LỜI CAM ĐOAN.i
MỤC LỤC.ii
DANH MỤC BẢNG BIỂU.v
DANH MỤC HÌNH VẼ .vii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT . viii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.1
2. Mục đích nghiên cứu .2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .3
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.4
5. Kết cấu của luận án .4
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1 Tổng quan các công trình nghiên cứu trong nước
1.1.1 Nhóm nghiên cứu về quản lý chi phí và quản lý dự án .5
1.1.2 Nhóm nghiên cứu liên quan đến kiểm soát chi phí .9
1.1.3 Một số tài liệu nghiên cứu khác.17
1.2 Tổng quan các công trình nghiên cứu nước ngoài .18
1.3 Khoảng trống cần nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu của đề tài .22
1.4 Phương pháp nghiên cứu .23
CHƯƠNG II
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SOÁT CHI PHÍ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
CÔNG TRÌNH SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC
2.1 Lý luận về kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng công trình sử dụng vốn nhà nước
2.1.1 Khái niệm và phân loại kiểm soát .25
2.1.2 Khái niệm về kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng .27
2.1.3 Nội dung và phương pháp kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng.28
2.1.4 Mục đích và điều kiện thực hiện kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng .31
2.1.5 Một số khái niệm về dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước và vai trò của các
cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư xây dựng .33
2.1.6 Phân biệt giữa kiểm soát chi phí và quản lý chi phí đầu tư xây dựng .35
2.2 Kinh nghiệm kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng của một số nước trên thế giới
2.2.1 Kiểm soát chi phí xây dựng của Mỹ.37
2.2.2 Kiểm soát chi phí xây dựng của Trung Quốc.40
2.2.3 Kiểm soát chi phí xây dựng của Anh .42iii
2.2.4 Kiểm soát chi phí xây dựng của Úc.46
2.2.5 Kiểm soát chi phí xây dựng của Singapore .49
2.2.6 Bài học đối với Việt Nam rút ra từ kinh nghiệm về kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng
công trình của các nước.53
CHƯƠNG III
THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT CHI PHÍ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
CÔNG TRÌNH SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
3.1 Thực trạng quản lý nhà nước về kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng
3.1.1 Thực trạng về kiểm soát chi phí quy định tại các văn bản hướng dẫn .57
3.1.2 Thực trạng về cơ sở thực hiện kiểm soát chi phí và mô hình kiểm soát chi phí .59
3.1.3 Thực trạng về tổ chức thực hiện kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng công trình sử dụng
vốn nhà nước của chủ đầu tư.61
3.2 Thực trạng kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng đối với một số công trình xây dựng
sử dụng vốn nhà nước
3.2.1 Dự án xây dựng Đường 5 kéo dài.63
3.2.2 Dự án xây dựng tuyến tàu điện ngầm số 2 thành phố Hồ Chí Minh, tuyến Bến ThànhTham Lương .67
3.3 Thực trạng kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng công trình sử dụng vốn nhà nước
theo trình tự đầu tư xây dựng
3.3.1 Kiểm soát chi phí trong giai đoạn chuẩn bị dự án .70
3.3.2 Kiểm soát chi phí giai đoạn thực hiện dự án .73
3.3.3 Kiểm soát chi phí giai đoạn kết thúc xây dựng đưa công trình của dự án vào khai thác
sử dụng .78
3.4 Thực trạng quản lý và kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng theo Nghị định
32/2015/NĐ-CP về quản lý chi phí đầu tư xây dựng qua tổng hợp báo cáo của các Bộ,
Ngành địa phương
3.4.1 Thực trạng về hệ thống định mức dự toán và giá xây dựng .80
3.4.2 Thực trạng thực hiện các nguyên tắc quản lý chi phí đầu tư xây dựng .82
3.4.3 Thực trạng về kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng .82
3.5 Các nhân tố ảnh hưởng tới kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng dự án sử dụng vốn
nhà nước
3.5.1 Nhận diện các nhân tố ảnh hưởng tới kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng công trình sử
dụng vốn nhà nước .87
3.5.2 Chiều hướng tác động của các nhân tố ảnh hưởng.88
3.6 Các công cụ trợ giúp công tác kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng của chủ đầu tư
dự án sử dụng vốn nhà nước .92
CHƯƠNG IV
KẾT QUẢ KHẢO SÁT CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KIỂM SOÁT CHI
PHÍ VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT CHI PHÍ ĐẦU TƯ XÂY
DỰNG CÔNG TRÌNH SỬ DỤNG VỐN NHÀ NƯỚCiv
4.1 Khảo sát thu thập số liệu phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới kiểm soát chi phí
của chủ đầu tư dự án sử dụng vốn nhà nước
4.1.1 Phương pháp thu thập số liệu .94
4.1.2 Phương pháp phân tích .95
4.1.3 Thu thập và phân tích .96
4.2 Xếp hạng các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thu thập và xử lý thông tin của chủ
đầu tư dự án sử dụng vốn nhà nước trong kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng công
trình
4.3 Các thống kê mô tả .99
4.4 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng thu thập và xử lý thông tin của chủ
đầu tư dự án sử dụng vốn nhà nước trong kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng
4.4.1 Phân tích nhân tố khám phá (EFA) .102
4.4.2 Kiểm định sự tin cậy thang đo của các nhóm trên bằng Cronbach’s Alpha.104
4.4.3 Đánh giá trung bình và độ lệch chuẩn .107
4.4.4 Phân tích các công cụ trợ giúp công tác kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng của chủ
đầu tư dự án sử dụng nhà nước.110
4.5 Đề xuất quy trình kiểm soát chi phí trước khi thi công xây dựng
4.5.1 Quy trình kiểm soát chi phí trong giai đoạn chuẩn bị dự án .116
4.5.2 Quy trình kiểm soát chi phí khi xác định dự toán xây dựng công trình .120
4.5.3 Quy trình kiểm soát chi phí khi xác định dự toán gói thầu (giá gói thầu), giá trúng
thầu và xác định giá hợp đồng.125
4.6 Đề xuất quy trình kiểm soát chi phí trong thi công xây dựng
4.7 Đề xuất quy trình kiểm soát chi phí giai đoạn kết thúc xây dựng đưa công trình
của dự án vào khai thác sử dụng
4.7.1 Quy trình kiểm soát chi phí khi quyết toán hợp đồng .134
4.7.2 Quy trình kiểm soát chi phí khi quyết toán dự án hoàn thành.138
4.8 Tổng hợp các quy trình kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng đã đề xuất .139
KẾT LUẬN .142
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 01: TỔNG HỢP Ý KIẾN TRẢ LỜI CỦA CÁC ĐƠN VỊ
PHỤ LỤC 02: PHIẾU ĐIỀU TRA KHẢO SÁT
PHỤ LỤC 03: DANH SÁCH CÁC ĐƠN VỊ THAM GIA KHẢO SÁT
PHỤ LỤC 04: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU
204 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 484 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng công trình sử dụng vốn Nhà nước - Lê Mạnh Cường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hận thức đầy đủ về tầm
quan trọng của TMĐT để kiểm soát chi phí, chưa bao quát hết các đặc điểm, đặc thù
của mỗi dự án để có thể đáp ứng được yêu cầu tính đúng, tính đủ khi xác định TMĐT.
Ngoài ra các hệ công cụ (phục vụ thu thập và xử lý thông tin và hệ thống ngân hàng dữ
liệu về chi phí đầu tư xây dựng) để xác định chi phí phù hợp với giai đoạn lập dự án
72
(chi phí các công trình tương tự, suất vốn đầu tư, chi phí theo bộ phận kết cấu công
trình...) chưa có đầy đủ.
- Đối với cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt TMĐT: TMĐT chỉ là một nội
dung trong dự án (báo cáo nghiên cứu khả thi) và được xem xét trong quá trình thẩm
tra, thẩm định phê duyệt dự án. Việc TMĐT chưa được thẩm tra, thẩm định riêng,
chuyên sâu cũng như những bất cập về trình độ chuyên môn và công cụ thực hiện (hệ
thống bảng biểu ghi chép thông tin cần thu thập trong quá trình kiểm soát chi phí, quy
trình kiểm soát chi phí và hệ thống ngân hàng dữ liệu về chi phí đầu tư xây dựng) nên
việc kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của TMĐT khi thẩm tra, thẩm định phê duyệt dự
án thường chưa hiệu quả. Thực tế các đề xuất TMĐT của dự án đều được chấp thuận
khi thẩm tra, thẩm định phê duyệt dự án.
Như vậy có thể thấy rằng việc kiểm soát chi phí trong giai đoạn chuẩn bị dự án
đầu tư xây dựng chỉ được kiểm soát khi thẩm tra, thẩm định dự án đầu tư xây dựng.
Với việc ban hành Nghị định 32/2015/NĐ-CP ngày 25/3/2015 về quản lý chi phí
đầu tư xây dựng đã quy định 4 phương pháp xác định TMĐT xây dựng, tạo sự linh
hoạt cho việc xác định TMĐT phù hợp với điều kiện cụ thể của dự án và yêu cầu quản
lý chi phí. Nghị định này cũng đưa ra quy định về việc thẩm tra TMĐT và việc thẩm
tra này được chủ đầu tư lựa chọn tổ chức, cá nhân có đủ năng lực quản lý chi phí đầu
tư xây dựng theo quy định về Nghị định quản lý dự án đầu tư xây dựng. Đây là một
bước tiến trong việc đáp ứng yêu cầu xác định TMĐT theo công trình cụ thể, phù hợp
với cơ chế thị trường cũng như bảo đảm cho TMĐT được tính đúng theo quy định
hướng dẫn của nhà nước và tính đủ các khoản mục chi phí thông qua việc thẩm tra của
tổ chức đủ điều kiện năng lực, hoặc các cơ quan chuyên môn và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về kết quả thẩm tra, thẩm định. Tuy nhiên biện pháp kiểm soát chi phí
(thông qua việc thẩm tra, thẩm định) vẫn mang tính thụ động như là một biện pháp
hành chính, không tạo sự chủ động và gắn trách nhiệm của chủ đầu tư ngay khi hình
thành ý tưởng dự án đến khi giá trị TMĐT được thẩm tra, thẩm định và phê duyệt. Đôi
khi sự điều chỉnh, bổ sung TMĐT sau khi thẩm tra, thẩm định đã làm cho thay đổi các
mục tiêu đầu tư cũng như giải pháp thiết kế kèm theo và kết quả là dự án bị kéo dài do
thực hiện việc điều chỉnh.
Để làm rõ hơn các quan điểm trên, tham khảo một số ý kiến của các Bộ ngành,
Sở xây dựng của các địa phương về TMĐT xây dựng công trình với các ý kiến sau:
73
- Việc thẩm định xác định TMĐT dự án thường căn cứ theo quy định suất vốn
đầu tư xây dựng công trình được Bộ Xây dựng công bố. Đối với một số dự án đầu tư
xây dựng, do bị khống chế bởi TMĐT được phê duyệt (theo suất vốn đầu tư) nên ảnh
hưởng đến công tác hoàn thiện, lựa chọn chất lượng chủng loại vật tư hoàn thiện công
trình thỏa mãn yêu cầu chất lượng cao cần thiết cho nhu cầu thực tế sử dụng [10], [68].
- Cơ cấu khoản mục chi phí trong TMĐT, dự toán chưa phù hợp như trường hợp
chi phí hạng mục chung có tính chất thuộc thành phần chi phí gián tiếp trong chi phí
xây dựng nhưng quy định hiện nay [19] lại quy định khoản chi phí này ở khoản mục
chi phí khác trong TMĐT [66], [67].
- Quy định về điều chỉnh TMĐT hiện nay [19] còn một số nội dung thiếu chặt chẽ
dễ gây thất thoát lãng phí thiếu linh hoạt. Chủ đầu tư không dám quyết định (trong trường
hợp điều chỉnh chi phí nhân công, chi phí máy do nhà nước thay đổi về mức lương cơ sở
đầu vào) do chưa bao hàm hết khó khăn trong kiểm soát, kiểm tra TMĐT [66].
- Quy định, hướng dẫn về thẩm quyền phê duyệt, điều chỉnh TMĐT, quy trình
thẩm định TMĐT điều chỉnh chưa được quy định rõ ràng. Phương pháp xác định TMĐT
phù hợp với hình thức đầu tư và phương thức thực hiện của dự án để tính đúng theo quy
định của nhà nước và tính đủ các khoản mục chi phí, đảm bảo đủ cơ sở để xác định giá gói
thầu, dẫn đến trong thực tế các đơn vị tư vấn thường áp dụng phương pháp xác định TMĐT
theo suất vốn đầu tư xây dựng công trình, hoặc xác định theo dữ liệu về chi phí các công
trình tương tự làm cho TMĐT của nhiều dự án (đặc biệt các dự án án có quy mô lớn, sử
dụng công nghệ phức tạp, dự án ODA) không được tính đúng, tính đủ chi phí đầu tư xây
dựng, không phù hợp với các yêu cầu kỹ thuật, điều kiện xây dựng và kế hoạch thực hiện
của dự án, giá gói thầu trên cơ sở thiếu chính xác, nên phải điều chỉnh TMĐT của dự án gây
ách tắc trong quản lý [68].
3.3.2 Kiểm soát chi phí giai đoạn thực hiện dự án
3.3.2.1 Xác định dự toán xây dựng
Thực tế cho thấy dự toán của nhiều dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước khi
xác định vượt TMĐT xây dựng. Quay trở lại ví dụ trước đây về Dự án xây dựng tuyến tàu
điện ngầm số 2 thành phố Hồ Chí Minh, tuyến Bến Thành-Tham Lương cho thấy:
+ Dự án xây dựng tuyến tàu điện ngầm số 2 thành phố Hồ Chí Minh, tuyến Bến
Thành-Tham Lương được Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phê duyệt tại
Quyết định số 447/QĐ-UB ngày 11/10/2010 với tổng vốn đầu tư 1.374,5 triệu USD. Dự
74
toán, tổng dự toán được lập và chủ đầu tư đề nghị thẩm tra có giá trị 2.164,36 triệu USD.
+ Dự án xây dựng tuyến đường sắt đô thị thành phố Hà Nội tuyến 2, đoạn Nam
Thăng Long- Trần Hưng Đạo, với TMĐT đã được phê duyệt tại Quyết định 2054/QĐ-
TTg ngày 13/11/2008 của UBND thành phố Hà Nội là 19.555 tỷ đồng Việt Nam
tương đương 131.023 triệu Yên. Dự toán, tổng dự toán được lập dự tính là 198.598
triệu Yên và sau khi hiệu chỉnh còn khoảng 195.365 triệu USD.
Những ví dụ thực tế về việc dự toán, tổng dự toán vượt TMĐT còn rất nhiều nếu
không muốn nói rằng nó còn khá phổ biến khi xác lập chi phí tại các dự án đầu tư xây
dựng sử dụng vốn nhà nước. Điều này cho thấy có hai vấn đề: Thứ nhất, TMĐT lập
thiếu chính xác, chưa tính đúng theo quy định của nhà nước và tính đủ các khoản mục chi
phí. Thứ hai, dự toán, tổng dự toán được lập còn thiếu cơ sở. Nếu ngoại trừ nguyên
nhân TMĐT tính chưa đúng, chưa đủ thì có nghĩa là dự toán chưa được xác định đúng.
Thông qua thực tế quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình, có thể đưa ra một số
nguyên nhân sau:
- Một là, không có một quá trình liên tục và kế thừa trong việc xác định chi phí.
TMĐT ở giai đoạn lập dự án và dự toán ở giai đoạn thực hiện dự án được xác định
bằng các tổ chức hoặc bộ phận khác nhau. Như vậy việc xác định và quản lý chi phí
không được liên tục.
- Hai là, dự toán được lập căn cứ theo thiết kế và đi sau thiết kế. Khi thiết kế
được hoàn chỉnh, chấp thuận thường mới xác định dự toán do vậy không có khả năng
so sánh chi phí của các phương án thiết kế khác nhau để lựa chọn phương án có thiết kế
không những đáp ứng yêu cầu mà còn thấp hơn TMĐT được duyệt.
- Ba là, do những sai sót về mặt chủ quan của người lập dự toán như: người xác
định chi phí không đủ trình độ chuyên môn yêu cầu (một số tổ chức tư vấn thiết kế sử
dụng người đo bóc khối lượng, lập dự toán là người mới vào nghề, người không quan
trọng ở các bộ phận khác) dẫn tới việc đo bóc thiếu khối lượng, định giá không đúng,
không phù hợp với yêu cầu kỹ thuật công trình. Ví dụ tại dự án xây dựng tuyến tàu
điện ngầm số 2 thành phố Hồ Chí Minh, tuyến Bến Thành-Tham Lương sẽ phải bổ
sung do tính thiếu khối lượng trong TMĐT đã phê duyệt làm chi phí xây dựng và chi
phí mua sắm tăng thêm 228,95 triệu USD.
- Bốn là, do những nguyên nhân khách quan như: hệ thống giá xây dựng vừa
thiếu về bề rộng để có thể bao phủ hết loại hình sản phẩm, công trình lại vừa thiếu độ
75
chính xác phù hợp với đặc điểm từng công trình do mang tính bình quân, cứng nhắc
không đáp ứng những thay đổi, biến động của thị trường. Ví dụ cũng tại dự án xây
dựng tuyến tàu điện ngầm số 2 thành phố Hồ Chí Minh, tuyến Bến Thành-Tham
Lương do áp dụng định mức, đơn giá mới, làm giảm chi phí xây dựng và mua sắm
136,59 triệu USD.
- Vai trò của chủ đầu tư là người kiểm soát chi phí chưa được thể hiện rõ và chưa
hiệu quả. Hầu như không có sự xem xét, khống chế chi phí của chủ đầu tư trong quá
trình xác định dự toán của các tổ chức tư vấn thiết kế. Hiện tại đã có cơ chế thẩm tra,
thẩm định nhưng việc thẩm tra, thẩm định dự toán chỉ có tác dụng kiểm tra sự tuân thủ
các quy định về quản lý chi phí và sau đó sự chính xác của dự toán đề nghị thẩm tra,
thẩm định mà ít có tác dụng khống chế chi phí đầu tư xây dựng công trình.
Các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn về quản lý chi phí đầu tư xây dựng với
cơ chế xác định dự toán theo công trình và phù hợp với thị trường đã khắc phục phần
nào tính thiếu chính xác của dự toán. Tuy nhiên để dự toán có thể là một mức khống
chế chi phí ở các giai đoạn tiếp theo đòi hỏi dự toán phải được tính chuẩn xác, đầy đủ. Để
đáp ứng điều này phải có quy trình kiểm soát đầu tư xây dựng khi xác định dự toán ở giai
đoạn thực hiện dự án mà hiện nay vẫn chưa được giải quyết.
* Tham khảo thêm một số ý kiến về các quy định quản lý dự toán xây dựng của
các Bộ ngành, địa phương:
- Các hướng dẫn hiện hành quy định các phương pháp lập dự toán xây dựng công
trình nhưng một số phương pháp lập dự toán xây dựng công trình không rõ, rất khó
cho quá trình thẩm tra, thẩm định, đánh giá hồ sơ dự thầu; phương pháp, hướng dẫn
xác định chi phí xây dựng (vật liệu, nhân công, máy thi công), chi phí thiết bị, chi phí
khác còn thiếu cụ thể, chi tiết [7], [9], [11], [52], [58], [41].
- Nhiều chủ đầu tư, đơn vị tư vấn không đủ năng lực thực hiện việc thẩm định,
thẩm tra dự toán nên dẫn tới công trình bị chậm tiến độ, lãng phí vốn đầu tư; quy định
về thẩm quyền thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công và dự
toán xây dựng chưa hợp lý [57].
- Quy định về trường hợp thẩm định từng phần của dự toán xây dựng đối với dự
án có quy mô lớn, thời gian thực hiện dự án qua nhiều năm, tiến độ gấp, phải tổ chức
triển khai thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công cho từng công trình, gói thầu
xây dựng theo từng giai đoạn, do đó gây khó khăn lúng túng khi triển khai [11].
76
3.3.2.2 Kiểm soát chi phí khi xác định giá gói thầu, giá ký kết hợp đồng
a) Ở bước đấu thầu:
Đấu thầu là việc lựa chọn nhà thầu thực hiện các phần việc của công trình. Để
thực hiện đấu thầu điều kiện cần thiết là phải có kế hoạch đấu thầu trong đó giá từng
gói thầu đã xác định phải được phê duyệt.
Giá gói thầu được duyệt có vai trò rất quan trọng trong quá trình lựa chọn nhà
thầu. Theo quy định hiện hành, chủ đầu tư chỉ có thể trao thầu cho nhà thầu có giá đề
nghị trúng thầu thấp hơn giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu được phê duyệt. Giá gói
thầu cần được xác định chuẩn xác bởi nếu xác định thấp có thể dẫn tới việc không nhà
thầu nào có thể đáp ứng yêu cầu về giá, gây lãng phí thời gian do việc phải tổ chức
đấu thầu lại; ngược lại giá thầu xác định cao không phản ánh sát giá trị thực có thể gây
lãng phí cho chủ đầu tư và ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư xây dựng công trình. Ngoài
yêu cầu tính đúng, tính đủ giá gói thầu cần phải đáp ứng yêu cầu làm trần khống chế
chi phí gói thầu và trong một chừng mực nào đó có thể nói giá gói thầu là chi phí tối
đa mà chủ đầu tư có thể chi trả cho nhà thầu khi thực hiện đấu thầu [7], [66].
Tuy nhiên, thực tế đấu thầu trong thời gian qua cho thấy thường có sự sai lệch
giữa giá gói thầu và giá dự thầu của nhà thầu. Có thể xem xét ví dụ sau đây:
Dự án xây dựng tuyến tàu điện ngầm số 2 thành phố Hồ Chí Minh, tuyến Bến
Thành-Tham Lương. Tại Quyết định số 5944/QĐ-UBND ngày 01/11/2013 và Quyết
định số 4253/QĐ-UBND ngày 17/8/2016 thì phần công việc thuộc kế hoạch lựa chọn
nhà thầu: vốn đối ứng là 1.563.328.241.000 đồng do không thực hiện gói thầu tư vấn
khảo sát, thiết kế bản vẽ thi công-dự toán di dời, tái lập hệ thống các công trình hạ tầng
kỹ thuật thay bằng cách bổ sung thêm 04 gói thầu làm tăng 888,878 tỷ đồng.
Phân tích việc phải bổ sung giá gói thầu trên do những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Giá gói thầu được xác định căn cứ trên dự toán gói thầu được thẩm tra, phê duyệt.
Một khi dự toán được xác định không chính xác dẫn tới giá gói thầu không phù hợp [7].
Nguyên nhân gây ra việc dự toán xác định thiếu chính xác đã được nêu ở phần trên.
- Thiếu sự đồng nhất về một số cơ sở xác định giá dự thầu của nhà thầu và dự
toán dùng để làm giá gói thầu [62], [7], [53], [40]. Trong khi dự toán dùng làm giá
gói thầu chỉ căn cứ theo bản vẽ thiết kế, hệ thống đơn giá xây dựng tỉnh, thành phố,
các quy định về lợi nhuận định mức và chi phí chung cứng nhắc thì nhà thầu lập giá
dự thầu ngoài yêu cầu thiết kế còn phải đáp ứng các yêu cầu, chỉ dẫn trong hồ sơ mời
77
thầu, giá xây dựng phù hợp với thời điểm thị trường và điều kiện cụ thể của công
trình... Giá gói thầu xác định theo dự toán không hề tính đến những yếu tố quy định
trong hồ sơ mời thầu mà các yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định giá dự
thầu như:
Bảng 3.5: Tổng mức đầu tư dự án xây dựng tuyến tàu điện ngầm số 2 thành phố
Hồ Chí Minh, tuyến Bến Thành-Tham Lương
TT Khoản mục chi phí
Giá trị điều chỉnh
(Tỷ đồng)
1 Chi phí khác 7,182
2 Dự phòng phí 126,924
3 Chi phí thuế 70,359
4
Chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng và di dời công
trình hạ tầng kỹ thuật
684,413
Tổng cộng 888,878
(Nguồn: Quyết định số 6199/QĐ-UBND ngày 25/11/2016)
+ Loại hợp đồng sử dụng để ký kết. Đối với hợp đồng trọn gói không điều chỉnh
giá, nhà thầu đương nhiên phải tính các yếu tố trượt giá vào đơn giá dự thầu (không
phản ánh đúng giá tại thời điểm đấu thầu), ngược lại nếu hợp đồng có điều chỉnh giá
thì giá dự thầu có thể phản ánh giá tại thời điểm đấu thầu nhưng lại phải tính đến các
yếu tố trượt giá khi thanh toán [11].
+ Phương thức thanh toán: tỷ lệ tạm ứng, lần thanh toán, khoản tiền giữ lại khi
thanh toán, yêu cầu bảo hiểm, điều kiện giao hàng...đều có tác động đến giá gói thầu
và nhà thầu dự thầu đều phải tính toán và phản ánh vào giá gói thầu.
b) Giai đoạn ký kết hợp đồng và thanh toán hợp đồng
Kiểm soát hợp đồng và giá ký kết hợp đồng là quan trọng, nó không chỉ phản
ánh giá tại thời điểm ký kết mà còn ảnh hưởng tới chi phí thực phải trả cho nhà thầu
thực hiện hợp đồng và khả năng kiểm soát được chi phí trong quá trình thực hiện. Trên
thực tế việc kiểm soát chi phí ở giai đoạn này ít được chú ý bởi do một số nguyên
nhân sau đây:
- Việc đánh giá lựa chọn nhà thầu được thực hiện bởi tổ chuyên gia giúp việc
đấu thầu mà các chuyên gia này đôi khi không phải của chủ đầu tư. Điều này có nghĩa
là trách nhiệm với các phát sinh có thể có sau này ít được xem xét một cách kỹ càng hơn.
78
- Việc thương thảo hợp đồng thường chỉ chú ý tới việc giải quyết các vấn đề về
mặt kỹ thuật mà ít chú ý tới các vấn đề liên quan tới giá hợp đồng và các điều kiện
thương mại, tài chính có thể ảnh hưởng tới việc thanh toán hợp đồng.
- Thiếu những cá nhân thuộc chủ đầu tư có trình độ chuyên môn đủ khả năng
đánh giá về những rủi ro có thể gặp phải khi chuẩn bị ký kết hợp đồng (các phát sinh
và điều kiện để giải quyết, thời điểm bắt đầu tính trượt giá và các hệ số sử dụng khi
tính trượt giá ...) ảnh hưởng lớn tới giá thanh toán cuối cùng và hơn cả là khả năng có
thể kiểm soát được chi phí thanh toán trong quá trình thực hiện hợp đồng [8].
- Mức tạm ứng, thời điểm tạm ứng và việc thu hồi tạm ứng chưa được các bên
thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng. Mức tạm ứng và số lần tạm ứng hợp đồng xây dựng
không ghi cụ thể trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu hoặc trong dự thảo hợp đồng xây
dựng gửi cho bên nhận thầu để bên nhận thầu làm cơ sở tính toán giá dự thầu, giá đề
xuất [13].
- Việc kiểm soát thanh toán chưa được chú trọng đúng mức. Việc đối chiếu các
điều kiện thanh toán, kiểm tra khối lượng thực hiện để thanh toán, xác định giá trị
thanh toán hầu như phụ thuộc vào sự xác nhận của tư vấn giám sát hoặc tư vấn quản lý
xây dựng, những người này thường ít chú ý tới chi phí cuối cùng của hợp đồng cũng
như trách nhiệm khống chế chi phí thực hiện hợp đồng trong giá hợp đồng đã ký kết.
- Việc kiểm soát, khống chế các chi phí có khả năng phát sinh trong quá trình
thực hiện hợp đồng cũng thực hiện không tốt. Thường không có cảnh báo nào hoặc
biện pháp nào được đưa ra để hạn chế khả năng này do vậy chủ đầu tư thường bị động
với các vấn đề về chi phí phát sinh và hầu như các hợp đồng đều có chi phí phát sinh
do vậy giá thanh lý hợp đồng thường cao hơn giá ký kết hợp đồng ban đầu.
- Chưa có quy định về tạm thanh toán do đặc thù của sản phẩm xây dựng và sản
xuất xây dựng, hầu hết quá trình thanh toán hợp đồng xây dựng là thanh toán sản
phẩm dở dang, nhiều trường hợp chưa đủ điều kiện thanh toán, trong khi đó giá trị
khối lượng công việc của bên nhận thầu thực hiện rất lớn [13].
3.3.3 Kiểm soát chi phí giai đoạn kết thúc xây dựng đưa công trình của dự án vào khai
thác sử dụng
Số liệu tại Bảng 3.6 cho thấy, giá trị quyết toán của các khoản mục chi phí đã
thay đổi so với giá trị được duyệt ban đầu và có những khoản mục chi phí thay đổi
tương đối lớn. Nguyên nhân của những thay đổi trên có thể là do những phát sinh, điều
79
chỉnh và cả yếu tố trượt giá phải thanh toán trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên sự
biến động quá lớn của một số khoản mục cho thấy hoặc giá trị phê duyệt ban đầu chưa
phản ánh chính xác hoặc quá trình kiểm soát chưa thành công.
Nội dung bảng 3.6 theo số liệu, điều tra khảo sát về chi phí đầu tư quyết toán
theo khoản mục chi phí đối với từng loại hình công trình tại Báo cáo kết quả dự án sự
nghiệp kinh tế "Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng việc xác định chi phí đầu tư xây
dựng công trình theo yếu tố và khoản mục chi phí trong thời gian qua, trên cơ sở đó đề
xuất các chỉ tiêu và cơ cấu chi phí hợp lý phục vụ việc xác định chi phí đầu tư xây
dựng công trình" do Viện Kinh tế xây dựng thực hiện năm 2007 như sau:
Bảng 3.6: Tỷ trọng theo cơ cấu chi phí theo loại hình công trình
TT
Loại công trình
Khoản mục chi phí (%)
Xây dựng Thiết bị Khác Dự phòng Tổngcộng
1 DÂN DỤNG
Được duyệt 45-76 6-47 10-15 5-10 100
Quyết toán 50-80 20-40 10-20 - 100
2 CÔNG NGHIÊP
Được duyệt 2-80 12-80 10-15 5-10 100
Quyết toán 7-86 7-78 10-20 - 100
3 GIAO THÔNG
Được duyệt 57-80 1-14 10-20 5-10 100
Quyết toán 60-80 0-25 5-15 - 100
4 THỦY LƠI
Được duyệt 70-80 0-5 5-20 5-10 100
Quyết toán 75-90 1-5 10-25 - 100
5 HẠ TẦNG KỸ
THUẬT
Được duyệt 75-80 0-5 10-15 5-10 100
Quyết toán 75-90 0-7 10-15 - 100
Tham khảo công trình xây dựng Nhà ga hành khách Quốc tế Tân Sơn Nhất dưới
đây cũng cho thấy giá trị một số khoản mục dự kiến quyết toán đã có những thay đổi
lớn so với giá trị được duyệt ban đầu.
Một vấn đề khác trong giai đoạn này là dù công trình đã đi vào sử dụng nhưng
vẫn chưa thể quyết toán vốn đầu tư do các nguyên nhân sau:
- Chưa xác định được giá trị quyết toán cuối cùng của các hợp đồng đối với các
nhà thầu do chưa thống nhất được cách thức giải quyết các chi phí bổ sung, phát sinh
80
trong việc thực hiện hợp đồng.
- Chưa thống nhất về các trách nhiệm, nghĩa vụ cần giải quyết liên quan đến chi
phí của các nhà thầu và của chủ đầu tư theo hợp đồng (thưởng, phạt, bảo hành
sửa chữa).
Bảng 3.7: So sánh giá trị quyết toán sân bay Tân sơn nhất
T T Khoản mục chi phí
TDT được phê
duyệt (Yên)
Giá trị dự tính
quyết toán (Yên)
Chênh lệch
t ă n g ( + ) , g i ả m ( - )
1 Chi phí xây dựng 12.002.626.128 11.253.415.949 -749.210.179
2 Chi phí thiết bị 7.396.684.692 10.738.035.208 3.341.350.516
3 Chi phí tư vấn 1.883.156.169 2.025.317.599 142.161.430
4 Chi phí khác 707.796.244 836.441.021 128.644.777
5 Thuế 2.071.362.000 1.039.745.237 -1.031.616.763
6 Chi phí dự phòng 2.217.846.906 386.517.128 -1.831.329.778
Tổng cộng 26.279.472.139 26.279.472.142 0
(Nguồn: Tổng hợp từ Báo cáo thẩm tra của Viện Kinh tế xây dựng [69])
Việc chậm hoàn thành quyết toán vốn đầu tư dẫn tới những thiệt hại không chỉ
cho nhà thầu mà còn cho cả chủ đầu tư khi cần phải duy trì các nhân sự cho đến khi
giải quyết xong các vấn đề này và đương nhiên chi phí đầu tư xây dựng công trình lại
tăng lên.
Các quy định trong Nghị định về các nội dung thanh toán, quyết toán vốn đầu tư
xây dựng công trình có tính nguyên tắc nhưng rất quan trọng trong việc bảo đảm trách
nhiệm, thời hạn của các chủ thể liên quan đối với vấn đề thanh toán, quyết toán vốn
đầu tư xây dựng công trình. Các quy định này được đánh giá khá quyết liệt nhằm thúc
đẩy việc giải ngân và quyết toán vốn đầu tư. Tuy nhiên cũng còn một số nội dung cần
nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh như sau:
- Cần có quy định, hướng dẫn cụ thể để thống nhất hồ sơ, biểu mẫu thanh toán
giữa các cơ quan có chức năng có liên quan.
- Kế hoạch vốn thường bố trí không đủ, thời gian thực hiện xây dựng công trình
bị kéo dài, thiếu kế hoạch tài chính chung cho cả dự án nên khó quyết toán công trình
đúng thời hạn.
3.4 Thực trạng quản lý và kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng theo Nghị định
32/2015/NĐ-CP về quản lý chi phí đầu tư xây dựng qua tổng hợp báo cáo của các
Bộ, Ngành địa phương
3.4.1 Thực trạng về hệ thống định mức dự toán và giá xây dựng
81
- Hệ thống định mức dự toán được công bố chưa đồng bộ, thiếu nhiều định mức
đặc biệt đối với các công tác xây dựng đặc thù, các công tác xây dựng áp dụng công
nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật; quy định về việc áp dụng định mức mới, định
mức tự xây dựng hoặc định mức điều chỉnh chưa rõ ràng nên khi áp dụng thường gây
ra vướng mắc trong thanh toán hoặc tranh chấp giữa chủ đầu tư với nhà thầu hoặc với
cơ quan thanh tra, kiểm tra [41], [67], [68], [54], [65].
- Việc điều chỉnh các định mức xây dựng được công bố để phù hợp áp dụng cho
công trình cần được thẩm tra, phê duyệt trước khi thực hiện; các định mức mới thuộc
công trình, gói thầu sử dụng vốn ngân sách nhà nước cần được Sở Xây dựng, Sở
chuyên ngành và các cơ quan chuyên môn liên quan tham gia thẩm định bảo đảm tính
khách quan [57].
- Quy định chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn đều có thể điều chỉnh định mức rất khó
kiểm soát chi phí đầu tư xây dựng; cần có quy định về cơ chế thẩm định, công bố và
quản lý các định mức do chủ đầu tư, nhà thầu, tư vấn lập; một số định mức chi phí tỷ
lệ % quy định chưa phù hợp đặc biệt là trong lĩnh vực tư vấn đầu tư xây dựng và quản
lý dự án [41], [66].
- Quy định về giá vật liệu thị trường khó kiểm soát, dẫn tới khả năng loạn giá,
công trình trên cùng địa bàn, khu vực có thể có dự toán khác nhau; chưa có chế tài về
trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc xác định giá vật liệu sử dụng; năng lực của các
tổ chức tư vấn khi khảo sát, xác định giá rất yếu; thiếu cơ chế kiểm soát giá vật liệu
của cơ quan có thẩm quyền; phương pháp khảo sát, xác định giá vật liệu chưa phù hợp
và thiếu thống nhất; việc xác định chi phí vận chuyển tới hiện trường chưa bảo đảm
tính cạnh tranh; hệ thống thông tin công bố về các yếu tố chi phí nhân công, vật liệu
máy thi công còn thiếu; công bố giá vật liệu tại các địa phương không đáp ứng tính đa
dạng của các loại vật liệu xây dựng cho công trình, không cập nhật giá thị trường
[66], [63], [9].
- Thiếu hướng dẫn xác định và áp dụng nhân công theo thị trường; hướng dẫn về
lập và sử dụng đơn giá xây dựng trên cơ sở giá thị trường; thiếu hướng dẫn cụ thể hệ
thống thang bảng lương, hệ số cấp bậc công nhân xây dựng và phương pháp tính toán,
xác định [63], [67].
- Việc tổ chức xác định đơn giá xây dựng công trình của chủ đầu tư rất yếu, thiếu
chủ động; thiếu cơ chế quy định vai trò, trách nhiệm của cơ quan chức năng về giá vật
82
liệu, thiết bị; khái niệm về giá mặt bằng thị trường phù hợp với các giai đoạn đầu tư
xây dựng [9].
- Quy định về trách nhiệm chủ đầu tư trong quản lý định mức, đơn giá chưa cụ
thể; cơ chế quản lý, thẩm định đơn giá nhằm bảo đảm thống nhất, hiệu quả chưa rõ
ràng; đơn giá xây dựng lập trên cơ sở giá thị trường và cách thức quản lý thiếu chặt
chẽ [54].
- Thiếu hướng dẫn về việc áp dụng chỉ số giá xây dựng trong việc điều chỉnh
TMĐT, dự toán xây dựng công trình; phân loại chỉ số giá xây dựng chưa rõ; thẩm
quyền, ý kiến thỏa thuận đối với áp dụng chỉ số giá chưa cụ thể [7], [12].
3.4.2 Thực trạng thực hiện các nguyên tắc quản lý chi phí đầu tư xây dựng
Điều 3 tại Nghị định [19] đã đưa ra nguyên tắc trong việc xác định, thực hiện
quản lý chi phí đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, trong thực tế quản lý, một số các nguyên
tắc này còn bị hạn chế tác dụng khi thực hiện. Cụ thể:
- Nghị định hướng dẫn còn thiếu về cơ sở để tính đúng, tính đủ chi phí đầu tư xây
dựng cho từng dự án, công trình, gói thầu xây dựng do việc xác định giá thầu phải gắn
với đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_kiem_soat_chi_phi_dau_tu_xay_dung_cong_trinh_su_dung.pdf