Trong mấy thập kỷ tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thu hút vốn trong nước qua tiết kiệm đã làm gia tăng nhịp độ đầu tư ở Hàn Quốc. Đặc biệt trong những thập kỷ gần đây, tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư của Hàn Quốc đã vượt giới hạn của tiêu chuẩn quốc tế. Nếu vào thập kỷ 60, tỷ lệ tiết kiệm chỉ chiếm 10%GDP, thì đến thập kỷ 90 đã tăng lên30-40% GDP [75]. Sự gia tăng tỷ lệ tiết kiệm ở Hàn Quốc là do nhiều nhân tố.
- Nhà nước cố gắng ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, thực hiện lãi suất tiết kiệm dương. Khi cho vay, lãi suất phải cao hơn lãi suất huy động. Nếu lãi suất cho vay thấp thì nhu cầu vốn tăng và sẽ sử dụng kém hiệu quả, có khi tiền cho vay bị lợi dụng nên không đến đúng đối tượng cần vay. Ở Hàn Quốc, tỷ lệ tiết kiệm tăng cao ngay cả khi nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, do bản chất tiết kiệm của người dân Hàn Quốc mang tính truyền thống.
- Trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hàn Quốc, việc tăng năng suất lao động dẫn tới tăng tốc độ thu nhập cũng làm gia tăng tỷ lệ tiết kiệm.
- Huy động nguồn vốn cho công nghiệp hoá ở Hàn Quốc có sự đóng góp to lớn của khu vực kinh tế tư nhân. Được sự nâng đỡ của nhà nước, từ những năm 70 lại đây, kinh tế tư nhân đã đóng vai trò chủ lực trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như những hoạt động kinh tế đối nội, đối ngoại. Các tổ hợp công nghiệp lớn Huyndai, GoldStar, Deawoo, SamSung của Hàn Quốc thực sự trở thành chỗ dựa và xương sống của nền kinh tế. Những tổ hợp này chiếm độc quyền trong nhiều lĩnh vực kinh tế then chốt và mở rọng phạm vi hoạt động ra nước ngoài, đặc biệt là các nước đang phát triển. Từ tiềm năng phát triển của kinh tế tư nhân có nhiều điểm đáng lưu ý so với các nwcs khác. Nhà nước chỉ phát triển các cơ sở công nghiệp mà khu vực kinh tế tư nhân không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư. Như vậy, giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân không có cạnh tranh. Nhà nước không giới hạn hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân, trừ giới hạn với tư bản nước ngài và một vài ngành có tầm quan trọng đặc biệt với vận mệnh đất nước. Bên cạnh đó còn có sự liên kết tự nguyện giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế tư nhân thể hiện qua các liên doanh phát triển công nghiệp.
186 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1956 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Khả năng vận dụng một số bài học kinh nghiệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Hàn Quốc vào Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng động hơn, nâng cao sức cạnh tranh hơn; 3) Thúc đẩy chuyên môn hoá và tổ chức lại ngành nghề; Thông qua các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh việc sử dụng tài nguyên từ ngành có hiệu quả thấp sang ngành có hiệu suất cao, chính phủ sẽ điều chỉnh cơ cấu để thúc đẩy hợp tác và tham gia các doanh nghiệp nội địa.
Từ những năm 80, do nhận thức được những vấn đề bất cập này chính phủ Hàn Quốc đã tiến hành một loại các biện pháp điều chỉnh cơ cấu ngành nghề nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Với các ngành nghề công nghiệp nặng và hoá chất, sự điều chỉnh được thực hiện bằng cách hợp nhất hoặc xoá bỏ một số dự án đầu tư và khuyến khích chuyên môn hoá theo sản phẩm. Trong công nghiệp Hàn Quốc có 5 ngày được quan tâm điều chỉnh lại cơ cấu là thiết bị điện, lắp ráp ô tô, động cơ điện, hệ thống tổng đài điện tử, động cơ diezen và luyện đồng. Các ngành này tuy được vay vốn nhưng không được hưởng lãi suất ưu đãi. Nhà nước Hàn Quốc vẫn khuyến khích đầu tư vào những ngành có triển vọng (dệt may, da giày…) theo quan điểm về lợi thế so sánh, song giữ thái độ cân bằng chữ không quá khuyến khích và không bảo hộ bằng thuế như trước đây. Cùng với việc giảm ưu tiên cho công nghiệp vừa và nhỏ là nơi cung cấp các phụ tùng, linh kiện cho công nghiệp nặng. Đồng thời việc chế tạo ra các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao và lao động lành nghề như điện tử, điện lạnh… đã giúp Hàn Quốc đạt trình độ cao hơn về cơ cấu nghiệp và duy trì sức cạnh tranh quốc tế.
* Hàn Quốc định hướng đất nước bước vào thời kỳ phát triển công nghiệp kỹ thuật công nghệ cao.
Để giải quyết vấn đề bất cập về cơ cấu kinh tế và phát triển những ngành dùng nhiều vốn, có kỹ thuật cao nhờ lợi thế nguồn lao động dồi dào, giá thấp là những thử nghiệm chủ yếu để phát triển công nghiệp của Hàn Quốc trong giai đoan này. Mục tiêu của Hàn Quốc là tiến tới các ngành công nghiệp cao cấp để đa dạng hoá hơn nữa mặt hàng và thị trường xuất khẩu. Bộ thương mại và công nghiệp (MTI) và Bộ khoa học chủ trương tăng cường các ngành công nghiệp có mức đầu tư cao gắn với công nghệ hiện đại và đã xác định mục tiêu xuất khẩu rõ ràng. Nhà nước đã trực tiếp giúp các công ty nâng cấp công nghệ sản xuất và chất lượng sản phẩm. Thán 11/1989, MTI đã đề ra chương trình 5 năm nhằm tăng gấp đôi giá trị sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao trong ngành chế tạo lên tới 200 triệu Won (1992) [85]. Chính phủ đã giúp thực hiện chương trình này bằng cả vốn vay và nhập khẩu kỹ thuật. Trong 5 năm 1990-1995, chính phủ Hàn Quốc có kế hoạch đầu tư 1 tỷ Won cho nghiên cứu và triển khai ứng dụng các ngành kỹ thuật điện tử, thông tin, sinh học đồng thời tài trợ 1 tỷ Won để xây dựng một hệ thống thông tin hiện đại, giúp các công ty sử dụng trợ giúp của máy tính và internet có hiệu quả, kịp ứng phó với biến động nhanh của tình hình kinh tế thế giới. Nhà nước có chương trình giúp đỡ về tài chính, công nghệ và marketing cho các xí nghiệp kinh doanh có triển vọng. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế Hàn Quốc là sự tập trung vào các tập đoàn lớn (hay các cheabol). Theo số liệu thống kê thì hiện nay nền kinh tế nước này đang nằm dưới quyền kiểm soát của khoảng 200 cheabol, trong đó, chủ yếu tập trung vào 30 cheabol lớn nhất. Năm 1994, ở nước này, 4 cheabol lớn nhất là Samsung, Huyndai, Daewoo và Goldstar, tuy chỉ chiếm 3% tổng số nhân công toàn quốc nhưng nắm tới 22% tài sản, 84% GDP, 60% xuất khẩu cả nước [30].
Nhà nước hỗ trợ triển khai chương trình hiện đại hoá giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vượt qua được hạn chế về quy mô, sử dụng công nghệ mới đắt tiền, ít gây ô nhiễm. Hiệp hội đẩy nhanh phát triển công nghiệp vừa và nhỏ (SMIPE) và viện kinh tế công nghệ (KIET) có nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ nắm bắt kỹ thuật mới, phát huy tiềm năng của họ.
Như vậy, để đạt mục tiêu đa dạng hoá mặt hàng và thị trường xuất khẩu cũng như nâng cấp nền công nghiệp, Hàn Quốc đã tạo ra sự chuyển biến từ bên trong nền kinh tế để tạo ra hàng hoá có hàm lượng kỹ thuật ngày càng cao trên cơ sở nghiên cứu ứng dụng, đổi mới không ngừng và tiếp cận chính xác được những thông tin từ thị trường ngoài nước.
· Chính sách huy động vốn cho đầu tư phát triển và thực hiện tự do hoá đầu tư
Nhà nước đã giảm sự can thiệp vò nền kinh tế, nhằm thúc đẩy quá trình tự do hoá ngoại thương và tự do hoá hối đoái, loại dần chế độ bảo hộ mậu dịch. Các biện pháp mạnh được thực thi để kiềm chế chiều hướng lạm phát, đồng thời nhà nước giảm mạnh sự can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của tư nhân và đường lối tích cực trong thời điểm này. Chính phủ cũng tích cực thúc đẩy quá trình tự do hoá nền kinh tế và hội nhập quốc tế. Chính sách ổn định vĩ mô và tự do hoá này đã làm giảm sức ép lạm phát mà còn cải thiện vững chắc năng lực cạnh tranh quốc tế đối với sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc. Để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, Nhà nước đã thực hiện chương trình gồm một số nội dung sau:
+ Quản lý chặt ngân sách với việc cắt giảm chi tiêu;
+ Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt kết hợp với việc hoàn thiện chế độ cấp tín dụng có phân biệt ưu đãi.
+ Xây dựng các kế hoạch đầu tư vào công nghiệp nặng và hoá chất thích ứng với tình hình mới.
Năm 1991, vay nước ngoài của Hàn Quốc là 39,135 tỷ USD, trong đó vay dài hạn chiếm 56% [111]. Với nguồn vốn này, thường được tập trung trong đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng. Lĩnh vực này thu hồi vốn chậm nên thực hiện giải pháp vay dài hạn, hạn chế vay ngắn hạn và đặc biệt không vay thương mại. Bằng cách vay này, Hàn Quốc đã được hưởng lãi xuất thấp, việc trả hoàn nợ sẽ đỡ khó khănhơn.
Trong giai đoạn này, nhà nước không dùng phương pháp phân bổ nguồn vốn tích luỹ và các nguồn lực khác để tạo cơ cấu công nghiệp theo kế hoạch như trước đây, mà để cho các lực lượng thị trường quyết định sự hình thành cơ cấu ngành công nghiệp. Đây là điều khác biệt quan trọng so với phương pháp được áp dụng trong chiến lược tăng trưởng trước đây. Do vậy, nhà nước đã xoá bỏ các khoản vay theo chính sách trợ cấp. Điều này đã tránh đầu tư quá mức ở một số ngành công nghiệp do chính sách cấp tín dụng kiểu trợ cấp trước đây, tránh tạo ra mất cân đối và cản trở sự phát triển của hệ thống tài chính.
Một trong những hoạt động nhằm tự do hoá trong lĩnh vực tài chính giúp tự do hoá lưu thông vốn, nhà nước cho tư nhân hoá 5 ngân hàng thương mại, đồng thời giảm bớt sự cản trở đối với việc sử dụng tín dụng các ngân hàng nước ngoài. Chính phủ muốn tăng thêm sự cạnh tranh ngay trong lĩnh vực phân bổ vốn để tăng thêm tính hiệu quả sử dụng vốn.
Để thúc đẩy tự do hoá đầu tư, khi công nghiệp dân tộc đã có sự phát triển, nhà nước giảm tối đa chính sách bảo hộ công nghiệp. Đây là cách tốt nhất để các ngành công nghiệp trong nước nâng cao năng suất và chất lượng. Trong chiến lược phát triển lâu dài, thì công nghiệp dân tộc mới tồn tại và phát triển. Do vậy, tự do hoá trong kinh doanh đã diễn ra trong một số lĩnh vực công nghiệp quan trọng và cả trong lĩnh vực ngân hàng. Việc mở cửa này bằng cách tư nhân hoá nhiều ngân hàng và doanh nghiệp công nghiệp trong nước. Hãng hàng không của Hàn Quốc đã bán cho nhóm Sunkyong, hãng dầu mỏ của Hàn Quốc đã bán cho tập đoàn Daewoo… Như vậy, mục đích việc mở rộng kinh doanh cho khu vực kinh tế tư nhân nhằm giảm gánh nặng tài chính, tình trạng thiếu hụt ngân sách do kinh doanh kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước. Bên cạnh đó, nó chứng tỏ khả năng kinh doanh và ưu thế cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân. Tự do hoá kinh tế không phải là tự loại bỏ sự điều chỉnh của nhà nước với hoạt động kinh tế, mà là giảm bớt sự can thiệp trực tiếp và trao quyền tự chủ nhiều hơn cho khu vực kinh tế tư nhân, kể cả khu vực kinh tế nhà nước, để cho các quy luật của thị trường tác động nhiều hơn đến các hoạt động kinh tế. Nhà nước chủ yếu tác động thông qua chính sách và các đòn bảy kinh tế khi cần thiết.
· Khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Sau hai thập kỷ chú trọng phát triển những tổ hợp công nghiệp lớn, nhà nước đã bắt đầu chú ý tới phát triển các loại hình doanh nghiệp, công ty vừa và nhỏ. Điều này có lý do khách quan của nó, nhà nước đã thấy nhiều cheabol hoạt động kém hiệu quả, không thích ứng với những thay đổi nhanh của thị trường. Mặt khác, sở hữu của cheabol thường tập trung trong các thành viên gia đình, nên nó gây ra căng thẳng xã hội nhiều hơn. Ngoài ra các công ty vừa và nhỏ cũng không thể phát triển dưới bóng của một nhóm các công ty lớn, trong khi hoạt động của các cơ quan tài chính, ngân hàng lại có thiên hướng ủng hộ các cheabol.
Trong bối cảnh mới, Hàn Quốc chú trọng khắc phục sự mất cân đối trong công nghiệp giữa xí nghiệp quy mô lớn và quy mô vừa và nhỏ. Chính phủ đã triển khai nhiều biện pháp tích cực để hỗ trợ bộ phận non yếu này. Năm 1982, nhà nước thông qua kế hoach dài hạn 10 năm, nhằm đẩy nhanh sự phát triển của công nghiệp vừa và nhỏ. Mục tiêu năm **** công nghiệp vừa và nhỏ lên 44,8%, về lao động trong ****** thời đầu tư cho khu vực này tăng lên 43,7% [1 *** ] nhà nước đã có những giải pháp sau:
+ Nhà nước đẩy mạnh sự hợp tác trong sản xuất giữa xí nghiệp quy mô lớn và xí nghiệp có qui mô vừa và nhỏ. Chính phủ khuyến khích các công ty lớn ký các hợp đồng dài hạn với các công ty nhỏ đang nhận được sự hỗ trợ về tài hính, kỹ thuật và quản lý để cung cấp phụ kiện chi tiết có chất lượng cao.
+ Nhà nước khuyến khích các đơn vị công nghiệp nhỏ tư nhân xây dựng các hội hợp tác. Nhà nước dành tài trợ cho các hiệp hội này và ủng hộ những cố gắng kinh doanh tập thể của các hội bằng cách trao một phần quan trọng trong hợp đồng cung cấp cho các hội kinh doanh nhỏ.
Trong các chính sách và biện pháp nêu trên thì chính sách hỗ trợ về tài chính được coi là trọng tâm. Nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ không gặp khó khăn khi đi vò thị trường vốn và không phải vay lãi suất cao ở thị trường tự do, nhà nước đã sử dụng các biện pháp như thành lập quĩ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ lấy từ ngân sách nhà nước để đảm bảo các khoản vay dài hạn với lãi suất thấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; thành lập hai ngân hàng là Ngân hàng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ và Ngân hàng toàn dân với sự trợ giúp của nhà nước. Nhà nước cố gắng khai thác một phần hợp lý những nguồn vốn từ tư bản tư nhân để dành cho công nghiệp vừa và nhỏ. Năm 1992, nhà nước yêu cầu ngân hàng thương mại trong nước giành 45% vốn, ngân hàng nước ngoài giành 25% vốn cho vay của họ phục vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngân hàng địa phương phải dành 80% vốn cho vay phục vụ công nghiệp vừa và nhỏ [2]. Ngân hàng trung ương sẽ giám sát và thực hiện yêu cầu này và hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng tư nhân đang triển khai giúp đỡ công nghiệp vừa và nhỏ.
Những giải pháp nêu trên đã thúc đẩy công nghiệp vừa và nhỏ phát triển mạnh và đóng vai trò khá quan trọng trong nền kinh tế Hàn Quốc. Chúng là những xí nghiệp vệ tinh, gia công cho các tập đoàn công nghiệp có quy mô lớn. Năm 1990, các xí nghiệp vừa và nhỏ chiếm 61,79% trong tổng số lao động xã hội [4].
Để hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của kinh tế tư nhân, Hàn Quốc chú trọng củng cố, nâng cao hiệu quả kinh doanh của các xí nghiệp thuộc quyền sở hữu nhà nước. Do vậy, năm 1983, chính phủ đã ban hành luật quản lý đầu tư vào các xí nghiệp của chính phủ và lập Phòng đánh gí hoạt động kinh doanh của các công ty nhà nước năm 1984. Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước được đánh giá theo những tiêu chuẩn nhất định và phân loại, xếp hàng theo khả năng kinh doanh.
· Chính sách khoa học công nghệ
Hàn Quốc rất chú trọng đến công tác nghiên cứu triển khai nhằm tăng cường đưa khoa học công nghệ vào thực tế sản xuất kinh doanh. Mức đầu tư cho nghiên cứu triển khai công nghệ được nâng từ 0,58% tổng sản phẩm quốc dân năm 1980 lên 1,9% vào năm 1989; 3,5% năm 1995 và dự kiến lên 5% năm 2000 [115]. Chỉ tính trong năm 1002, đầu tư cho nghiên cứu và triển khai ở Hàn Quốc đã lên tới 25,2 tỷ đô la Mỹ, chiếm 2,1% tổng sản phẩm xã hội và cứ 10.000 người dân có 30 cán bộ khoa học. Đây là điều kiện tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của Hàn Quốc trên thị trường thế giới. Nhà nước chú trọng tìm cách giảm bớt chi phí cho nhập khẩu và có được công nghệ tiên tiến mà không phải khi nào cũng nhập khẩu được. Chính phủ Hàn Quốc thực hiện chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nhằm củng cố và thúc đẩy công nghệ trong nước và các quan hệ kinh tế ổn định với các bạn hàng buôn bán chủ yếu. Từ năm 1987, Hàn Quốc đã cải cách căn bản nhằm tăng cường sự bảo vệ quyền sở hữu tài sản tri thức. Luật bản quyền của Hàn Quốc đã quy định: bảo vệ toàn diện đối với các tác phẩm trong nước cũng như nước ngoài, quyền tác giả được kéo dài suốt dọc cuộc đời cọng thêm 50 năm; nhấn mạnh việc chống lại sự vi phạm quyền tài sản tri thức bằng các luật lệ cụ thể, kể cả lĩnh vực phần mềm máy tính.
- Từ tháng 7/1980 đến 9/1982, tất cả các dự án công nghệ với chi phí kỹ thuật thường xuyên dưới 10%, thời hạn hợp đồng dưới 10 năm đều được nhập công nghệ áp dụng cho tất cả các ngành.
- Từ tháng 9-1982 đến tháng 7/1984, tất cả các dự án nhập công nghệ đều được phép nếu người phụ trách cao nhất của lĩnh vực khoa học kỹ thuật ủng hộ.
- Từ tháng 7/1984, mọi dự án nhập công nghệ đều được cho phép, nếu sau 20 ngày gửi đơn, Bộ Tài chính không phản đối. Giai đoạn này được gọi là giai đoạn chuyển từ cơ chế cho phép sang cơ chế báo cáo.
Nhìn chung, Hàn Quốc trong thập kỷ 80,90 đã đầu tư thích đáng vào nghiên cứu và triển khai công nghệ. Năm 1981 tổng chi phí cho lĩnh vực này chiếm 0,64% GDP, đã tăng lên 2,02% vào năm 1991, và hơn 2,5% năm 1995 [56]. Ở Hàn Quốc các viện nghiên cứu quốc gia là khâu quan trọng không thể thiếu trong hệ thống nghiên cứu và triển khai. Các trường đại học có nhiệm vụ tập trung nghiên cứu cơ bản, các viện nghiên cứu tư nhân tập trung vàonc ứng dụng, các viện nghiên cứu quốc gia thì đảm nhận những đề tài có độ rủi ro lớn với mức đầu tư tài chính lớn mà các công ty tư nhân không có khả năng hoặc không muốn đảm nhận. Các viện nghiên cứu quốc gia như viễn thông, năng lượng, điện tử đều được đầu tư thích đáng. Nhà nước khuyến khích các công ty tư nhân tăng cường nghiên cứu triển khai bằng các hình thức như giảm thuế, giảm giá đặc biệt, trợ cấp tài chính trực tiếp hoặc cho vay vốn với lãi suất thấp, thực hiện các đơn đặt hàng của nhà nước. Do vậy, tỷ lệ đầu tư của các công ty tư nhân vào nghiên cứu triển khai tăng bình quân 20%/năm. Đồng thời số viện nghiên cứu tư nhân tăng nhanh, năm 1980 có 52 viện, 1993 có 1.445 viện [4].
Từ 1974 đến năm 1984, ở Hàn Quốc đã xuất hiện hàng loạt các cơ sở nghiên cứu, triển khai về khoa học, công nghệ với sự trợ giúp của Nhà nước về tài chính, thuế và sự bảo hộ về thị trường. Chức năng của các cơ quan này là nghiên cứu và phát triển các dự án quốc gia về năng lượng nguyên tử, công nghệ chế tạo máy, sản xuất kim loại và đóng tàu, hoá chất, bán dẫn và máy tính, vô tuyến viễn thông, lazer v.v... Chính những nỗ lực của Hàn Quốc trong nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ đã làm cho năng suất lao động trong các ngành sản xuất trong vòng 19 năm (19966-1985) tăng trung bình hàng năm 3,1%. Hàn Quốc chủ trương vươn tới những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ trong những năm tới. Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ rất tích cực cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai dưới dạng tài chính, thuế và thăm dò thị trường nếu các kết quả nghiên cứu triển khai được thương mại hoá. Đó là việc mua bán bản quyền phát minh giữa cơ quan nghiên cứu và người sản xuất. Những cơ quan hỗ trợ kinh doanh đã được thành lập có chức năng đầu tư hoặc giúp việc cho các doanh nghiệp mới thuộc các ngành kỹ thuật cao, có thể phải chấp nhận những rủi ro trong đầu tư, đặc biệt vào thời kỳ ban đầu với điều kiện dễ dàng hoặc ưu đãi. Đó là thủ tục cấp vốn đơn giản, lãi suất thấp và thời gian vay có thể kéo dài 15 năm. Các công ty này cũng sẵn sàng chia sẻ tối đa 30% lỗ nếu dự án không thành công. Nếu dự án đem lại hiệu quả cao, thì công ty đỡ đầu về tài chính được quyền hưởng phần lãi tương đương như khi chịu lỗ. Ngoài ra, ở Hàn Quốc, hệ thống ngân hàng thương mại cũng tham gia hỗ trợ tài chính cho những dự án phát triển khoa học và công nghệ.
· Chính sách nguồn nhân lực
Năm 1982, Uỷ ban quản lý và dạy nghề Hàn Quốc đã được thành lập gồm viện dạy nghề trung ương và 24 trung tâm dạy nghề của nhà nước. Năm 1991, Uỷ ban nhân lực Hàn Quốc đã có 25 viện dạy nghề. Bên cạnh đó, một số viện dạy nghề nhà nước do chính phủ điều hành, hoặc do chính quyền địa phương quản lý. Nhìn chung, ở Hàn Quốc có sự đa dạng hoá về các hình thức đào tạo với sự tham gia của nhiều chủ thể.
Việc dạy nghề tại xí nghiệp do các hãng tư nhân tiến hành và được các hệ thống thuế đào tạo trang trải. Năm 1992, có 3.417 xí nghiệp buộc phải chi vào dạy nghề một khoản bằng 0,1-0,9% lương. Các xí nghiệp này thuộc loại xí nghiệp có số công nhân thường xuyên là 150 người hay hơn trong các ngành mỏ, chế tạo, xây dựng, vận tải, công ích, dịch vụ… trong đó có 551 xí nghiệp đang tham gia vào các hoạt động đào tạo tại 296 trung tâm dạy nghề tại xí nghiệp [85]. Dạy nghề uỷ thác là loại hình dạy nghề tiến hành với sự thông qua của Bộ Lao động. Năm 1992 đã có hơn 10 trung tâm dạy nghề uỷ thác do các tập đoàn phúc lợi xã hội đảm nhiệm, 15 trung tâm do các tập đoàn phi lợi nhuận và 67 trung tâm do các cá nhân đảm nhiệm.
Từ cuối thập kỷ 80- đầu thập kỷ 90, Hàn Quốc đã tích cực cải tiến hệ thống giáo dục, mở rộng các cơ sở nghiên cứu và triển khai. Ngân sách dành cho hệ thống giáo dục của Hàn Quốc cũng tăng lên nhanh chóng đạt 19-21% chi ngân sách trong thập niên 1980. Song nếu so với GNP thì tỷ trọng chi tiêu cho giáo dục đã chiếm tới 4,2% trong đầu thập niên 1990. Đầu tư cho giáo dục ở Hàn Quốc có thể nói cao nhất trong tất cả các nước đng phát triển và gần ngang với mức của một số nước phát triển như Đức là 4,5% GNP, Anh 5% GNP [6].
Hàn Quốc đã thực hiện chính sách chạy đua về giáo dục, mục tiêu tăng nhanh đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật được coi là quốc sách. Đây là hiện tượng đáng chú ý ở Hàn Quốc cũng như Nhật Bản và Đài Loan những năm gần đây. Hàng năm, Hàn Quốc có 13 số lượng thanh niên theo học đại học. Mỗi năm có 32.000 người tốt nghiệp các trường đại học, tỷ lệ này cao bằng Nhật [106].
Nền kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng có sự đóng góp rất quan trọng của nguồn nhân lực được đào tạo. Hiện nay, các doanh nghiệp Hàn Quốc đã bắt đầu phải tìm cách tiết kiệm lao động và chú trọng sử dụng lao động tay nghề cao. Việc cơ cấu lại đội ngũ nhân lực trước đòi hỏi mới của nền kinh tế luôn được Hàn Quốc quan tâm với những thay đổi về phương pháp và nội dung dạy nghề.
2.1.4.3. Những kết quả đạt được
Trong giai đoạn từ năm 1982 đến nay, thực hiện chính sách da dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá thị trường và nâng cấp công nghiệp trong điều kiện tăng cường tự do hoá thương mại và đầu tư và tạo nên những biến đổi về chất lượng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hàn Quốc. Đây là những yếu tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế cao của Hàn Quốc giai đoạn 1982-1995.
Hình 2.3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc 1981-1995 (%)
Nguồn: Kinh tế - xã hội số 27-28 (23-30/7/1994), và Kinh tế Hàn Quốc trước thềm TK21
Thực tế cho thấy, nhờ có sự những bước đi thích hợp, tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc cao hơn so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, năm 1994 là 8,4%; 1995 là 9%, năm 1996 là 6,8%. Trong đó, công nghiệp Hàn Quốc đã có bước phát triển nhanh, liên tục và vững chắc. Suốt trong 2 kế hoạch 5 năm lần thứ 5 và 6, sản lượng công nghiệp tăng bình quân 12,6%/năm và tỷ trọng công nghiệp trong GDP giai đoan này luôn chiếm 40% so với 10% của nông nghiệp. Xuất khẩu thiết bị máy móc, ô tô, tàu biểu không ngừng tăng lên chiếm gần 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của Hàn Quốc. Nếu như năm 1970, Hàn Quốc chỉ xếp thứ 45 về xuất nhập khẩu trên thế giới thì năm 1994, Hàn Quốc đã vươn lên hàng thứ 12, chiếm 2,2% kim ngạch xuất khẩu thế giới, đạt 96 tỷ USD, gấp 2.342 lần so với năm 1961. Mức sống của người dân được nâng cao với thu nhập bình quân đầu người năm 1991 đạt 5.569 USD/năm, 1994 đạt 8.473 USD/năm, năm 1995 đạt 10.070 USD/năm [58]. Trình độ phát triển công nghiệp của Hàn Quốc đã được quốc tế công nhận. Tháng 10 năm 1996, Hàn Quốc trở thành thành viên của các nước công nghiệp phát triển OECD. Do vậy, vị trí và vai trò của công nghiệp Hàn Quốc trong nền kinh tế thế giới tăng lên.
Bảng 2.6: Xếp hạng và tỷ phần của công nghiệp Hàn Quốc trong nền
công nghiệp thế giới (1994)
Ngành
Tỷ phần (%)
Xếp hạng
1. Công nghiệp đóng tàu
22,2
2
2. Công nghiệp bán dẫn
11,5
3
3. Công nghiệp điện tử
6,4
5
4. Công nghiệp sắt thép
4,7
6
5. Công nghiệp hoá dầu
4,6
5
6. Công nghiệp dệt
7,6
5
7. Công nghiệp ô tô
4,6
6
Nguồn: Economics Bulletin 3.1996, Vol.18, No3, tr.37
Từ những năm 1960 đến 1995, từ một nước có nền kinh tế thấp kém với nông nghiệp là chính, Hàn Quốc đã trở thành nước công nghiệp mới, CNH ở nước này đã qua các giai đoạn cụ thể. Mỗi giai đoạn ấy đều đánh dấu những thay đổi về chất trong phát triển với những thay đổi về cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả và hiện đại. Đó chính là quá trình cấu trúc lại cơ cấu kinh tế, nâng cao lợi thế so sánh của Hàn Quốc trong quá trình hội nhập kinh tế, khi cách mạng khoa học kỹ thuật đang tạo ra những biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế quốc tế, sản xuất tiêu dùng đã mang tính quốc tế hoá cao và hình thành nên trật tự phân công lao động quốc tế mới.
2.1.4.4. Hạn chế và những vấn đề đặt ra
Trong mấy thập kỷ qua, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hàn Quốc đã thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng liên tục. Tuy vậy, trong quá trình phát triển, những hạn chế cũng dần bộc lộ và đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Ở đây, luận án chỉ tập trung vào những hạn chế chủ yếu có tính đặc thù của Hàn Quốc - một nước công nghiệp mới đang trong quá trình hội nhập quốc tế.
- Về qui mô và hiệu quả hoạt động của các tập đoàn công nghiệp lớn. Trong những thập kỷ gần đây, chính phủ Hàn Quốc đã có những biện pháp đẻ điều chỉnh mối quan hệ giữa các tập đoàn công nghiệp lớn (chaebol) và các xí nghiệp qui mô vừa và nhỏ. Tuy vậy, trên thực tế, các chaebol vẫn được hưởng rất nhiều ưu đãi, nhất là trong việc vay tín dụng, đến mức họ gần như không phải chú ý đến việc làm sao thu hồi vốn một cách thoả đáng. Phương thức kinh doanh của họ là vay nợ cao để mở rọng và phát triển sản xuất kinh doanh. Thông thường, các chaebol đã vay từ 200 đến 1000% so với số vốn tự có để kinh doanh. Các tập đoàn này như những "con bạch tuộc" toả vòi đi khắp nơi để vay vốn mở rộng sản xuất mà chủ yếu là đầu tư vào bất động sản với hy vọng giá bất động sản sẽ tăng nhanh hơn lãi suất ngân hàng. Có những tập đoàn mà tổng số nợ ngân hàng của họ lớn gấp 3, gáp 4 lần tổng giá trị tài sản của họ, trong khi giá bất động sản thì không những không tăng lên mà lại còn giảm đi, nên các tập đoàn rơi vào tình trạng mất hoàn toàn khả năng thanh toán.
Bên cạnh đó, với số vốn ưu đãi, các chaebol đã mở rộng sản xuất một cách thái quá mà không tập trung nghiên cứu dung lượng thị trường trong nước và thế giới. Do đó, khi nhu cầu thế giới về hàng điện tử, sắt thép, ô tô… (sản phẩm chính của các tập đoàn này) giảm đi nhanh chóng và lại càng giảm hơn nữa do ảnh hưởng của cuộckhủng hoảng khu vực thời gian gần đây đã tạo nên sự "rớt giá", khiến cho hoạt động xuất khẩu của Hàn Quốc lâm vào tình trạng khó khăn và lợi nhuận của các chaebol vì thế cũng giảm theo. Thực tế, chính phủ đã đánh mất khả năng điều khiển thị trường cạnh tranh và đầu tư của các chaebol, trong khi các chaebol tiếp tục bành trướng dẫn tới nợ nước ngoài ngày càng gia tăng. Nợ nước ngoài đã tăng lên nhanh vào đầu những năm 90 khi thặng dư tài khoản vãng lai của Hàn Quốc bắt đầu giảm xuống. Chính cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á đã làm chao đảo nền kinh tế Hàn Quốc và làm sụp đổ một số tập đoàn công nghiệp lớn.
Bảng 2.7: Nợ nước ngoài của Hà Nội
Đơn vị: tỷ USD
Năm
Nợ nước ngoài
Tổng số
Dài và trung hạn
Ngắn hạn
Lượng
%
Lượng
%
1982
7,08
24,65
66,5
12,43
33,50
1985
46,67
36,03
77,0
10,64
27,00
1991
39,13
21,89
56,0
17,24
44,00
1997
130,00
78,00
60,0
52,00
40,00
Nguồn: II Sakong, Korea in the World economy, 1993 và Khủng hoảng kinh tế châu Á
- Phụ thuộc quá lớn về vốn, công nghệ và thị trường vào Mỹ, Tây Âu và Nhật nên phát triển kinh tế của Hàn Quốc chưa được bền vững. Thời gian qua, vấn đề vốn, công nghệ và thị trường từ các nước phát triển có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của kinh tế Hàn Quốc. Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế gay gắt cùng với những biến động phức tạp trong đời sống kinh tế quốc tế thì sự phụ thuộc của Hàn Quốc làm nảy sinh những yếu tố tiêu cực đến nền kinh tế trong nước. Thực tế, để duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao, Hàn Quốc phải thu hút nguồn vốn lớn từ nước ngoài. Vì vậy, nợ nước ngoài rất lớn, nếu 1970 là 2,245 tỷ USD thì 1991 là 39,135 tỷ [94]. Hàn Quốc không phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng lai vay nợ dưới dạng ODA và vay thương mại, trong đó tỷ lệ nợ dài hạn luôn chiếm khoảng 60%.
Để đẩy nhanh công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, những năm qua Hàn Quốc tuy đã chú trọng xây dựng tiềm lực công nghệ của mình, nhưng về cơ bản vẫn phải nhập khẩu công nghệ từu Mỹ, Nhật và Tây Âu, đặc biệt là những ngành công nghệ cao như ô tô,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Kinh nghiệm công nghiệp hóa hiện đại hóa của Hàn Quốc.docx