MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN. 7
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án . 7
1.2. Những vấn đề luận án kế thừa và những vấn đề đặt ra luận án cần
tập trung nghiên cứu. 20
Chương 2: KHU ỦY TRỊ - THIÊN - HUẾ THÀNH LẬP, LÃNH ĐẠO KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NưỚC TỪ NĂM 1966 ĐẾN NĂM 1968 . 23
2.1. Thành lập và kiện toàn tổ chức Khu ủy Trị - Thiên - Huế .23
2.2. Khu ủy Trị - Thiên - Huế lãnh đạo kháng chiến từ năm 1966 đến
năm 1968 .38
Chương 3: KHU ỦY TRỊ - THIÊN - HUẾ XÂY DỰNG TỔ CHỨC VÀ LÃNH
ĐẠO KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NưỚC TỪ NĂM 1969
ĐẾN NĂM 1975 . 67
3.1. Củng cố tổ chức và lực lượng, lãnh đạo khôi phục thế trận, chủ
động tiến công, giải phóng Quảng Trị (1969-1972) .67
3.2. Phát triển tổ chức, lãnh đạo xây dựng vùng giải phóng, Tổng tiến
công và nổi dậy ở Trị - Thiên - Huế (1973-1975) .92
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM. 111
4.1. Nhận xét .111
4.2. Một số kinh nghiệm .126
KẾT LUẬN . 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN . 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 152
PHỤ LỤC
211 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 589 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Khu ủy Trị - Thiên - Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ năm 1966 đến năm 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LCM bƣớc sang thời kỳ đấu tranh mới. Ở TTH, Mỹ từng
bƣớc rút quân nhƣng QĐVNCH còn nhiều: 2 sƣ đoàn; 2 lữ đoàn thủy quân
lục chiến, tƣơng đƣơng 27 tiểu đoàn bộ binh; 3 trung đoàn xe tăng thiết giáp
(584 xe, 95 xe tăng); 5 trung đoàn pháo (14 tiểu đoàn) với 285 khẩu pháo; 94
đại đội bảo an; 302 trung đội dân vệ; 5.100 cảnh sát; 144 đoàn bình định;
13.000 lính phòng vệ dân sự [85, tr.199]. Quân Mỹ và QĐVNCH tăng cƣờng
83
củng cố tuyến phòng ngự đề phòng QGP mở đợt tiến công lớn trong Đông -
Xuân; bình định đồng bằng và chủ quan phán đoán rằng trong năm 1972, ở
chiến trƣờng TTH, QGP chỉ đánh vừa nhằm giam chân, thu hút chủ lực của
chúng để phối hợp với chiến trƣờng chính ở Nam Bộ.
Với tầm nhìn chiến lƣợc, thấy rõ sự phát triển của cách mạng trên đà
thắng lợi ở cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao, đế quốc Mỹ có chiều
hƣớng lún sâu vào thế bị động, lúng túng, tháng 5-1971, BCT nhận định: phát
triển thế tiến công chiến lƣợc mới trên toàn chiến trƣờng miền Nam, đánh bại
chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ, chuẩn bị giành thắng lợi
quyết định trong năm 1972, tạo một bƣớc chuyển căn bản làm thay đổi hẳn
cục diện chiến tranh “buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng
thƣơng lƣợng trên thế thua, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị kiên trì và đẩy mạnh
kháng chiến trong trƣờng hợp chiến tranh còn kéo dài” [221, tr.514]. Tháng 8-
1971, BCT ra Nghị quyết về mở cuộc tiến công chiến lƣợc năm 1972 trên các
hƣớng Đông Nam Bộ, TTH, Tây Nguyên và hình thành một cuộc tiến công
toàn Miền để tiêu diệt lớn quân Mỹ và QĐVNCH, mở rộng vùng giải phóng.
Miền Đông Nam Bộ đƣợc BCT xác định là hƣớng chủ yếu vì đánh Mỹ và tay
sai ở đây sẽ tác động mạnh đến Sài Gòn. Công tác chuẩn bị cho đợt hoạt động
quân sự lớn đƣợc gấp rút tiến hành.
Báo cáo của BCT tại Hội nghị lần thứ 20 của Trung ƣơng Đảng (2-
1972), sau khi đánh giá những thắng lợi của LLCM trên chiến trƣờng và
những thất bại, khó khăn của Mỹ, nêu rõ: “Nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nƣớc là
nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta lúc này” [121,
tr.37]. Bộ Chính trị chủ trƣơng, đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên
cả ba vùng chiến lƣợc ở miền Nam và đoàn kết, phối hợp chiến đấu chặt chẽ
với nhân dân hai nƣớc bạn (Lào, Campuchia), kiên quyết đánh bại chiến lƣợc
“Việt Nam hóa chiến tranh” và “Học thuyết Níchxơn”, “giành thắng lợi to
lớn, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh trên thế thua bằng một giải
pháp chính trị có lợi cho ta mà chúng phải có và có thể chấp nhận đƣợc” [121,
tr.144]. Hội nghị nêu rõ phải tiến công đối phƣơng bằng ba đòn chiến lƣợc:
84
“Đòn chiến lƣợc của bộ đội chủ lực trên những chiến trƣờng có lợi; đòn
chiến lƣợc tiến công và nổi dậy ở vùng nông thôn đồng bằng; đòn đấu tranh
cách mạng của quần chúng ở các thành thị”[121, tr.43]. Nhiệm vụ của đòn
chiến lược thứ nhất là “tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lƣợng quân
ngụy, phá vỡ từng bộ phận thế bố trí phòng ngự của địch, mở rộng vùng giải
phóng” [121, tr.43]; nhiệm vụ của đòn chiến lược thứ hai là “kết hợp tiến
công quân sự, chính trị và binh vận, đẩy mạnh phong trào chiến tranh du
kích và phong trào nổi dậy của quần chúng Cần ra sức tăng cƣờng lực
lƣợng ở cơ sở: các tổ chức đảng và tổ chức quần chúng, lực lƣợng du kích và
bộ đội địa phƣơng” [121, tr.43-44]; nhiệm vụ của đòn chiến lược thứ ba là
“phải động viên, tập trung và tổ chức quần chúng rộng rãi, nhanh chóng hình
thành đội quân chính trị đông đảo, kết hợp đấu tranh cách mạng của quần
chúng với việc khoét sâu và lợi dụng mâu thuẫn nội bộ địch” [173, tr.12].
Hội nghị nhấn mạnh: “Về thực chất, các đòn chiến lƣợc nói trên là nội dung
cụ thể của CTND ở miền Nam nƣớc ta trong tình hình mới” [121, tr.77]. Do
đó, phải “động viên toàn lực, cố gắng vƣợt bậc, kịp thời nắm vững thời cơ
thuận lợi và tạo nên thời cơ mới” [121, tr.143].
Từ việc phân tích tình hình quốc tế và trong nƣớc trong Báo cáo của
BCT (2-1972), Hội nghị Trung ƣơng 20 cho rằng: “Năm 1972 là năm hết sức
quan trọng trong cuộc đấu tranh giữa ta và địch trên cả ba mặt trận quân sự,
chính trị và ngoại giao. So sánh lực lƣợng và thế chiến lƣợc trên các chiến
trƣờng đang thay đổi ngày càng có lợi cho ta. Chúng ta đang đứng trƣớc thời
cơ thuận lợi để đƣa cuộc kháng chiến tiến lên mạnh mẽ” [121, 143].
Hội nghị Khu ủy (2-1972) nhận định: “Thế và lực của địch trong khu
suy yếu nhanh chóng và toàn diện”, “thế và lực của ta ở miền núi, nông thôn,
đồng bằng và thành thị, đã và đang phát triển nhanh” [50, tr.58], “tình thế
cách mạng trong khu có biến đổi về chất; những triệu chứng suy sụp và tan rã
của chế độ Mỹ - ngụy xuất hiện ngày càng nhiều, thời kỳ trực tiếp cho cuộc
tổng tiến công và nổi dậy đã bắt đầu” [50, tr.59]. Khu ủy chủ trƣơng: Động
viên toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân nỗ lực vƣợt bậc, tập trung mọi khả
85
năng, phối hợp với bộ đội chủ lực cấp trên, “tiêu diệt và làm tan rã một bộ
phận quan trọng sinh lực và phƣơng tiện chiến tranh, đánh vỡ từng mảng hệ
thống phòng ngự của địch, giành lại thế đứng chân thật vững chắc ở giáp
ranh, khống chế hậu cứ giao thông địch, đánh bại về cơ bản kế hoạch bình
định, tiến lên giải phóng đồng bằng” [50, tr.60]; xây dựng vành đai vũ trang
và chính trị ở vùng ven, phát động đấu tranh chính trị ở thành thị; xây dựng
lực lƣợng mọi mặt, phát triển thế kết hợp “hai chân”, “ba mũi”, “ba vùng”,
“ba thứ quân” vững chắc, làm chuyển mạnh so sánh lực lƣợng có lợi cho
QGP, thay đổi hẳn cục diện chiến trƣờng; “tích cực chuẩn bị phát triển thế tấn
công về phía Nam, nếu có điều kiện thuận lợi thì giải phóng TTH” [50, tr.60].
Đồng thời, Khu ủy cũng chú trọng đến công tác củng cố, xây dựng hậu
phƣơng, căn cứ địa cách mạng và vùng mới giải phóng; phát triển kinh tế, văn
hóa; ra sức xây dựng lực lƣợng toàn diện; đảm bảo an ninh; củng cố tổ chức,
tăng cƣờng lãnh đạo, nhất là tỉnh và huyện.
Ngày 11-3-1972, sau khi xem xét tình hình chiến trƣờng, Thƣờng vụ
QUTW quyết định tiến hành cuộc tiến công chiến lƣợc năm 1972, hƣớng chủ
yếu là chiến trƣờng TTH. Ngày 13-3-1972, Đảng ủy Bộ Tƣ lệnh chiến dịch
tiến công Trị - Thiên (lấy phiên hiệu là B702) đƣợc thành lập. Bộ Chính trị và
QUTW quyết định Bộ Tƣ lệnh chiến dịch gồm các ông: Lê Trọng Tấn, Tƣ
lệnh chiến dịch; Lê Quang Đạo, Chính ủy; các Phó Tƣ lệnh chiến dịch gồm:
Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cƣơng, Doãn Tuế, Hồng Sơn, Lƣơng Nhân, Anh
Đệ; các Phó Chính ủy gồm: Hoàng Minh Thi, Lê Tự Đồng. Đảng ủy chiến
dịch do ông Lê Quang Đạo làm Bí thƣ. Tham gia Đảng ủy còn có Bí thƣ Tỉnh
ủy Quảng Trị. Đồng chí Văn Tiến Dũng đƣợc chỉ định là đại diện QUTW ở
hƣớng chiến lƣợc này [93, tr.14-15].
Bộ Chính trị và QUTW vạch ra phƣơng hƣớng tiến công chiến lƣợc,
quyết định lấy chiến trường TTH làm hướng tiến công quan trọng, về sau
chuyển thành hướng chủ yếu và triển khai thành một chiến dịch quy mô lớn,
một chiến dịch hợp đồng binh chủng - tổng hợp cả quân sự và chính trị.
Nhiệm vụ của chiến dịch tiến công TTH:
86
Tiêu diệt 2 sƣ đoàn, đánh thiệt hại 1 sƣ đoàn khác của địch; phối
hợp tiến công quân sự và nổi dậy của quần chúng ở đồng bằng, đẩy
mạnh phong trào đô thị và công tác binh vận, tiêu diệt và làm tan rã
đại bộ phận lực lƣợng bảo an, dân vệ, phòng vệ dân sự, đánh bại kế
hoạch bình định; giải phóng phần lớn địa bàn TTH, có điều kiện thì
kiên quyết giải phóng hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế; tiêu
diệt, phân tán, giam chân, thu hút lực lƣợng địch, phối hợp với các
chiến trƣờng khác toàn miền Nam; đẩy địch lún sâu vào thế bị động,
tạo lợi thế trên bàn đàm phán ở Pari [134, tr.9].
Chấp hành mệnh lệnh của QUTW, Bộ Tƣ lệnh chủ trƣơng mở hai chiến
dịch kế tiếp, hƣớng chính là Mặt trận Quảng Trị, hƣớng phối hợp là Mặt trận
Thừa Thiên: Chiến dịch 1 tiêu diệt quân Mỹ và QĐVNCH, giải phóng Quảng
Trị; Chiến dịch 2 cùng Mặt trận B4 giải phóng Thừa Thiên Huế.
Khu ủy và Bộ Tƣ lệnh Quân khu động viên quân dân TTH, phối hợp
chặt chẽ với chủ lực Bộ Tổng Tƣ lệnh, phấn đấu đạt mức một (giải phóng
Quảng Trị) và tiến lên mức hai (giải phóng Thừa Thiên Huế). Ở chiến trƣờng
TTH, sang năm 1972, hình thành chiến dịch tổng hợp giữa đòn tiến công của
chủ lực Bộ Tổng Tƣ lệnh với đòn tiến công nổi dậy của CTND địa phƣơng.
Cuối tháng 3-1972, Thƣờng vụ Tỉnh ủy Quảng Trị mở Hội nghị tiếp
thu Nghị quyết Đảng ủy Bộ Tƣ lệnh chiến dịch TTH và quyết tâm:
Phối hợp chặt chẽ với đòn tiến công của chủ lực phát huy cao độ đòn
nổi dậy của quần chúng, tiêu diệt và làm tan rã hệ thống kìm kẹp của
địch, hình thành mặt trận tiến công rộng khắp nhằm tiêu diệt, làm tan
rã lực lƣợng bảo an, dân vệ, ngụy quyền, từng bƣớc giải phóng đất đai,
tiến tới giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị [68, tr.340-341].
Khu ủy, Bộ Tƣ lệnh Quân khu TTH, một mặt chỉ thị cho các lực lượng
vũ trang Quảng Trị chủ động phối hợp, mặt khác chỉ đạo các lực lượng vũ
trang và nhân dân Thừa Thiên Huế tích cực đánh phá bình định của quân Mỹ
và QĐVNCH trên diện rộng, đẩy mạnh phong trào ở thành phố, phát triển
87
mạnh thế trận ba vùng để đón thời cơ. Khi thời cơ đến thì áp sát Huế, chia cắt
bao vây thành phố và các cụm còn lại của đối phƣơng.
Cuộc tiến công chiến lƣợc năm 1972 ở TTH diễn ra hai đợt (thực tế là
hai chiến dịch). Đợt thứ nhất (từ ngày 30-3 đến 26-6-1972), tiến công, giải
phóng tỉnh Quảng Trị, phát triển vào giải phóng tỉnh Thừa Thiên Huế. 11 giờ
ngày 30-3-1972, tiếng súng mở màn chiến dịch tiến công bắt đầu tại Quảng
Trị. Sau năm ngày, toàn bộ hệ thống phòng ngự vòng ngoài của quân Mỹ và
QĐVNCH ở Mặt trận Đƣờng 9 nhanh chóng bị phá vỡ, giải phóng hai huyện
Gio Linh và Cam Lộ. Ngày 27-4-1972, QGP tiến công bƣớc 2, tiêu diệt hoàn
toàn tập đoàn phòng ngự của kẻ thù ở Đông Hà, Ái Tử, La Vang, thị xã
Quảng Trị. Ngày 01-5-1972, tỉnh Quảng Trị hoàn toàn giải phóng.
Ở Thừa Thiên Huế, bộ đội địa phƣơng tỉnh và lực lƣợng vũ trang huyện
Phú Lộc, tăng cƣờng đánh cắt giao thông trên Đƣờng số 1 (đoạn Nam Phú
Lộc); bộ đội địa phƣơng, du kích và cán bộ luồn sâu về đồng bằng, phát động
quần chúng nổi dậy đánh phá bình định, diệt ác ôn, giành quyền làm chủ, phá
hủy một phần thế kìm kẹp, nhất là ở hai huyện Phong Điền và Quảng Điền.
Kết thúc đợt thứ nhất, tỉnh Quảng Trị và ba xã thuộc huyện Phong Điền
(Thừa Thiên Huế) đƣợc giải phóng. Quảng Trị là tỉnh đầu tiên được hoàn
toàn giải phóng trong cuộc kháng chiến trƣờng kỳ chống lại đế quốc “sen
đầm quốc tế”, đƣợc xem là mạnh nhất vào thời điểm đó. Thắng lợi này buộc
đối phƣơng phải thừa nhận: “Quân Sài Gòn đã tháo lui rất hỗn độn khỏi các
căn cứ hỏa lực bố trí dọc theo khu phi quân sự Một trung đoàn quân Sài
Gòn có chặn họ ở phía Bắc Quảng Trị nhƣng đã bị thiệt hại nặng. Thị xã này
thất thủ khi các binh sĩ phòng thủ kinh hoàng tháo chạy về hƣớng cửa ngõ
Huế” [130, tr.51]. “Cộng sản tấn công với tốc độ nhanh và chính xác. Quân
đội của họ đã đạt đƣợc một chiến thắng nhanh nhƣ chớp” [2, tr.18].
Đợt thứ 2 (từ ngày 28-6-1972 đến ngày 27-1-1973), đánh quân Mỹ và
QĐVNCH phản công chiếm lại vùng giải phóng Quảng Trị, tiến hành phòng
ngự tiêu hao, tiêu diệt kẻ thù, giữ vững vùng giải phóng. Trên mặt trận Quảng
Trị, bƣớc 1 (từ ngày 28-6 đến 16-9-1972), quân Mỹ và tay sai vƣợt sông Mỹ
88
Chánh mở cuộc phản công quy mô lớn (bao gồm 2 sƣ đoàn cơ động chiến
lƣợc) nhằm chiếm lại thị xã Quảng Trị - tạo thế về quân sự cho cuộc đàm
phán ở Pari; QGP giữ thị xã, liên tục phản công từ các hƣớng và hai bên sƣờn
phía Đông và phía Tây. Sau 81 ngày đêm QGP chiến đấu quyết liệt để giữ
vững vùng giải phóng và thị xã Quảng Trị, quân Mỹ và QĐVNCH thiệt hại
nặng nhƣng chiếm lại Thành cổ Quảng Trị và huyện Hải Lăng. Bƣớc 2 (từ
ngày 17-9-1972 đến 27-1-1973), kẻ thù tiếp tục lấn chiếm phía Đông và phía
Tây, vƣợt sông Nhan Biều - Ái Tử, lấn chiếm vùng giải phóng; QGP đánh bật
quân Mỹ ở Nhan Biều - Ái Tử, chặn ở hƣớng Tích Tƣờng - Nhƣ Lệ.
Trên mặt trận Thừa Thiên Huế, QGP tiến công làm chủ Động Tranh,
cao điểm 372, Sơn Na; đánh sâu vào các hậu cứ của Mỹ và CQVNCH ở đồn
Mang Cá, sân bay Tây Lộc, Phú Bài, gây cho đối phƣơng nhiều thiệt hại
nhƣng sức chiến đấu của QGP càng ngày càng giảm sút, không thực hiện
đƣợc kế hoạch đề ra.
Đợt 2 diễn ra 218 ngày đêm, lúc đầu QGP chủ trƣơng chuyển từ chiến
dịch tiến công sang chiến dịch phản công. Khi nhận thấy quân Mỹ và
QĐVNCH đang mạnh, QGP chuyển dần sang chiến dịch phòng ngự. Đây là
chủ trương đúng đắn, kịp thời. Nhờ đó, QGP có thể củng cố lực lƣợng, kiên
cƣờng đánh trả các cuộc tiến công của đối phƣơng, bảo vệ vùng giải phóng,
giữ vững thế trận. Sự kiện QGP rút khỏi Thành cổ “trên thực tế không ảnh
hƣởng nhiều đến thế trận ngay tại Trị - Thiên cũng nhƣ cục diện chiến trƣờng
trên toàn miền Nam giữa ta và địch” [134, tr.11]. Đế quốc Mỹ tuy đạt đƣợc
mục tiêu chiếm lại thị xã Quảng Trị nhƣng “không vì thế mà sức mạnh quân
sự của chúng tăng lên, không vì thế mà có thể thay đổi đƣợc thế trận, giành
đƣợc quyền chủ động chiến lƣợc trên chiến trƣờng” [134, tr.11] và cũng
không thể dựa vào đó để gây “sức ép” với Chính phủ VNDCCH và Chính phủ
Cách mạng lâm thời CHMNVN tại bàn đàm phán ở Pari.
Trong năm 1972, toàn khu TTH tập trung, ƣu tiên hàng đầu thực hiện
cuộc tiến công chiến lƣợc nhƣng ở các mặt hoạt động khác phối hợp cùng lĩnh
vực đấu tranh vũ trang cũng phát triển mạnh và đạt nhiều kết quả đáng kể.
89
Về công tác dân vận, đấu tranh chính trị, tháng 3-1972, Tỉnh ủy Thừa
Thiên Huế ra Chỉ thị về kế hoạch dân vận Xuân - Hè 1972, nêu rõ: “phát động
phong trào đấu tranh của quần chúng nổi dậy đánh phá bình định bằng ba mũi
giáp công nhằm phá lỏng, đến phá rã thế kìm kẹp của địch, từng bƣớc giành
quyền làm chủ của quần chúng” [72]. Trong tháng 4 và 5-1972, Ủy ban
MTDTGP tỉnh Thừa Thiên Huế đã phát động quần chúng ở 175 thôn trong
phạm vi 33 xã, khoảng 4 vạn dân [216, tr.319] bằng các hình thức vũ trang
tuyên truyền, mittinh, hội họp, gửi thƣ, tài liệu hoặc cán bộ bồi dƣỡng cơ sở.
Ở thành phố Huế, học sinh, sinh viên phổ biến nhiều tập san, báo chí có nội
dung binh vận. Đến cuối năm 1972, toàn tỉnh có 470 cuộc đấu tranh chính trị
lớn nhỏ với khoảng 55.000 lƣợt ngƣời tham gia [216, tr.321].
Ở Quảng Trị, trƣớc cuộc tiến công chiến lƣợc 1972, Ủy ban MTDTGP
tỉnh Quảng Trị gửi thƣ kêu gọi toàn thể đồng bào trong tỉnh: “Đoàn kết nhất
trí, trên dƣới một lòng, nhất hô bá ứng, gắn bó tình nghĩa xóm thôn, chuyện
cũ bỏ qua, cùng nhau “đấu cật chung lƣng”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào”” [228, tr.214-215]. Nhân dân Quảng Trị tích cực hƣởng ứng lời kêu
gọi, đóng góp xứng đáng vào chiến công giải phóng tỉnh nhà. Ngày 5-6-1972,
Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Trị gồm 13 đại biểu đƣợc thành lập:
Lê Bổ (Lê San) làm Chủ tịch; Nguyễn Thƣ (Nguyễn Sanh) làm Phó Chủ tịch;
11 ủy viên: Nguyễn Tập, Phan Văn Khánh, Hùng Sơn, Hoàng Phủ Ngọc
Tƣờng, Trần Phố, Lê Ngọc Uynh, Trần Quang Huy, Hồ Văn Lôi, Nguyễn
Hoành, Hồ Văn Xinh, Nguyễn Thị Bảo [68, tr.359].
Dƣới sự lãnh đạo của Khu ủy, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân cách mạng
tỉnh Quảng Trị động viên nhân dân tiếp tục chiến đấu, bảo vệ quê hƣơng, tổ
chức đời sống nhân dân. Sự kiện này có ý nghĩa lớn đối với đời sống chính trị
của nhân dân Quảng Trị nói riêng và toàn miền Nam nói chung vì đây là Ủy
ban nhân dân cách mạng đầu tiên ra đời ở miền Nam trong cuộc KCCMCN.
Công tác binh vận đạt nhiều kết quả tốt. Ở tỉnh Quảng Trị, trong chiến
đấu, QGP vận động Ban Chỉ huy liên quân biệt động của kẻ thù đầu hàng, dẫn
550 sĩ quan, binh lính về với lực lƣợng cách mạng; ở huyện Hải Lăng, trong
90
năm ngày vận động, kêu gọi 450 phòng vệ dân sự về nhà làm ăn, nộp lại 216
súng các loại, 150 dân vệ mang theo súng về với cách mạng; ở xã Hải Thƣợng
có mẹ vận động đƣợc một tiểu đoàn nộp súng cho cách mạng [228, tr.221]. Ở
tỉnh Thừa Thiên Huế, nhiều cơ sở nội tuyến phát triển mạnh, lôi kéo đƣợc
nhiều QĐVNCH quay súng về với cách mạng, tiêu biểu ở Ấp 5 - Phú Bài -
Hƣơng Thủy đã phát triển hơn 100 cơ sở nội tuyến; ở xã Mỹ Thủy (Hƣơng
Thủy) vận động cả tiểu đội phòng vệ trả súng về nhà làm ăn
Thực hiện Chỉ thị về vấn đề đấu tranh lợi dụng kinh tế địch, xây dựng
kinh tế tự chủ của ta (cuối năm 1971) của Khu ủy và Chỉ thị tối khẩn số
20b/A200 ngày 23-4-1972 của Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, công tác xây dựng
hậu phƣơng, phát triển kinh tế trong toàn Khu cũng phát triển mạnh mẽ, giành
đƣợc nhiều thành tựu, góp phần tích cực vào cuộc tấn công chiến lƣợc 1972.
Mối quan hệ giữa Khu ủy với Đoàn ủy 559, Khu ủy IV, Khu ủy Vĩnh
Linh, Tỉnh ủy Quảng Bình đƣợc tăng cƣờng. Cục vận tải thuộc Đoàn 559,
đoàn vận tải Quân khu IV, cùng thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến
của khu vực Quảng Bình, Vĩnh Linh vận chuyển vƣợt cung 16.020 tấn hàng
phục vụ chiến dịch Trị - Thiên năm 1972. Tỉnh Quảng Bình “sử dụng 100%
lao động ngành thủy sản, hàng chục nghìn lao động nghề cá làm nhiệm vụ vận
tải quân sự trên các tuyến sông, biển, hàng chục nghìn thanh niên xung
phong, dân công và nhân dân các xã ven các tuyến đều lên mặt đƣờng”; hầu
hết nhà dân, đền chùa “trở thành kho tàng, bến, bãi” [168, tr.332].
Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, công tác xây dựng Đảng vẫn đƣợc
coi trọng. Cán bộ Đảng từ các cơ quan đóng ở miền núi về đồng bằng để kịp
thời chỉ đạo phong trào cách mạng. Trong các huyện, xã, các Đảng bộ, chi bộ
không ngừng chăm lo xây dựng, củng cố và phát triển lực lƣợng chính trị, vũ
trang, thực lực tại chỗ. Các cơ sở Đảng liên tục củng cố về tổ chức, chấn
chỉnh, uốn nắn những tƣ tƣởng lệch lạc của các bộ, đảng viên. Nhiều đồng chí
đoàn viên, thanh niên nhiệt tình, hăng say công tác, chiến đấu, có phẩm chất,
đạo đức tốt đƣợc đƣa vào đối tƣợng để kết nạp Đảng. Các tổ chức Đảng ngày
càng lớn mạnh về mọi mặt, vững vàng lãnh đạo phong trào cách mạng.
91
Trong cuộc tiến công chiến lƣợc năm 1972, chiến trƣờng TTH giành
đƣợc thắng lợi: Tiêu diệt sinh lực lớn về quân số và phƣơng tiện chiến tranh
của đối phƣơng; giữ vững vùng giải phóng ở tỉnh Quảng Trị và miền Tây tỉnh
Thừa Thiên Huế; bộ đội trƣởng thành đáng kể trong tổ chức chỉ huy chiến
dịch tổng hợp và tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Cuộc tiến công
còn hạn chế: Tổ chức chuẩn bị chiến trƣờng chƣa đầy đủ nhất là ở phía Tây
nên không tận dụng đƣợc thế hiểm từ phía Tây Nam đánh xuống để thực hiện
chia cắt quân Mỹ và tay sai; khi kẻ thù phản kích, QGP không sớm thay đổi
cách đánh cho phù hợp, nhập nhằng giữa phản công và phòng ngự nên không
giữ đƣợc toàn vẹn tỉnh Quảng Trị... Ở Thừa Thiên Huế, không thực hiện tốt
nhiệm vụ phối hợp tác chiến giữa các trận địa, chƣa giải phóng đƣợc tỉnh nhƣ
kế hoạch ban đầu; không lợi dụng đƣợc thời cơ đối phƣơng dao động sau thất
bại ở Quảng Trị để đấu tranh đƣa phong trào đồng bằng lên cao hơn.
Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lƣợc Trị - Thiên năm 1972, cùng
với chiến thắng ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và chiến công của miền Bắc
trong chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai mà đỉnh cao là đánh bại cuộc tập
kích đƣờng không chiến lƣợc của Mỹ mang mật danh “Linebaker II” bằng
máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phƣơng trên miền Bắc (từ
ngày 18 đến ngày 30-12-1972), buộc đế quốc Mỹ phải trở lại bàn đàm phán,
ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (27-1-
1973) tại Pari, chấp nhận rút quân khỏi miền Nam. Sự kiện này làm thay đổi
cục diện chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, đánh dấu bƣớc ngoặt quan trọng
quyết định đến thắng lợi của cuộc KCCMCN của nhân dân Việt Nam.
Để góp phần vào thắng lợi trên, Khu ủy đã lãnh đạo xây dựng tổ chức
Đảng và LLCM ngày càng phát triển mạnh; phối hợp tác chiến hợp đồng binh
chủng quy mô lớn hiệu quả với bộ đội chủ lực, phát huy sức mạnh của nổi
dậy với tiến công trong chiến dịch Trị - Thiên; nhanh chóng xây dựng chính
quyền cách mạng, phát triển lực lƣợng vũ trang, lực lƣợng chính trị địa
phƣơng; tổ chức sơ tán hơn 8 vạn dân Quảng Trị ra Vĩnh Linh, Quảng Bình,
sau đó nhanh chóng đƣa về ổn định đời sống. Đảng bộ, chiến sĩ và nhân dân
92
TTH nói chung, Quảng Trị nói riêng đã đóng góp trí tuệ, sức ngƣời, sức của
to lớn vào cuộc tiến công chiến lƣợc Trị - Thiên năm 1972, nhất là sự kiện
giải phóng tỉnh Quảng Trị và cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ.
3.2. PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC, LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÙNG GIẢI
PHÓNG, TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY Ở TRỊ - THIÊN - HUẾ (1973-1975)
3.2.1. Phát triển tổ chức, lãnh đạo đấu tranh thi hành Hiệp định Pari
và xây dựng vùng giải phóng
3.2.1.1. Tình hình và chủ trương của Trung ương Đảng, Khu ủy sau
Hiệp định Pari
Sau Hiệp định Pari, ở miền Nam Việt Nam tồn tại hai vùng với hai
chính quyền quản lý. Sau khi Hiệp định có hiệu lực, đế quốc Mỹ âm mƣu phá
hoại Hiệp định để tiếp tục thực hiện chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”,
tăng cƣờng viện trợ quân sự cho QĐVNCH. Nhờ viện trợ của Mỹ, CQVNCH
không ngừng củng cố lực lƣợng, ngang nhiên phá hoại Hiệp định Pari; tổ
chức nhiều cuộc hành quân bình định, lấn chiếm, lập tuyến phòng thủ nhằm
đẩy lực lƣợng của QGP ra xa, hòng tiến tới xóa bỏ vùng giải phóng.
Về phía LLCM, phong trào chính trị còn yếu, các mũi tấn công chính
trị, quân sự, binh vận ở nhiều nơi chƣa đủ mạnh; vùng giải phóng chƣa củng
cố vững chắc; lực lƣợng vũ trang ba thứ quân phát triển chƣa cân đối, bộ đội
địa phƣơng và dân quân du kích còn yếu. “Trên bƣớc chuyển lớn của tình
hình, có nơi lừng chừng, hữu khuynh trong chủ trƣơng đối phó với địch, cho
nên chúng lấn chiếm đất, kìm kẹp thêm đƣợc dân” [122, tr.230-231], các cơ
sở cách mạng ở thành phố chƣa đƣợc củng cố, phát triển đúng mức...
Ở TTH, so sánh lực lƣợng giữa QGP và CQVNCH thay đổi sâu sắc.
Sau Hiệp định Pari, trên chiến trƣờng TTH hình thành hai khu vực: vùng giải
phóng bao gồm một phần đồng bằng Quảng Trị và miền Tây TTH chiếm 83%
diện tích với dân số 133.324 ngƣời (15% dân số) [92, tr.216], có rừng núi,
đồng bằng và đô thị, có hải cảng, sân bay và đƣờng giao thông chiến lƣợc
quan trọng, có lực lƣợng vũ trang hùng hậu (nhất là chủ lực) đƣợc triển khai
trên các khu vực và các hƣớng trọng yếu. Vùng CQVNCH tạm thời kiểm soát
93
bị thu hẹp, còn một phần đồng bằng Quảng Trị và đồng bằng Thừa Thiên Huế
(17% diện tích đất đai); quân số của QĐVNCH còn đông, bộ máy kìm kẹp
dầy đặc nhƣng nằm trong một địa hình chật hẹp và ở thế bất lợi. Mặt khác,
CQVNCH vẫn kiểm soát 85% dân số (gần 77 vạn dân, trong đó Quảng Trị
khoảng 17 vạn, Thừa Thiên Huế khoảng 60 vạn). Đối phƣơng ngày càng lâm
vào thế đi xuống, thế chống đỡ và suy yếu, còn thế của QGP là thế thắng, thế
tiến công, áp đảo, ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng.
Vị trí chiến trƣờng TTH trở nên quan trọng hơn về nhiều mặt: quân sự,
chính trị, ngoại giao, pháp lý... Quảng Trị là vùng giải phóng hoàn chỉnh nhất
của toàn miền Nam, tiếp giáp miền Bắc XHCN nơi đặt Chính phủ Cách mạng
lâm thời CHMNVN. Đƣờng hành lang chiến lƣợc chạy qua TTH giữ vai trò
quan trọng để có thể tranh thủ sự viện lớn nhất cho chiến trƣờng miền Nam và
cả Đông Dƣơng. TTH là khu vực có Ủy ban quốc tế và tổ chức của hai bên để
giám sát việc thi hành Hiệp định Pari; trở thành một vị trí trung tâm của toàn
miền Nam mà CQVNCH cũng phải thừa nhận về mặt pháp lý.
Trong tình hình đó, cả LLCM và CQVNCH đều coi trọng chiến trƣờng
TTH, tập trung mọi nỗ lực giành ƣu thế. Cuộc chiến đấu giữa hai bên tiếp tục
diễn ra gay go, quyết liệt. Đối phƣơng chủ trƣơng phá hoại, không thi hành
Hiệp định; LLCM vừa tiến công đánh bại mọi âm mƣu thủ đoạn mới của kẻ
thù, vừa xây dựng thế và lực, chuẩn bị điều kiện tiến lên giành toàn thắng.
Từ khi Hiệp định Pari có hiệu lực, Mỹ và CQVNCH tiếp tục thực hiện
chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” với một số biện pháp chủ yếu: phản
kích lấn chiếm vùng giải phóng, mở rộng vùng kiểm soát; thiết lập và củng cố
tuyến phòng thủ mới, phân tuyến, phân vùng để ngăn chặn đẩy lực lƣợng của
QGP; thực hiện kế hoạch bình định, thanh lọc và kìm kẹp nhân dân, đánh phá
cơ sở cách mạng, ổn định hậu phƣơng. Từ năm 1973 trở đi, hình thái cơ bản
trên chiến trƣờng TTH là CQVNCH cố lấn chiếm, LLCM chống lấn chiếm;
QĐVNCH bình định, QGP phá bình định để giữ vững và cải thiện thế trận.
Để tiếp tục đƣa cách mạng miền Nam tiến lên, Hội nghị Trung ƣơng
Đảng lần thứ 21 (10-1973) đề ra đƣờng lối cho cách mạng miền Nam trong
94
giai đoạn mới. Nghị quyết khẳng định: “Con đƣờng của cách mạng miền Nam
là con đƣờng bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm
vững thời cơ, giữ vững đƣờng lối chiến lƣợc tiến công và chỉ đạo linh hoạt để
đƣa cách mạng miền Nam tiến lên” [122, tr.232]. Nghị quyết nhấn mạnh
phƣơng hƣớng chủ động, tích cực, có lợi nhất cho sự nghiệp của cách mạng
cả nƣớc là giƣơng cao ngọn cờ hòa bình và chính nghĩa, kết hợp đấu tranh
chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải nghiêm chỉnh thi hành Hiệp
định. “Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực cách mạng
là yêu cầu vừa bức thiết vừa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tv_khu_uy_tri_thien_hue_trong_cuoc_khang_chien_chong_my_cuu_nuoc_tu_nam_1966_den_nam_1975_2724_19162.pdf