MỞ ĐẦU . 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIÁM SÁT VÀ
KẾT LUẬN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI . 6
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước. 6
1.2. Tình hình nghiên cứu quốc tế. 18
1.3. Đánh giá chung về tình hình, kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án và
những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu. 22
1.4 Câu hỏi nghiên cứu, lý thuyết nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu. 25
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT LUẬN GIÁM SÁT CỦA
QUỐC HỘI VIỆT NAM. 27
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò kết luận giám sát của Quốc hội . 27
2.2. Chủ thể, nội dung, hình thức và giá trị pháp lý kết luận giám sát của Quốc hội
Việt Nam . 41
2.3. Các điều kiện đảm bảo hiệu lực, hiệu quả kết luận giám sát của Quốc hội Việt
Nam . 56
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ VIỆC THỰC HIỆN KẾT
LUẬN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI. 74
3.1. Thực trạng quy định pháp luật về ban hành và thực hiện kết luận giám sát của
Quốc hội . 74
3.2. Thực trạng việc ban hành kết luận giám sát của Quốc hội . 81
3.3. Thực trạng việc thực hiện kết luận giám sát của Quốc hội. 91
3.4. Đánh giá chung về việc ban hành và thực hiện kết luận giám sát của Quốc hội. 96
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU
QUẢ THI HÀNH KẾT LUẬN GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM. 108
4.1. Quan điểm về nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thi hành kết luận giám sát của
Quốc hội. . 108
4.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc thi hành các kết luận
giám sát của Quốc hội Việt Nam hiện nay. 119
KẾT LUẬN . 151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ. 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 153
167 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 500 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Kết luận giám sát của Quốc hội Việt Nam: Lý luận và thực tiễn - Nguyễn Xuân Thủy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành
lập; phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
+ Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
+ Yêu cầu cơ quan, cá nhân có thẩm quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách
chức, xử lý đối với người có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
+ Về kết quả điều tra; về vấn đề được UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban
của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội kiến nghị,
+ Về các nội dung khác thuộc thẩm quyền giám sát của Quốc hội.
b. Quy định pháp luật về thẩm quyền của UBTVQH ban hành kết luận
giám sát
- Sau khi xem xét báo cáo của cơ quan chịu sự giám sát, UBTVQH ra nghị
quyết về công tác của cơ quan đã báo cáo khi xét thấy cần thiết. Trong nghị quyết
này, UBTVQH đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân
của hạn chế, bất cập; trách nhiệm của cơ quan có báo cáo và người đứng đầu; thời
hạn khắc phục hạn chế, bất cập; trách nhiệm thi hành của cơ quan, cá nhân, trách
nhiệm báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết về giám sát.
- Sau khi xem xét văn bản quy phạm pháp luật, UBTVQH ra nghị quyết về
việc xem xét văn bản quy phạm pháp luật. Trong nghị quyết này, UBTVQH xác
định văn bản quy phạm pháp luật trái hoặc không trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH; trường hợp văn bản quy
phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì quyết định
đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật và trình
Quốc hội quyết định việc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó tại kỳ họp gần
nhất; trường hợp văn bản trái pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH thì bãi bỏ một
phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
77
- Sau khi tiến hành chất vấn, UBTVQH có thể ra nghị quyết về chất vấn. Trong
nghị quyết này, UBTVQH đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của người bị chất vấn, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân liên quan đến vấn
đề chất vấn, thời hạn khắc phục hạn chế, bất cập; trách nhiệm thi hành của cơ quan, cá
nhân, trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết về chất vấn. Tuy nhiên, điểm
cần lưu ý là quy định hiện hành về việc ra nghị quyết sau hoạt động chất vấn của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội là không bắt buộc; do vậy, việc ban hành nghị quyết hay
không còn phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của các thành viên Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, đặc biệt là ý chí của Lãnh đạo Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội.
- Sau khi tiến hành giám sát chuyên đề, UBTVQH ra nghị quyết về chuyên đề
giám sát. Trong nghị quyết này, UBTVQH đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế,
bất cập và nguyên nhân hạn chế, bất cập liên quan đến chuyên đề giám sát; trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và người đứng đầu cơ quan, tổ chức có
liên quan; thời gian khắc phục hạn chế, bất cập; trách nhiệm thi hành của cơ quan, tổ
chức, cá nhân, trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết.
- Sau khi xem xét báo cáo công tác của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh,
UBTVQH ra nghị quyết về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Trong nghị
quyết này, UBTVQH đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên
nhân của hạn chế, bất cập; trách nhiệm của cơ quan có báo cáo và người đứng đầu;
thời hạn khắc phục hạn chế, bất cập; trách nhiệm thi hành của cơ quan, cá nhân,
trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết về giám sát.
- Sau khi xem xét nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, UBTVQH ra
nghị quyết về việc xem xét nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh. Trong Nghị
quyết này, UBTVQH xác định nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái hoặc
không trái với Hiến pháp, luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước
cấp trên; trường hợp nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp,
luật, văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên thì quyết định bãi
bỏ một phần hoặc toàn bộ nghị quyết đó.
- Sau khi xem xét kiến nghị của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội về việc cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu
sự giám sát không thực hiện kết luận, kiến nghị giám sát của mình, thì UBTVQH ra
nghị quyết về vấn đề này.
- Ngoài các nghị quyết nêu trên, căn cứ vào kết quả giám sát, UBTVQH còn
ra nghị quyết về các vấn đề sau đây:
78
+ Kiến nghị với Quốc hội hoặc yêu cầu cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách chức, xử lý đối với người có hành vi vi phạm
pháp luật nghiêm trọng.
+ Đề nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc
hội bầu hoặc phê chuẩn.
+ Giải tán Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong trường hợp Hội đồng nhân dân
đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhân dân.
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử
lý người vi phạm, kịp thời khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm.
c. Quy định pháp luật về thẩm quyền của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của
Quốc hội a kết luận giám sát (kết luận, kiến nghị sau giám sát)
- Sau khi xem xét văn bản quy phạm pháp luật, nếu văn bản quy phạm pháp luật
trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH,
thì Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội kiến nghị cơ quan, cá nhân đã ban hành
văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
- Khi giám sát, nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Hội đồng
Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có quyền yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi
phạm pháp luật, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân bị vi phạm và xử lý, xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có hành vi vi phạm.
- Sau phiên giải trình, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội ra kết luận về
vấn đề được giải trình.
- Khi giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, nếu
phát hiện vi phạm pháp luật, thì Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có quyền
kiến nghị với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để xem xét, giải quyết.
- Ngoài các kết luận, kiến nghị nêu trên, sau khi giám sát Hội đồng Dân tộc,
Ủy ban của Quốc hội còn kiến nghị UBTVQH xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu -
nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; kiến nghị với
những người có thẩm quyền giải quyết về vấn đề thuộc lĩnh vực Hội đồng Dân tộc,
Ủy ban của Quốc hội phụ trách.
79
d. Quy định pháp luật về thẩm quyền của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội a kết luận giám sát (kiến nghị sau giám sát)
Căn cứ vào kết quả giám sát, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội có
thẩm quyền sau đây:
- Kiến nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc
thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật hoặc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật mới.
- Kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết các
vấn đề có liên quan đến chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước hoặc vấn
đề của địa phương.
- Kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, khôi phục lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm và xem xét trách
nhiệm, xử lý người vi phạm.
- Kiến nghị UBTVQH xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Như vậy, có thể nhận thấy pháp luật hiện hành quy định khá đầy đủ về thẩm
quyền của Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đại
biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội sau khi tiến hành các hoạt động giám sát có
quyền ban hành các kết luận giám sát khác nhau (nghị quyết, kết luận, kiến nghị về
giám sát). Đây là các quy định nhằm bảo đảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát
và đảm bảo thực thi kết luận giám sát.
3.1. . Thực t ạng các quy định của pháp luật về t ách nhiệm thực hiện kết
luận giám sát của Quốc hội
a. Những quy định đối với cơ quan chịu sự giám sát
Việc thực hiện các kết luận giám sát có ý nghĩa vô cùng to lớn, quyết định hiệu
lực, hiệu quả của giám sát. Bởi vì, giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
đại biểu Quốc hội là một trong các chức năng chính của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội. Nếu các chủ thể giám sát có dành nhiều thời gian, công sức, vật chất, kinh
phí để tổ chức các hoạt động giám sát; sau giám sát chủ thể giám sát ban hành các nghị
quyết, kết luận, kiến nghị về giám sát mà cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
không thực hiện hoặc thực hiện không tốt thì sẽ không có hiệu quả giám sát, không
mang lại lợi ích thiết thực gì. Chính vì vậy, Luật Giám sát năm 2015 đã quy định rõ
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát phải thực hiện đầy đủ
80
nội dung, yêu cầu giám sát của chủ thể giám sát; nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết
giám sát của Quốc hội, UBTVQH; thực hiện kết luận, kiến nghị của Hội đồng Dân tộc,
Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội.
Đối với một số hoạt động giám sát quan trọng, Luật Giám sát năm 2015 còn quy
định cụ thể hơn về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát là:
- Định kỳ 06 tháng, người bị chất vấn, cá nhân, tổ chức chịu sự giám sát phải
báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết chất vấn, nghị quyết giám sát chuyên đề và kết
quả thực hiện kết luận, yêu cầu, kiến nghị giám sát của UBTVQH.
- Đối với kiến nghị sau giám sát văn bản của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của
Quốc hội, nếu quá 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu mà cơ quan, cá nhân đã
ban hành văn bản không thực hiện hoặc thực hiện không đáp ứng với yêu cầu thì
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội kiến nghị UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ
đình chỉ thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó theo thẩm quyền.
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát có trách nhiệm thực hiện các
kiến nghị giám sát của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; trường hợp không
thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội
báo cáo UBTVQH xem xét, quyết định.
- Đối với một số hoạt động giám sát khác, thì cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu
sự giám sát có trách nhiệm xem xét thực hiện kiến nghị và trả lời trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị. Quá thời hạn này mà không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng, thì Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội kiến nghị với
Chủ tịch Quốc hội yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đó trả lời tại phiên họp
UBTVQH hoặc tại kỳ họp Quốc hội gần nhất.
Đặc biệt là Luật Giám sát năm 2015 còn quy định các chế tài đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát có hành vi cản trở hoặc không thực hiện
nghị quyết, kết luận, kiến nghị của chủ thể giám sát thì chủ thể giám sát yêu cầu,
kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân
đó. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, chủ thể giám sát yêu cầu, kiến nghị cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và người có liên quan.
b. Những quy định đối với cơ quan giám sát
Để góp phần bảo đảm việc thực hiện kết luận giám sát, Luật Giám sát năm
2015 còn quy định:
81
+ Nghị quyết, kết luận, kiến nghị về giám sát và kết quả thực hiện kết luận,
kiến nghị về giám sát phải được đăng tải trên cổng thông tin điện tử của cơ quan
tiến hành giám sát hoặc đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng.
+ Nghị quyết về giám sát của Quốc hội, UBTVQH có giá trị pháp lý bắt buộc
thực hiện.
+ UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thường xuyên theo dõi, đôn đốc việc
thực hiện nghị quyết, kết luận, kiến nghị về giám sát; trường hợp cơ quan, tổ chức,
cá nhân chịu sự giám sát không thực hiện hoặc thực hiện không đúng yêu cầu trong
nghị quyết, kết luận, kiến nghị giám sát thì xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền xử lý.
+ Đặc biệt là, Luật giám sát 2015 quy định rất rõ về việc Quốc hội xem xét
báo cáo của UBTVQH về kiến nghị giám sát của UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo lý lẽ: khi các
chủ thể giám sát (Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Hội đồng, Ủy ban của Quốc hội;
Đoàn đại biểu Quốc hội và ĐBQH) đã ban hành kết luận, kiến nghị giám sát nhưng
không được các cơ quan chịu sự giám sát thực hiện, hoặc thực hiện không triệt để,
hoặc thực hiện không đúng thời hạn yêu cầu thì có thể đề nghị Ủy ban Thường vụ
Quốc hội xem xét; nếu qua bước này vẫn không được thực hiện hoặc đối với vấn đề
đặc biệt nghiêm trọng thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình ra Quốc hội xem xét
trách nhiệm của cơ quan chịu sự giám sát có liên quan. Quy định này là bước tiến
bộ vượt bậc nhằm bảo đảm hiệu quả việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát, nâng
cao chất lượng hoạt động hậu giám sát, đi đến cùng vấn đề được giám sát.
Tóm lại, pháp luật hiện hành quy định khá cụ thể về trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách
nhiệm thực hiện các nghị quyết, kết luận, kiến nghị sau giám sát. Nếu không thực hiện
hoặc thực hiện chậm trễ, không đầy đủ thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
3.2. Thực trạng việc ban hành kết luận giám sát của Quốc hội
3.2.1. Ban hành kết luận giám sát ưới hình thức Nghị quyết
Từ khi cả nước tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt
Nam dân chủ Cộng hòa (năm 1946) đến nay Quốc hội đã trải qua 14 nhiệm kỳ. Từ
nhiệm kỳ Quốc hội khóa I đến nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII do chiến tranh và khôi
phục đất nước sau chiến tranh, hơn nữa có rất ít đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên
trách tại Quốc hội, nên hoạt động giám sát của Quốc hội không nhiều, theo đó việc
82
ban hành nghị quyết, kết luận, kiến nghị về giám sát rất ít. Từ nhiệm kỳ Quốc hội
khóa IX đến nay, tổ chức và hoạt động của Quốc hội từng bước được kiện toàn, số
đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách tại các cơ quan của Quốc hội được tăng
lên, nên hoạt động giám sát của Quốc hội cũng được tăng lên, theo đó số kết luận
giám sát được ban hành đã tăng lên, cơ bản đảm bảo hiệu lực, hiệu quả.
Như phần trên đã nêu, theo quy định của pháp luật thì sau khi tiến hành giám
sát, chỉ có Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới có thẩm quyền ban hành
kết luận giám sát dưới hình thức nghị quyết về giám sát và thực tiễn trong những
năm qua Quốc hội, UBTVQH đã ban hành nhiều nghị quyết về giám sát, cụ thể là:
- Sau khi xem xét các báo cáo công tác của các cơ quan chịu sự giám sát (bao
gồm: Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, UBTVQH, Chủ tịch nước....) hàng năm, cả nhiệm kỳ và các báo cáo khác có
liên quan (Theo báo cáo tổng kết nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, thì trong nhiệm kỳ,
Quốc hội đã xem xét 198 báo cáo các loại của các cơ quan chịu sự giám sát), Quốc
hội đã ban hành các nghị quyết (nghị quyết riêng hoặc nghị quyết chung một số vấn
đề) để đánh giá về hoạt động, việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật của các cơ quan
này, trong đó nêu những mặt đã làm được, những hạn chế, bất cập, những yêu cầu,
kiến nghị các cơ quan khắc phục những hạn chế, bất cập và thực hiện tốt hơn các
nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Trung bình mỗi năm, Quốc hội đã ban hành hàng
chục nghị quyết liên quan đến việc xem xét các báo cáo của các cơ quan, cá nhân
chịu sự giám sát.
- Trong những nhiệm kỳ Quốc hội gần đây, hoạt động chất vấn của Quốc hội
đã được đông đảo Nhân dân cả nước quan tâm, theo dõi và đánh giá cao. Chính vì
vậy, bắt đầu từ kỳ họp thứ 2 đến kỳ họp thứ 10 của mỗi khóa Quốc hội, Quốc hội đã
dành thời gian khoảng 2 ngày rưỡi đến 3 ngày trong mỗi kỳ họp để tổ chức chất vấn
các thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và những người bị chất vấn khác. Sau các phiên chất vấn,
Quốc hội đã ban hành nghị quyết về chất vấn. Các nghị quyết này đã đánh giá kết
quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của những người bị chất vấn,
những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế, bất cập này; thời hạn khắc
phục hạn chế, bất cập và trách nhiệm thi hành của cơ quan, cá nhân có liên quan;
trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết về chất vấn tại các kỳ họp sau của
Quốc hội. Đồng thời, giao cho các cơ quan của Quốc hội giám sát việc thực hiện
nghị quyết về chất vấn và lựa chọn những vấn đề quan trọng, phù hợp với lĩnh vực
83
phụ trách của từng cơ quan để tổ chức chất vấn tại phiên họp UBTVQH hoặc để
giải trình tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Sau đây là tóm tắt một số
nghị quyết về chất vấn để minh họa:
+ Ngày 26/06/2015 Quốc hội đã ra Nghị quyết số 97/2015/QH13 của Quốc
hội về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khóa XIII [52].
Trong Nghị quyết này, Quốc hội đã ghi nhận sự nỗ lực của Chính phủ, các bộ,
ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc triển khai thực hiện các nghị quyết của
Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn, vv... Đồng thời, Quốc hội yêu cầu Chính
phủ, các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan khẩn trương nghiên cứu giải quyết
các ý kiến, kiến nghị của cử tri gửi đến Quốc hội tại kỳ họp thứ 9 và các kỳ họp
trước chưa được giải quyết để báo cáo Quốc hội; giao UBTVQH, Hội đồng Dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội lựa chọn những vấn đề để tổ chức chất vấn tại phiên
họp UBTVQH, giải trình tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và báo cáo
kết quả với Quốc hội.
+ Ngày 21/06/2017 Quốc hội đã ra Nghị quyết số 44/2017/QH14 của Quốc
hội về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 3 của Quốc hội khóa XIV. Trong
Nghị quyết này, Quốc hội đã ghi nhận sự nỗ lực, các giải pháp, cam kết của Chính
phủ, một số bộ ngành có liên quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được
giao; yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ ngành, địa phương
thực hiện các gải pháp đồng bộ, khắc phục những hạn chế, yếu kém, kịp thời tháo
gỡ những khó khăn, vướng mắc, tạo chuyển biến rõ nét trong các lĩnh vực được
chất vấn tại kỳ họp này, báo cáo Quốc hội tại kỳ họp sau và giao cho UBTVQH,
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội giám sát việc thực hiện nghị quyết;
xem xét những vấn đề quan trọng để tổ chức phiên chất vấn, giải trình.
+ Ngày 24/11/2017 Quốc hội đã ra Nghị quyết số 55/2017/QH14 của Quốc
hội về chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa XIV. Trong
Nghị quyết này, Quốc hội đã ghi nhận sự nỗ lực, các giải pháp, cam kết của Thủ
tướng Chính phủ, một số bộ ngành có liên quan trong việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ được giao; yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng,
Trưởng ngành tiếp tục thực hiện đầy đủ, kịp thời và có hiệu quả các nghị quyết của
Đảng, luật, nghị quyết của Quốc hội, tập trung thực hiện các cam kết, triển khai
thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế, kịp thời tháo gỡ
khó khăn, vướng mắc, tạo chuyển biến rõ nét trong chỉ đạo, điều hành kế hoạch
84
phát triển kinh tế - xã hội nói chung và các lĩnh vực được chất vấn tại kỳ họp này
nói riêng, báo cáo Quốc hội tại các kỳ họp sau [52] v.v...
Đối với hoạt động chất vấn tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hằng
năm Ủy ban Thường vụ Quốc hội thường tiến hành chất vấn tại 2 phiên họp (cá biệt
có năm không tổ chức chất vấn tại phiên họp); mỗi phiên với thời lượng 01 ngày (cá
biệt có phiên chất vấn 1 ngày). Về việc ban hành nghị quyết chất vấn tại phiên họp
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, như trên đã nêu, quy định của pháp luật hiện hành
không quy định sau hoạt động chất vấn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bắt buộc phải
ban hành nghị quyết (mà chỉ là “có thể ban hành”) nên trong thực tế, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội chưa lần nào ban hành nghị quyết về hoạt động này mặc dù có
những nội dung chất vấn rất quan trọng, cần có văn bản pháp lý đủ mạnh để điều
chỉnh hoạt động chỉ đạo, điều hành của cơ quan liên quan dưới hình thức là một
nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Có thể ví dụ như, tại phiên họp thứ 13,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV đã tiến hành giám sát về Công tác quản lý
nhà nước về quy hoạch xây dựng, kiến trúc đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị, việc
hướng dẫn, kiểm tra, quản lý sử dụng đất xây dựng đô thị theo quy hoạch và kế
hoạch phát triển gắn với giao thông đô thị là vấn đề rất bức xúc được nhiều đại biểu
Quốc hội, cử tri và dự luận quan tâm; nếu có nghị quyết về vấn đề này sẽ giúp cho
việc báo cáo thực hiện, giám sát việc thực hiện được đầy đủ và nghiêm túc hơn là
một thông báo kết luận. Thực tế, do đây là vấn đề rất quan trọng và bức xúc, được
cử tri và đại biểu Quốc hội đặc biệt quan tâm nên nội dung này lại tiếp tục được
Quốc hội lựa chọn để đưa vào nội dung giám sát chuyên đề cho chương trình giám
sát tối cao của Quốc hội năm 2019.
- Hoạt động giám sát chuyên đề là một trong những hình thức giám sát thiết
thực, hiệu quả, được cử tri, đại biểu Quốc hội và Nhân dân quan tâm. Chính vì vậy,
từ khi có Luật giám sát năm 2003, nhất là trong những năm gần đây, Quốc hội,
UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội đã tổ chức nhiều cuộc giám
sát chuyên đề. Để thực hiện nhiệm vụ này, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã ban
hành nghị quyết, quyết định thành lập Đoàn giám sát chuyên đề của mình. Đoàn giám
sát đã tiến hành các hoạt động giám sát, sau đó làm báo cáo về kết quả giám sát và trình
Quốc hội, cơ quan của Quốc hội xem xét, quyết định. Hoạt động giám sát chuyên đề
luôn được cải tiến, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả. Các chuyên đề được giám
sát đều là những vấn đề thực sự bức xúc, được đại biểu Quốc hội, cử tri và nhân dân cả
nước quan tâm; theo sự điều hòa chung của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tùy theo mức
85
độ, tầm quan trọng, sự ảnh hưởng của vấn đề giám sát, các chủ thể giám sát sẽ lựa chọn
những chuyên đề phù hợp để đưa vào chương trình giám sát của cơ quan mình. Sau khi
giám sát, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành nghị quyết về giám sát
chuyên đề; Hội đồng, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội ban hành kiến
nghị về giám sát chuyên đề.
- Đối với giám sát chuyên đề của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các
chủ thể này ban hành các nghị quyết thành lập các Đoàn giám sát chuyên đề. Đoàn
giám sát tiến hành các hoạt động giám sát, nghe các cơ quan chịu sự giám sát báo
cáo, đi giám sát thực tiễn tại các bộ, ngành, địa phương và báo cáo kết quả giám sát
trình các chủ thể giám sát xem xét, quyết định. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội tổ chức phiên họp toàn thể để thảo luận, cho ý kiến về báo cáo, góp nhiều ý kiến
về các vấn đề có liên quan để hoàn thiện báo cáo. Sau khi giám sát, Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết về giám sát chuyên đề. Trong những
năm gần đây, mỗi năm Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã lựa chọn khoảng
2 vấn đề để giám sát chuyên đề và ban hành 2 nghị quyết về vấn đề được giám sát
chuyên đề (cá biệt có năm các chủ thể này chỉ tiến hành giám sát 01 chuyên đề để
dành thời gian thực hiện các hoạt động giám sát khác).
Ví dụ: ngày 28 tháng 7 năm 2016 tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV đã
ban hành Nghị quyết số 20/2016/QH14 về thành lập Đoàn giám sát việc thực hiện
chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn
2011 - 2016. Đoàn giám sát đã nghe Chính phủ, các bộ ngành, các địa phương có
liên quan báo cáo, khảo sát thực tiễn về tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về
cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2016. Trên cơ sở đó,
Đoàn giám sát đã làm báo cáo về kết quả giám sát và trình Quốc hội xem xét tại kỳ
họp thứ 4. Sau khi thảo luận, xem xét Báo cáo của Đoàn giám sát, ngày 24 tháng 11
năm 2017 Quốc hội đã ra Nghị quyết số 56/2017/QH14 về việc tiếp tục cải cách tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu quả, hiệu lực. Trong
Nghị quyết này, Quốc hội đã nhấn mạnh rằng trong giai đoạn 2011 - 2016, việc
thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị nói chung, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước nói
riêng đã đạt những kết quả quan trọng, đóng góp tích cực vào thành tựu chung của
đất nước. Tuy nhiên, pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn chưa
đồng bộ, còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu thống nhất. Cơ cấu tổ chức của Chính
phủ chậm được điều chỉnh. Tổ chức bộ máy bên trong các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
86
cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan chuy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_ket_luan_giam_sat_cua_quoc_hoi_viet_nam_ly_luan_va_t.pdf