái niệm về HĐDV logistics cũng như nhận định được chính xác bản chất,
đặc điểm của hợp đồng này có vai trò quan trọng trong việc xác định cấu
trúc pháp luật gồm hai bộ phận chính là cơ cấu bên trong (các nội dung chủ
yếu) và cơ cấu bên ngoài (hình thức, hệ thống văn bản chứa quy phạm). Kết
thúc Chương 2, NCS đã làm rõ các nội dung sau:
Một là, NCS đã khái quát lý luận về HĐDV logistics trong đó luận giải
khái niệm về dịch vụ logistics và HĐDV logistics. Cho đến nay các nhà
nghiên cứu vẫn chưa đi đến thống nhất chung về khái niệm dịch vụ
logistics, còn nhiều các quan điểm khác nhau phụ thuộc vào cách tiếp cận,
giác độ nghiên cứu. Nghiên cứu về khái niệm dịch vụ logistics, khái niệm,
đặc điểm, phân loại và vai trò của HĐDV logistics là cơ sở khoa học cho
việc nghiên cứu những nội dung tiếp theo của đề tài.
Hai là, NCS chỉ ra được cấu trúc pháp luật của HĐDV logistics, trong
đó làm rõ nguồn luật điều chỉnh, nguyên tắc giao kết, trình tự giao kết, chủ
thể, hình thức và nội dung cơ bản của HĐDV logistics, điều kiện có hiệu
lực và các trường hợp vô hiệu của HĐDV logistics. Luận giải các vấn đề
này sẽ làm cơ sở để phân tích thực trạng HĐDV logistics theo pháp luật
Việt Nam hiện nay trong Chương 3.
Ba là, NCS cũng phân tích một số khái niệm theo pháp luật của các
quốc gia về HĐDV và dịch vụ logistics. Quá trình hoàn thiện HĐDV không
thể không có những điều chỉnh đảm bảo tính tương thích giữa pháp luật
Việt Nam và pháp luật các quốc gia trên thế giới. Những điểm tích cực, văn
minh của các quốc gia, khu vực và thế giới sẽ là bài học cho Việt Nam hoàn
thiện các quy định pháp luật về HĐDV logistics. Dựa trên kinh nghiệm từ
các nước nghiên cứu đã cho thấy khái niệm về dịch vụ logistics mỗi quốc
gia rất khác nhau nhưng có điểm chung là đều thừa nhận đây là một chuỗi
những hoạt động có liên quan đến vận tải, vận chuyển hàng hóa. Một số
quốc gia không quy định dịch vụ logistics là ngành kinh doanh có điều kiện
16
và chỉ quy định điều kiện kinh doanh một số dịch vụ cụ thể. Đây là một
trong những nội dung NCS sẽ so sánh, nghiên cứu, phân tích, đề xuất các
giải pháp ở Chương 4 của luận án.
Chương 3
THỰC TRẠNG VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ LOGISTICS
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Thực trạng một số quy định pháp luật về hợp đồng dịch vụ
logistics
3.1.1. Quy định về chủ thể của hợp đồng dịch vụ logistics
Chủ thể cung ứng dịch vụ logistics: Theo LTM 2005 thì chủ thể kinh
doanh dịch vụ logistics gọi là các thương nhân. Dịch vụ logistics là ngành
nghề kinh doanh có điều kiện, điều kiện này được quy định tại Mục 61, Phụ
lục 4 của Luật Đầu tư năm 2014 và Mục 60, Phụ lục 4 của Luật sửa đổi bổ
sung Điều 6 và Phụ lục 4 về Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều
kiện của Luật Đầu tư. Chủ thể cung ứng dịch vụ logistics thực hiện việc cung
ứng theo các điều kiện quy định tại Nghị định số 163/2017/NĐ-CP.
Chủ thể sử dụng dịch vụ logistics: Chủ thể sử dụng dịch vụ logistics là
các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics và tìm nhà cung
cấp dịch vụ này để đàm phán và ký kết HĐDV logistics. Để tham gia xác
lập, thực hiện hợp đồng chủ thể phải có năng lực hành vi nhất định theo quy
định của BLDS 2015 và các quy định về giao dịch điện tử nếu họ giao kết
bằng HĐDV logistics điện tử.
3.1.2. Quy định về hình thức của hợp đồng dịch vụ logistics
Hiện nay theo quy định của LTM 2005, HĐDV logistics là một HĐDV
thương mại và tuân thủ quy định về hình thức tại điều Điều 74 về hình thức
hợp đồng dịch vụ.
3.1.3. Quy định về trình tự giao kết hợp đồng dịch vụ logistics
Trình tự giao kết HĐDV logistics tuân thủ trình tự giao kết hợp đồng
nói chung bao gồm các bước chính là: Đề nghị giao kết hợp đồng và chấp
nhận giao kết hợp đồng theo BLDS 2015, Chương 4 Luật Giao dịch điện tử
2005 và Chương 2 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/05/2013 của
Chính phủ về thương mại điện tử trong trường hợp hợp đồng dịch vụ
logistics được ký qua các giao dịch điện tử.
3.1.4. Quy định về đối tượng của hợp đồng dịch vụ logistics
Công việc được thực hiện trong HĐDV logistics là các dịch vụ
logistics. Trường hợp khách hàng yêu cầu nhiều dịch vụ thì có thể liệt kê
trong danh mục/phụ lục kèm theo hợp đồng như một số hợp đồng NCS đã
thu thập được trong quá trình nghiên cứu tại các doanh nghiệp.
17
3.1.5. Quy định về phí/giá của dịch vụ logistics, thời hạn và phương
thức thanh toán của hợp đồng dịch vụ logistics
Phí/giá dịch vụ là điều khoản quan trọng của HĐDV logistics và do các
bên tự thỏa thuận. Đặc thù của hợp đồng này là có phí/giá dịch vụ hay thay
đổi do có sự biến động về giá xăng dầu của thị trường.
Về thời hạn và phương thức thanh toán pháp luật hiện nay quy định rất
linh hoạt. Phương thức thanh toán cho các bên thỏa thuận có thể bằng tiền
mặt, chuyển khoản qua ngân hàng hoặc bằng bất cứ cách nào các bên tự
thỏa thuận. Trường hợp không có thỏa thuận và giữa các bên không có bất
kỳ thói quen nào về việc thanh toán thì thời hạn thanh toán là thời điểm việc
cung ứng dịch vụ được hoàn thành (Điều 87 LTM 2005).
3.1.6. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể hợp đồng dịch
vụ logistics
Bên cung ứng dịch vụ có quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều từ 78
đến Điều 84, nghĩa vụ cơ bản của khách hàng được quy định tại Điều 85
LTM năm 2005 và. Các bên trong HĐDV logistics ngoài các quyền và
nghĩa vụ nói chung trên còn phải tuân thủ các quyền và nghĩa vụ được quy
định trong Mục 4 về dịch vụ logistics của LTM 2005 (từ Điều 235 đến Điều
240). Điều 85, Điều 87 và Điều 236 LTM 2005 đề cập tới nghĩa vụ thanh
toán, thời hạn của khách hàng.
3.1.7. Quy định về phương thức giải quyết tranh chấp và luật áp dụng
trong hợp đồng dịch vụ logistics
Tranh chấp HĐDV logistics trước hết được giải quyết thông qua
thương lượng của các bên. Nếu các bên không thương lượng được thì đề
nghị trọng tài hoặc toà án phân giải. Ở Việt Nam, trước năm 2016, khả năng
tự do lựa chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng có yếu tố nước
ngoài chưa được nêu thành nguyên tắc chung. Hiện nay quy định pháp luật
Việt Nam có xu hướng tạo điều kiện cho các bên chọn luật nước ngoài và
tập quán thương mại.
3.1.8. Quy định về các trường hợp miễn trách của bên cung ứng dịch
vụ logistics
Các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của LTM
2005. Ngoài ra, thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics không phải chịu
trách nhiệm về những tổn thất đối với hàng hoá phát sinh theo quy định tại
Điều 237 LTM năm 2005.
3.1.9. Quy định về giới hạn trách nhiệm của bên cung ứng dịch vụ
logistics
Giới
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hop_dong_dich_vu_logistics_theo_phap_luat_viet_nam_h.pdf