Luận án Hợp tác an ninh – quốc phòng giữa Asean và Mỹ giai đoạn 1991 - 2015

LỜI CAM ĐOAN . i

MỤC LỤC. ii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT. iv

DANH MỤC CÁC BẢNG. vi

MỞ ĐẦU .1

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .8

1.1. Những nghiên cứu của các tác giả trong nước và quốc tế.8

1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra luận án cần làm rõ.27

Tiểu kết chương 1.28

Chương 2

NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN TÁC ĐỘNG ĐẾN HỢP TÁC AN NINH -

QUỐC PHÒNG GIỮA ASEAN VÀ MỸ TỪ SAU NĂM 1991.30

2.1. Bối cảnh quốc tế .30

2.2. Khái quát quan hệ hợp tác ASEAN - Mỹ trước năm 1991 .48

2.3. Nhu cầu hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ từ sau năm

1991.52

Tiểu kết chương 2.60

Chương 3

THỰC TRẠNG HỢP TÁC AN NINH - QUỐC PHÒNG GIỮA ASEAN VÀ

MỸ TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2015.62

3.1. Cơ chế hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ.62

3.2. Hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ trên một số vấn đề chủ

yếu.84

3.3. Hợp tác an ninh - quốc phòng giữa một số nước thành viên ASEAN và Mỹ

.108

Tiểu kết chương 3.121

pdf301 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 379 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hợp tác an ninh – quốc phòng giữa Asean và Mỹ giai đoạn 1991 - 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đứng trước nguy cơ phải ngồi chầu rìa và bỏ lỡ nhiều cơ hội hợp tác ở khu vực. Việc lôi kéo Mỹ tham gia vào các cơ chế hợp tác an ninh đa phương của ASEAN đã giúp ASEAN đạt được nhiều mục tiêu quan trọng. ASEAN không chỉ nâng cao được vị thế, vai trò trên trường quốc tế mà còn thực hiện được chính sách cân bằng quyền lực giữa các nước lớn (với Mỹ và Trung Quốc) và tận dụng được sự ủng hộ từ các đồng minh thân thiết của Mỹ "sự ủng hộ mạnh mẽ từ Hoa Kỳ đối với ASEAN đã dẫn tới việc ASEAN có được sự tôn trọng và ủng hộ từ những nước đồng minh chủ chốt của Mỹ như Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc, 134 Canada, Australia và New Zealand" [92, tr.107]. Trong vấn đề Biển Đông, ASEAN đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ Mỹ và "hoan nghênh lập trường của Mỹ giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thông qua luật pháp quốc tế. Đặc biệt gần đây, Chính phủ Mỹ đã công khai tuyên bố một cách rõ ràng rằng cái gọi là "đường lưỡi bò 9 đoạn" của Trung Quốc là bất hợp pháp, trái với luật quốc tế, đồng thời liên tục cảnh báo Trung Quốc không có hành động mới làm leo thang xung đột ở vùng biển này, trong đó có việc thiết lập ADIZ và nhấn mạnh rằng, ASEAN và Trung Quốc cần nhanh chóng có một Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC)" [75, tr.290]. Có thể nói, thái độ ngày một rõ ràng của Mỹ trong vấn đề Biển Đông đã giúp ASEAN và các nước thành viên có thêm sức mạnh và sự tự tin trong quá trình theo đuổi đàm phán với Trung Quốc vì một COC ngày càng thực chất hơn và phần nào kìm chế những hành động đơn phương của Trung Quốc. Tuy nhiên, không chỉ "bị lôi kéo", Mỹ cũng đã "chủ động can dự" tích cực vào các vấn đề an ninh của ĐNA. Một mặt Mỹ tham gia tích cực vào các cơ chế hợp tác an ninh đa phương của ASEAN để tìm kiếm phương thức lãnh đạo mới, mặt khác Mỹ chủ động thiết lập các kênh đối thoại cấp cao mà điển hình là các Hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Mỹ. Thông qua các kênh hợp tác, Mỹ đã chủ động đưa ra nhiều sáng kiến, cam kết an ninh với khu vực như: tăng cường hợp tác chống khủng bố, tăng cường hợp tác môi trường, hợp tác thực thi an ninh, an toàn hàng hải. Đặc biệt trong vấn đề Biển Đông, Mỹ ngày càng có thái độ mạnh mẽ, rõ ràng trong ủng hộ các quan điểm, cách thức giải quyết tranh chấp của ASEAN, phản đối hành động đơn phương đe dọa sử dụng vũ lực và vi phạm Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982. Mỹ cũng tìm mọi các để tăng cường hoạt động hiện diện quân sự ở khu thông qua cuộc chiến chống khủng bố quốc tế (2002), chính sách xoay trục sang châu Á (2011). Trên cơ sở đó, các hoạt động tham vấn, trao đổi đoàn quân sự các cấp, trao đổi thông tin liên lạc, tình báo,v.v. được tăng cường. Với Trung Quốc, Mỹ ủng hộ và hối thúc Trung Quốc tham gia vào các cơ chế hợp tác an ninh đa phương của ASEAN nhằm ràng buộc cam kết, trách nhiệm của Trung Quốc với an ninh khu vực. Trong quan hệ với các nước đồng minh, đối tác thuộc khối ASEAN. Mỹ không ngừng nâng cấp quan hệ thông qua các thỏa thuận, cam kết quân sự. Các hoạt động thăm viếng, viện trợ, hỗ trợ trang thiết bị kỹ thuật quân sự, đào tạo, tập trận quân sự 135 được đẩy mạnh. Đặc biệt, Mỹ thúc đẩy quan hệ với những nước là đồng minh, những nước có vị trí trọng yếu và có tranh chấp chủ quyền trực tiếp với Trung Quốc. Mục đích là Mỹ tìm cách bố trí lại các căn cứ quân sự ở khu vực, tăng cường tập hợp lực lượng thân Mỹ, nâng cao năng lực quân sự cho những nước có mâu thuẫn lợi ích với Trung Quốc nhằm tăng cường can dự, đối phó với Trung Quốc. Nhìn chung, dù "bị lôi kéo" hay "chủ động can dự" vào khu vực ĐNA, thì mục đích của Mỹ vẫn là sử dụng ASEAN và các nước thành viên như một công cụ nhằm ngăn chặn, chống lại một Trung Quốc đang trỗi dậy đúng như lời nhận xét: "Khi cạnh tranh về địa chính trị Trung - Mỹ tăng lên trong những thập kỷ tiếp theo, chắc chắn hai nước này sẽ cố gắng lôi kéo và sử dụng ASEAN như một công cụ địa chính trị chống lại bên kia" [92, tr.147]. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn cả, chính ASEAN chứ không phải là Mỹ hay Trung Quốc mới là người giữ vai trò trung tâm, người cầm lái chính điều phối các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh - quốc phòng đa phương ở khu vực, "ASEAN đã tạo ra một nền tảng ngoại giao cần thiết để thường xuyên tập hợp các cường quốc lại với nhau,... ASEAN đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho các cường quốc đối thoại với nhau. Trong ASEAN, một văn hóa hòa bình đã phát triển như là kết quả của việc hấp thụ phong tục musyawarah và mufakat (tham vấn và đồng thuận)" [92, tr.13]. Hay như cựu Bộ trưởng Ngoại giao của Singapore, ngài George Yeo từng phát biểu rằng: "Cuối cùng tất cả mọi người đi đến kết luận rằng dù ASEAN vụng về, không hiệu quả, không năng động thì có ASEAN vẫn tốt hơn là không. Đó chính là tinh thần trong chính sách ngoại giao của ASEAN. Cuối cùng, hầu hết với nụ cười chế giễu, họ chấp nhận ASEAN nên ngồi trên ghế lái xe. Đúng, sự lãnh đạo của ASEAN được ưa thích nhất bởi những tài xế kia không tin tưởng nhau" [92, tr.14-15]. 4.1.5. Hợp tác an ninh - quốc phòng ASEAN - Mỹ chủ yếu dựa trên các tham vấn, ủng hộ, chia sẻ kinh nghiệm, tính pháp lý và hiệu quả chưa cao Hợp tác an ninh - quốc phòng ASEAN và Mỹ trong thời gian qua nhất là từ thập niên đầu của thế kỷ XXI có những bước phát triển mạnh mẽ. Các nhà lãnh đạo ASEAN và Mỹ thường xuyên tổ chức các hội nghị gặp mắt, quan hệ hai bên được nâng cấp, Mỹ không chỉ tích cực tham gia vào các cơ chế do ASEAN khởi xướng như ARF, EAS, ADMM+,v.v. mà còn đưa ra nhiều sáng kiến, đề xuất chương trình 136 hợp tác với ASEAN và các nước thành viên trong các vấn đề như chống khủng bố, an ninh môi trường, an ninh biển, cứu nạn do thảm họa thiên tai, chống phổ biến vũ khí hạt nhân và buôn bán vũ khí trên biển, tập trận quân sự, tuần tra trên biển, v.v. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được, thì quan hệ giữa hai bên vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, các hoạt động hợp tác chủ yếu dựa trên sự tham vấn, ủng hộ, giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm vì vậy tính pháp lý và hiệu quả hợp tác chưa cao. Việc ASEAN bàn thảo vấn đề an ninh trong nhiều cơ chế hợp tác dẫn đến nội dung dàn trải và thiếu tập trung. Trong vấn đề giải quyết tranh chấp trên Biển Đông, Mỹ đã thay đổi thái độ từ không can thiệp, không đứng về bên nào trong tranh chấp sang quan tâm, can dự và nỗ lực giúp đỡ các bên liên quan để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự quan tâm, can thiệp của Mỹ không làm cho tình hình dịu đi mà có chiều hướng căng thẳng và phức tạp hơn. Nguyên nhân chính của những hạn chế là do Mỹ và ASEAN có khác nhau về lợi ích và cách tiếp cận về an ninh. Với ASEAN, đây là một liên minh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội chứ không phải là liên minh quân sự mặc dù hợp tác an ninh luôn là một nội dung quan trọng và được đề cao. ASEAN đã xây dựng cho mình một cơ chế hợp tác an ninh dựa trên sự tham vấn, chia sẻ kinh nghiệm và xây dựng lòng tin. Trong khi đó, mục tiêu của Mỹ là duy trì vị thế, vai trò ảnh hưởng số một ở khu vực ĐNA, ngăn chặn các mối đe dọa tới lợi ích của Mỹ nhưng lại ít quan tâm tới lợi ích của các nước khác. Việc các nước ASEAN không có chủ trương liên minh quân sự, không xây dựng lực lượng quân đội chung, mà chỉ thông quan các cơ chế, diễn đàn đa phương để kêu gọi các nước đối tác có trách nhiệm trong vấn đề an ninh khu vực, do vậy sẽ rất khó khăn cho Mỹ trong triển khai kế hoạch, lôi kéo ASEAN đứng về phía Mỹ để chống lại một bên nào đó, sự kiện năm 2004, khi Mỹ đề nghị một số nước ASEAN tiến hành tập trận chung ở khu vực eo biển Malacca và bị Indonesia và Malaysia khước từ là một ví dụ. 4.2. Tác động của quan hệ an ninh - quốc phòng ASEAN - Mỹ 4.2.1. Đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương 4.2.1.1. Mặt tích cực Một là, hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ đã mở ra cơ hội tăng cường hợp tác và khuyến khích xu hướng giải quyết xung đột, tranh chấp bằng 137 biện pháp hòa bình. Mỹ mặc dù có mối quan hệ đồng minh song phương với 5 quốc gia ở châu Á là Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Thái Lan và Philippine nhưng Mỹ vẫn tăng cường quan hệ an ninh với ASEAN thông qua các cơ chế đa phương nhằm củng cố và bảo vệ các lợi ích của Mỹ ở châu Á. ASEAN vì muốn xây dựng môi trường hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển nên có tham vọng xây dựng cấu trúc an ninh cho khu vực Đông Á và rộng hơn là toàn châu Á. ASEAN tăng cường hợp tác an ninh với Mỹ - một cường quốc chính trị, quân sự hàng đầu trên thế giới không chỉ góp phần ngăn chặn hoạt động buôn bán vũ khí trái phép, chủ nghĩa khủng bố, kiểm soát phát triển vũ khí hủy diệt mà còn góp phần quan trọng trong việc đưa ra phương hướng và các biện pháp giải quyết, xử lý 4 điểm nóng về an ninh phức tạp ở khu vực châu Á trong thời gian qua là: vấn đề bán đảo Triều Tiên, Biển Hoa Đông, Biển Đông và vấn đề Đài Loan. Điều đáng nói trong vấn đề này, những nỗ lực của các bên liên quan là chưa đủ nếu thiếu sự tham gia của cộng đồng quốc tế, trong đó vai trò của tổ chức Liên Hợp quốc, ASEAN và Mỹ là rất to lớn. Hai là, quan hệ an ninh – quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ đã khuyến khích các bên đưa ra những sáng kiến, cơ chế hợp tác an ninh có hiệu quả ở khu vực châu Á. Việc Mỹ và các nước đồng minh chấp thuận tham gia vào các sáng kiến, cơ chế hợp tác an ninh đa phương của ASEAN như: Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á (Đối thoại Shangi-La), v.v là nằm trong toan tính của Mỹ, tuy nhiên ở một khía cạnh khác đã khích lệ ASEAN và các nước đưa ra các sáng kiến, xây dựng mô hình hợp tác an ninh hiệu quả ở châu Á. Bên cạnh mô hình hợp tác an ninh song phương, mô hình, cơ chế hợp tác an ninh đa phương của ASEAN qua đó từng bước khẳng định được vị thế và chỗ đứng ở châu Á. Dựa trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp, gắn với trách nhiệm của các bên đã giúp khu vực châu Á kiểm soát tốt những vấn đề an ninh phức tạp mang tính chất xuyên quốc gia, duy trì tương đối trật tự quyền lực ở khu vực, ngăn chặn các hành động mang tính đơn phương, đề cao nguyên tắc tuân thủ luật lệ và chuẩn mực trong quan hệ quốc tế. Ba là, hợp tác an ninh - quốc phòng giữa ASEAN và Mỹ được tăng cường là cơ sở thúc đẩy các cường quốc điều chỉnh chính sách an ninh ở khu vực theo hướng tăng cường cạnh tranh ảnh hưởng. Trong đó, cạnh tranh Mỹ - Trung trên nhiều lĩnh 138 vực ngày càng quyết liệt và rõ nét hơn cả, khu vực CA – TBD nói chung và ĐNA nói riêng trở thành địa bàn trọng điểm trong cuộc tranh đua giành quyền lãnh đạo giữa Mỹ và Trung Quốc. Phía Trung Quốc, lợi dụng sự suy yếu tương đối của Mỹ và sự gia tăng sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự, thời gian qua Trung Quốc đã không ngừng tăng cường ảnh hưởng ở khu vực châu Á, không ngần ngại ve vãn, lôi kéo ngay cả các nước là đồng minh của Mỹ. Phía Mỹ, để bảo vệ lợi ích của mình đã tăng cường quan hệ với các đồng minh, đối tác để bảo vệ lợi ích ở khu vực và duy trì lợi thế trong cuộc cạnh tranh với Trung Quốc. Phía Nhật Bản, chính sách “hướng Nam” của nước này không đơn thuần chỉ tập trung ở lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư, mà cả trên lĩnh vực quân sự quốc phòng. Việc Trung Quốc gia tăng sức mạnh quân sự, Mỹ thi hành chính sách xoay trục sang châu Á và những thách thức an ninh mới ở khu vực là nguyên nhân khiến nước Nhật nâng cấp Cục Phòng vệ Nhật Bản thành Bộ Quốc phòng Nhật Bản (2007), sửa đổi Hiến pháp cho phép lực lượng Tự vệ Nhật Bản được hành động bảo vệ đồng minh khi bị tuyên chiến (2014) và tìm kiếm quan hệ an ninh với ASEAN và các nước thành viên thông qua tập trận quân sự, trao đổi thông tin, hỗ trợ nâng cấp thiết bị quân sự, đào tạo,v.v. Với Ấn Độ, là nước lớn và có lợi ích an ninh quan trọng ở châu Á, bước sang thế kỷ XXI, Ấn Độ đã đẩy mạnh chính sách “hướng Đông” nhằm tăng cường quan hệ với các quốc gia ĐNA và khẳng định vị thế ở khu vực châu Á trong bối cảnh Trung Quốc đang trỗi dậy và thách thức các lợi ích của Ấn Độ. 4.2.1.2. Mặt hạn chế Một là, việc Mỹ tăng cường hợp tác an ninh – quốc phòng với ASEAN cũng góp phần kích động các phản ứng đến từ Trung Quốc. Phía Trung Quốc cho rằng Mỹ tập hợp lực lượng để chống lại họ và họ sẽ phản ứng bằng hành động đáp trả và gây áp lực lên các nước nhỏ ở khu vực ĐNA và rộng hơn là châu Á. Điều này vô hình chung đẩy các nước đứng trước sự lựa chọn hoặc Mỹ hoặc Trung Quốc, và dù chọn ai thì những nước trên đều gặp phải những bất lợi, chủ quyền quốc gia có thể bị xâm phạm. Hai là, các nước lớn tăng cường can dự, dính líu vào khu vực làm cho cấu trúc an ninh, trật tự khu vực CA – TBD không ngừng biến động. Các điểm nóng về an ninh ở khu vực có xu hướng bị lợi dụng và chịu sự tác động từ bên ngoài, điều 139 này làm cho những mâu thuẫn, căng thẳng không giảm bớt mà có diễn biến phức tạp hơn. Tâm lý bất an rất có thể sẽ đẩy khu vực CA – TBD vào một cuộc chạy đua vũ trang không có hồi kết. Ba là, ở phạm vi hẹp, các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc – điểm Mỹ coi là còn yếu ở một số nước châu Á sẽ được Mỹ triệt để lợi dụng để gây áp lực lên một số nước châu Á có xung đột lợi ích với Mỹ, mang tư tưởng bài Mỹ và không đi theo quỹ đạo của Mỹ. 4.2.2. Đối với ASEAN 4.2.2.1. Mặt tích cực Thứ nhất, về an ninh - quốc phòng, việc ASEAN phát triển quan hệ với Mỹ - một cường quốc quân sự trên thế giới đã giúp ASEAN và các nước thành viên có cơ hội được tiếp cận với các thiết bị quân sự hiện đại, qua đó nâng cao thực lực quân sự góp phần duy trì môi trường hòa bình, an ninh và phát triển ở khu vực cũng như bảo vệ chủ quyền quốc gia. Thông qua hoạt động mua bán vũ khí, chuyển giao khoa học công nghệ quân sự, cũng như các hoạt động tài trợ quân sự từ Mỹ mà ASEAN có thể nâng cao năng lực các tổ hợp công nghiệp quốc phòng. Mặt khác, việc Mỹ tăng cường tham gia vào các cơ chế an ninh của ASEAN như ARF, EAS, ADMM+ và tăng cường hỗ trợ ASEAN và các đồng minh, đối tác ở khu vực trong hoạt động huấn luyện, tập trận quân sự, tuần tra, trao đổi thông tin đã giúp ASEAN và các nước thành viên nâng cao kỹ năng thực hành chiến đấu, năng lực giám sát và kiểm soát an ninh trên biển và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Sự can dự của Mỹ vào các vấn đề "nóng", "gai góc" ở khu vực như vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, vấn đề an ninh và an toàn hàng hải, vấn đề đối phó với chủ nghĩa khủng bố và ly khai dân tộc, thách thức môi trường và ứng phó với thảm họa thiên tai,v.v. đã phần nào giúp ASEAN "kiền chế" hành động hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, ngăn chặn nguy cơ để xảy ra khủng bố, ly khai và giảm thiểu những tác động tiêu cực từ thảm họa thiên tai qua đó giúp ASEAN hoàn thành mục tiêu chiến lược là duy trì nền hòa bình, an ninh, ổn định và phát triển ở khu vực. Thứ hai, mặc dù quan hệ ASEAN - Mỹ trong thập niên cuối của thế kỷ XX có suy giảm nhưng ngay sau đó hai bên đã dần tìm thấy những giá trị chung để xích lại gần nhau hơn. Việc Mỹ tham gia và công nhận các cơ chế hợp tác đa phương của 140 ASEAN, điều này khiến các nước đồng minh của Mỹ cũng quan tâm đến hoạt động của ASEAN, qua đó vị thế và tầm ảnh hưởng của ASEAN trên trường quốc tế ngày một tăng cao. ASEAN trên cơ sở đó có thể thực hiện được chính sách "cân bằng nước lớn" trong quan hệ với các cường quốc, giữ được vai trò "trung tâm", "người cầm lái" trong các diễn đàn đa phương ở khu vực và góp phần quan trọng vào tiến trình duy trì nền hòa bình, an ninh, thịnh vượng ở ĐNA và rộng hơn là khu vực CA - TBD. Thứ ba, việc Mỹ tăng cường giúp đỡ và ủng hộ ASEAN trong tiến trình liên kết khu vực và hoàn thiện tổ chức đã giúp ASEAN trưởng thành nhanh chóng và hoàn thành được mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN trong đó có Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC). Mỹ có vai trò quan trọng trong tiến trình thúc đẩy liên kết khu vực ASEAN. Việc hai bên đưa ra "Tuyên bố Tầm nhìn chung về quan hệ đối tác tăng cường ASEAN - Mỹ" vào năm 2005, ký "Kế hoạch hành động vì quan hệ đối tác tăng cường" năm 2006 và phía Mỹ chủ động đưa ra "Chương trình Tầm nhìn phát triển ASEAN" (ADVANCE) vào năm 2008, trong đó phía Mỹ cam kết viện trợ hàng trăm triệu USD trong 8 năm để hỗ trợ ASEAN hiện thực hóa cộng đồng ASEAN trước và sau năm 2015. Các dự án được triển khai như: Hỗ trợ kỹ thuật và phương tiện đào tạo, làm việc trực tiếp với Ban Thư ký ASEAN, Dự án về Quan hệ đối tác về Quản trị công, Phát triển và An ninh Công bằng và Bền vững,v.v. Trên cơ sở ủng hộ và giúp đỡ của Mỹ đã góp phần giúp ASEAN hoàn thành mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Bên cạnh đó, việc Mỹ tăng cường quan hệ chính trị - an ninh với ASEAN cũng giúp tổ chức cân bằng lợi ích chiến lược giữa các nước lớn, hóa giải những áp lực và thách thức an ninh đến từ phía Trung Quốc, qua đó giúp ASEAN có thể tránh được sự lệ thuộc hay lôi kéo từ một cực quyền nào đó. 4.2.2.2. Mặt hạn chế Thứ nhất, bên cạnh lợi ích chung trong vấn đề an ninh khu vực, giữa Mỹ và ASEAN cũng có những lợi ích hết sức khác nhau. Sự tăng cường can dự của Mỹ đối với ĐNA khiến một số quốc gia thành viên ASEAN quan ngại về khả năng Mỹ sẽ tăng cường can thiệp, chia rẽ và lôi kéo các nước ASEAN vào liên minh quân sự do Mỹ lãnh đạo, hoặc Mỹ sẽ tìm cách tăng cường sự hiện diện quân sự để kiểm soát và khống chế những điểm trọng yếu ở khu vực như eo biển Malacca vùng Biển 141 Đông. Nếu điều này xảy ra, Mỹ sẽ ngăn cản tiến trình hợp tác an ninh của ASEAN ở khu vực ĐNA và rộng hơn là khu vực CA - TBD, đi ngược lại với chủ trương hoan nghênh đóng góp của các nước lớn vào vấn đề an ninh khu vực và tinh thần độc lập tự chủ của ASEAN trong quan hệ với các nước lớn. Thứ hai, việc Mỹ tăng cường quan hệ với ASEAN và can dự sâu vào nhiều vấn đề ở khu vực đã gây ra những khó xử nhất định cho ASEAN trong quan hệ với Trung Quốc. Với tư cách một cường quốc đang trỗi dậy, đương nhiên Trung Quốc không muốn ASEAN xích lại gần Mỹ, điều này buộc họ có biện pháp hành động mang chiều hướng tiêu cực như: tăng cường tập hợp lực lượng, lôi kéo các thành viên ASEAN bằng viện trợ kinh tế, quân sự và gây ảnh hưởng chính trị; thúc đẩy những hành xử hung hăng và quyết liệt hơn với các nước thuộc ASEAN có tranh chấp với Trung Quốc trên Biển Đông để cảnh báo các nước láng giềng và thử thách mối quan hệ đồng minh của Mỹ. Thứ ba, lợi dụng lý do hỗ trợ các nước ASEAN nâng cao năng lực quốc phòng, chống lại âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, Mỹ đã bán vũ khí trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại cho các nước ĐNA, đẩy cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực ngày một leo thang, ĐNA như là "thùng thuốc súng" có thể bùng phát bất cứ khi nào nếu không được kiểm soát tốt. Mặt khác, sự hiện diện quân sự thường xuyên của quân đội Mỹ ở khu vực với lý do thực thi an toàn hàng hải, chống khủng bố, kiềm chế Trung Quốc,v.v. ít nhiều đã gây ra cảm giác lo lắng, bất an ngày càng lớn cho các nước trong khu vực. Kết quả là các nước ĐNA dù kinh tế còn nhiều khó khăn đã tăng ngân sách và chi tiêu quốc phòng, làm ảnh hưởng đến môi trường an ninh trong khu vực. Bốn là, ASEAN và các nước thành viên tiếp tục phải đối mặt với nguy cơ bị Mỹ lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của ASEAN. Đối với những quốc gia không tuân theo quỹ đạo phát triển của Mỹ, Mỹ thường lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia đó. Mặt khác, Mỹ cũng có thể sử dụng các tổ chức phi chính phủ, đội ngũ truyền thông, các lực lượng chống đối để quấy rối và có thể là lật đổ chính quyền sở tại không nghe theo Mỹ. Năm là, cả Mỹ và Trung Quốc đều đánh giá cao vai trò của ASEAN, muốn sử dụng các cơ chế an ninh của ASEAN ở khu vực phục vụ cho lợi ích của mình nên hai 142 quốc gia này luôn tìm mọi cách để phân hóa và gây sức ép lên ASEAN và các nước thành viên trong một số vấn đề mang lợi ích chiến lược. Cuộc cạnh tranh địa chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc ở ĐNA từ góc độ nào đó là tiêu cực và nguy hại đối với ASEAN, nó có thể gây chia rẽ và dẫn đến sự đổ vỡ của ASEAN nếu hai bên không theo đuổi một chính sách hợp lý đúng như phân tích của Kishore Mahbubani & Jeffery Sng "Mỹ và Trung Quốc, cả hai bên nên coi ASEAN là một chiếc bình sứ tinh xảo thời Minh mong manh dễ vỡ. Bởi lợi ích của Mỹ và Trung Quốc sẽ bị ảnh hưởng nếu khối ASEAN bị phá hủy, thì sự linh hoạt trong việc ứng xử với ASEAN là điều rất quan trọng đối với cả hai bên" [92, tr.149]. Như vậy, chính sách của Mỹ đối với ASEAN có tác động không nhỏ đến nền hòa bình, ổn định, an ninh và phát triển của khu vực. Bên cạnh những thuận lợi, chính sách cũng khiến các nước ASEAN lo ngại về khả năng can thiệp, kiểm soát và khống chế khu vực của Mỹ. 4.2.3. Đối với Mỹ 4.2.3.1. Mặt tích cực Thứ nhất, trên lĩnh vực an ninh quân sự, mở rộng hợp tác song phương và đa phương với ASEAN cũng như các nước thành viên ngoài việc giúp Mỹ tăng cường sự hiện diện về quân sự ở ĐNA, còn giúp Mỹ can dự có hiệu quả vào nhiều vấn đề nóng của khu vực như vấn đề Biển Đông, vấn đề tự do, an ninh, an toàn hàng hải, vấn đề chống khủng bố, Thông qua các hoạt động tuần tra, huấn luyện, tập trận, trao đổi, tham vấn quân sự mà mối quan hệ của Mỹ với các nước đồng minh được thắt chặt, Mỹ có thêm nhiều mối quan hệ với đối tác và bạn bè mới ở khu vực. Từ đó tầm ảnh hưởng, quyền lực, vị thế của Mỹ được phục hồi và phát triển, Mỹ duy trì và đảm bảo vững chắc vị thế số một ở khu vực, ngăn cản mưu đồ bá quyền, cạnh tranh ảnh hưởng với Mỹ. Thứ hai, trên phương diện chính trị - ngoại giao, tăng cường hợp tác với ASEAN giúp Mỹ thay đổi được tình hình từ việc để lại "khoảng trống quyền lực" ở ĐNA sau Chiến tranh Lạnh đến chỗ "quay trở lại ĐNA", có được vị trí đáng kể hơn ở khu vực. Từ chỗ coi trọng hợp tác song phương với các đối tác, Mỹ coi trọng vai trò, vị thế của ASEAN và muốn hợp tác sâu rộng với tổ chức này để tạo dựng khuôn khổ cho những lợi ích chiến lược trước mắt cũng như lâu dài trong các vấn đề của khu vực và toàn cầu. 143 Thứ ba, trên phương diện cạnh tranh chiến lược, tăng cường hợp tác an ninh với ASEAN và các quốc gia thành viên đã phần nào giúp Mỹ thực thi được chính sách "bao vây Trung Quốc", kiềm chế Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng ở ĐNA. Bằng việc tham gia và đóng vai trò ngày một tích cực trong các tổ chức, diễn đàn hợp tác an ninh của ASEAN như ARF, EAS, ADMM+, Mỹ đã tăng cường cạn dự vào những vấn đề nóng của khu vực, thể hiện được vai trò, trách nhiệm của mình qua đó tạo dựng được lòng tin với ASEAN và các nước thành viên, đầy lùi ảnh hưởng của Trung Quốc. Thông qua các cuộc gặp gỡ cấp cao, tham vấn chính trị, quân sự với nguyên thủ các quốc gia ASEAN, Mỹ đã tăng cường mối quan hệ với các đồng minh, đối tác, lôi kéo các nước ĐNA về phía mình. Mặt khác, Mỹ cũng tăng cường hợp tác với Trung Quốc, lôi kéo Trung Quốc tham gia có trách nhiệm vào các cơ chế hợp tác an ninh của ASEAN nhằm buộc quốc gia này phải hành xử dựa trên những nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế, khu vực. Dựa trên các căn cứ và cơ sở hạ tầng quân sự sẵn có ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Australia, Philippine, Thái Lan và Singapore cũng như việc không ngừng củng cố, phát triển và mở rộng quan hệ quân sự quốc phòng với các nước như Indonesia, Việt Nam, Malaysia, Mỹ đã tạo dựng được "vành đai sắt" với nhiều tầng lớp từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và đến ĐNA nhằm kiềm chế, ngăn chặn mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc. 4.2.3.2. Mặt hạn chế Thứ nhất, ASEAN và Mỹ không gần gũi nhau về mặt địa lý, ĐNA quan trọng nhưng chưa phải là ưu tiên của Mỹ như ở khu vực Đông Bắc Á hay Trung Đông. Mặt khác lợi ích chính trị, an ninh của Mỹ và ASEAN ở khu vực là không hoàn toàn giống nhau. Trong một số vấn đề, phía Mỹ luôn muốn áp đặt các giá trị tự do, dân chủ và nhân quyền, trong khi phía ASEAN, các chuẩn mực trên với một số nước lại không quá xem trọng. Điều đó làm nảy sinh tâm lý nghi ngờ, dè chừng nhau trong quá trình hợp tác, ảnh hưởng của Mỹ vì thế cũng ngày một suy giảm tại nhiều nước ASEAN, "từ những năm 1999 - 2000 tới năm 2006, hình ảnh nước Mỹ đã giảm trầm trọng ở Indonesia (từ 75% xuống còn 36%)", còn theo một báo cáo của Trung tâm nghiên cứu Pew công bố năm 2014 về thái độ của người dân được hỏi ở 44 quốc gia châu Á đối với Mỹ trong đó "67% tại Indonesia, 65% tại Thái Lan và 62% tại Malaysia phản đối Mỹ" [130, tr.151]. 144 Thứ hai, cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung ở khu vực ASEAN ngày càng phức tạp. Trung Quốc với những lợi thế như khoảng cách địa lý, không coi trọng vấn đề dân chủ nhân quyền đã không ngừng "quyến rũ" ASEAN trên tất cả các mặt trong đó có lĩnh vực quốc phòng - an ninh. Do vậy, việc tăng cường hợp tác an ninh của Mỹ với ASEAN, Trung Quốc cũng sẽ triển khai nhiều chính sách hợp tác với ASEAN, điều đó cũng gây khó dễ cho chính sách an ninh của Mỹ ở khu vực. Thứ ba, hợp tác an ninh với ASEAN vừa mang đến những cơ hội nhưng cũng đem lại những rủi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_hop_tac_an_ninh_quoc_phong_giua_asean_va_my_giai_doa.pdf
Tài liệu liên quan