Luận án Kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng thương mại Việt Nam

MỞ ĐẦU .1

Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.8

1.1. Nghiên cứu nước ngoài .8

1.1.1. Nghiên cứu về kiểm soát nội bộ .8

1.1.2. Nghiên cứu về hệ thống kiểm soát nội bộ gắn với quản trị rủi ro

trong một số lĩnh vực cụ thể .10

1.2. Nghiên cứu trong nước .14

1.2.1. Nghiên cứu về hệ thống kiểm soát nội bộ .14

1.2.2. Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ trong mối quan hệ với quản

trị rủi ro .17

1.3. Kết luận về khoảng trống nghiên cứu .20

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ VÀ HỆ

THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ CỦA NGÂN HÀNG THưƠNG MẠI .21

2.1. Kiểm soát nội bộ .21

2.1.1. Kiểm soát trong quản lý.21

2.1.2. Kiểm soát nội bộ.25

2.2. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng thương mại.32

2.2.1. Khái quát về hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng thương mại 32

2.2.2. Các thành phần của hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng

thương mại .38

2.2.3. Hệ thống kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro trong ngân hàng thương mại.50

2.3. Ảnh hưởng của đặc điểm ngân hàng thương mại đối với hệ thống

kiểm soát nội bộ.57

2.3.1. Ngân hàng thương mại và những yêu cầu đặt ra đối với hệ thống

kiểm soát nội bộ.57

2.3.2. Nhân tố ảnh hưởng hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng

thương mại .60

2.3.3. Quản lý nhà nước đối với hệ thống KSNB trong các NHTM.66

pdf192 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 293 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Kiểm soát nội bộ trong các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n chế việc phát triển ồ ạt các chi nhánh, phòng giao dịch do hạn chế trong công tác quản lý. Vốn điều lệ: Sau khi quy định về mức vốn điều lệ tối thiểu của các NHTM và lộ trình tăng, đồng thời để tăng năng lực tài chính thì vốn điều lệ của toàn hệ thống ngân hàng giai đoạn 2013-2018 tăng tương đối đều qua các năm, mỗi năm tăng khoảng trên 20 nghìn tỷ đồng. Riêng năm 2018, con số tăng này đột biến lên trên 60 nghìn tỷ đồng so với năm 2017, đây là năm tăng mạnh nhất của vốn điều lệ trong giai đoạn này. Vốn tự có: Từ năm 2013 đến năm 2018, vốn tự có của hệ thống ngân hàng c ng tăng qua các năm, tuy rằng nếu so với một số nước trong khu vực thì quy mô vốn của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhỏ. Vốn tự có năm 2018 là tăng mạnh nhất, gần 300 nghìn tỷ đồng. Trong khi trước đó, năm 2017 tăng khoảng 220 nghìn tỷ đồng. Như vậy có thể thấy trong năm 2018, năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng được gia tăng mạnh, con số tăng vượt trội so với các năm khác cả về vốn điều lệ và vốn tự có. 81 Hình 3.2: Vốn của TCTD giai đoạn 2013- 2018 Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Báo cáo thường niên của NHNN Tổng tài sản có: Giai đoạn 2013 – 2018 tổng tài sản của toàn hệ thống ngân hàng hàng năm có sự tăng trưởng, đặc biệt là cuối năm 2017, tổng tài sản tăng 1.498,22 nghìn tỷ đồng so với năm 2016, tăng cao nhất trong giai đoạn này. Năm 2018, tổng tài sản có tăng nhưng mức tăng chỉ khoảng 1.000 nghìn tỷ đồng. Hình 3.3: Tổng tài sản của TCTD giai đoạn 2013- 2018 Đvt: Nghìn tỷ đồng Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Báo cáo thường niên của NHNN Về huy động vốn: Trong các năm từ 2013 đến 2015 việc tăng trưởng huy động vốn của toàn hệ thống trung bình khoảng từ 600 – 700 nghìn tỷ đồng/năm. 82 Tuy nhiên năm 2016 và 2017, tăng trưởng huy động đã tăng lên mức trung bình khoảng 1.000 nghìn tỷ đồng/năm. Năm 2018, tỷ lệ tăng về huy động có giảm nhẹ so với năm 2016 và 2017, mức tăng khoảng 900 nghìn tỷ đồng. Nhìn chung hoạt động huy động vốn của các NHTM được thực hiện chủ yếu qua thị trường một (huy động từ dân và doanh nghiệp) và thị trường hai (huy động qua các tổ chức tín dụng thông qua thị trường mở do NHNN điều hành). Thị phần huy động vốn của các ngân hàng tương đối khác nhau và khác nhau giữa các khối ngân hàng. Xét về giá trị tuyệt đối, thị phần huy động của ngân hàng nhìn chung vẫn ổn định và tăng trưởng. Nhóm NHTM cổ phần và NHTM Nhà nước có tổng giá trị huy động vốn lớn nhất toàn hệ thống, chiếm khoảng 68% tổng giá trị huy động vốn của toàn hệ thống ngân hàng. Những ngân hàng thực hiện tốt hoạt động này là Vietcombank, BIDV, Vietinbank, Agribank. Huy động vốn có vai trò quan trọng trong hoạt động của các TCTD nên nhà quản trị nội bộ thường xuyên đánh giá năng lực hoàn trả của NHTM đối với người gửi trong quan hệ với tăng trưởng nguồn vốn (khả năng thanh khoản của một ngân hàng) bên cạnh việc sử dụng tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động nói trên. Điều này đặt ra cho hệ thống KSNB các NHTM là phải kiểm soát được khả năng thanh khoản trong dài hạn. Hình 3.4: Tổng huy động và tổng dư nợ của TCTD giai đoạn 2013- 2018 Đvt: Nghìn tỷ đồng Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Báo cáo thường niên của NHNN 83 Về tổng dư nợ: Sau giai đoạn bùng phát nợ xấu của toàn hệ thống, các năm 2013, 2014 dư nợ tăng trưởng thấp (năm 2014 tăng 492,57 nghìn tỷ đồng so với năm 2013). Tuy nhiên, đến các năm sau tăng trưởng dư nợ đã tăng lên, đến năm 2017 đã tăng 1.000,45 nghìn tỷ đồng so với năm 2016. Năm 2018, dư nợ tăng khoảng 700 nghìn tỷ đồng, bằng 2/3 của năm 2017. Về nợ xấu: Năm 2012, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng ở mức khá cao (4,13%), các năm sau đó các ngân hàng không chỉ tập trung cho việc cơ cấu lại mà còn tập trung vào việc xử lý nợ nhằm đưa tỷ lệ nợ xấu về mức thấp. Từ năm 2012 đến năm 2018, toàn hệ thống đã xử lý được khoảng 900 nghìn tỷ đồng nợ xấu, đưa tỷ lệ nợ xấu đến cuối năm 2018 về mức 1,89%, thấp hơn hẳn so với các năm trước. Bảng 3.3: Một số chỉ tiêu hoạt động của TCTD giai đoạn 2013- 2018 Năm Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Nợ xấu (%) 3,60 3,30 2,55 2,46 1,99 1,89 Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) (%) 11,25 12,75 13,0 12,84 12,23 12,10 ROA (%) 0.42 0,57 0,44 0,58 0,74 0,90 ROE (%) 5,84 6,43 6,26 7,47 10,07 11,8 Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Báo cáo thường niên của NHNN Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR): Sau khi quy định tăng vốn điều lệ và lộ trình tăng đối với các ngân hàng thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiếu tăng giảm chỉ trong khoảng từ 11% đến 13% trong giai đoạn 2013 – 2018, đây là con số an toàn so với quy định của ngân hàng nhà nước (8%). Các chỉ số hiệu quả kinh doanh ROA, ROE từ năm 2014 đến 2018 đều cao hơn giai đoạn trước, đặc biệt các chỉ số này rất thấp trong năm 2012 khi ROA là 0,22% và ROE là 1,36%. Trong năm 2015, chỉ số này có giảm so với 2014 tuy vậy ngay sau đó từ năm 2016 chỉ số này đã tăng vượt lên cả 2014, đặc 84 biệt 2017 tăng khá mạnh ROA đạt 0,74% và ROE đạt 10,07%. Năm 2018, riêng đối với ROA thì tỷ lệ tăng tương đương so với của năm 2017, còn đối với ROE tỷ lệ tăng đã giảm, tăng khoảng 1,8% trong khi 2017 tăng 2,6%. Về nhân sự của các NHTM: Theo số liệu công bố và tính toán của tác giả, toàn hệ thống NHTM ở nước ta hiện có trên 200.000 người. Trong đó có tới hơn 90% tham gia trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các NHTM có trình độ, nghiệp vụ được đào tạo từ trình độ cao đẳng trở lên. Mặc dù hệ thống trải qua một số đợt thực hiện tinh giản biên chế nhưng số lượng nhân sự trên cho thấy tính phức tạp trong quản lý đang và sẽ tiếp tục đặt ra. Số lượng nhân sự của ngân hàng Agribank vẫn chiếm số lượng nhiều nhất với hơn 40.000 người. 3.1.2. Những quy định về hệ thống KSNB trong NHTM Việt Nam 3.1.2.1. Hệ thống KSNB được tổ chức hoạt động theo quy định tại Quyết định số 03/NHNN và Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 Quyết định 03/NHNN ngày 03/01/1998 về việc ban hành Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, KTNB trong các TCTD hoạt động tại Việt Nam có nội dung yêu cầu các TCTD phải thành lập bộ máy kiểm tra nội bộ chuyên trách trực thuộc Tổng giám đốc, có nhiệm vụ kiểm tra thường xuyên hoạt động ngân hàng và kiểm toán các mặt nghiệp vụ kinh doanh theo định kỳ. Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 về hệ thống kiểm tra, KTNB của NHTM c ng quy định các NHTM phải lập hệ thống kiểm tra, KTNB thuộc bộ máy điều hành, giúp Tổng giám đốc (Giám đốc) điều hành thông suốt, an toàn và đúng pháp luật mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng. Trên cơ sở Quyết định 03/NHNN và Luật các Tổ chức tin dụng năm 1997, hầu hết các NHTM đã thiết lập một bộ phận chuyên trách, với tên gọi khác nhau (Ban kiểm tra nội bộ, Phòng kiểm tra nội bộ, Phòng kiểm tra, KSNB), chịu sự quản lý, điều hành của Tổng Giám đốc (giám đốc) theo hệ thống ngành dọc từ trụ sở chính (Phòng, Ban) tới các chi nhánh (phòng, tổ kiểm tra, kiểm soát hoặc bố trí một cán bộ chuyên trách làm công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ), về thực chất, bộ phận này làm chức năng kiểm toán và chịu sự quản lý, điều hành của 85 Tổng giám đốc (Giám đốc), do vậy các kết quả kiểm tra, kiểm toán không mang tính độc lập, khách quan. Việc phân định trách nhiệm giữa các cấp lãnh đạo trong NHTM đối với hệ thống kiểm tra, KTNB chưa được rõ ràng, dẫn đến công tác tự đánh giá đối với hệ thống kiểm tra, KSNB chưa được thực hiện và bị xem nhẹ, đồng thời công tác đánh giá độc lập đối với hệ thống kiểm tra, KSNB không đảm bảo tính độc lập, khách quan. 3.1.2.2. Hệ thống KSNB được tổ chức hoạt động theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2004, Quyết định 36/2006/QĐ-NHNN và quyết định 37/2006/QĐ-NHNN ngày 01/08/2006 của NHNN Luật các Tổ chức tín dụng năm 2004 quy định về hoạt động của BKS, theo đó, BKS có nhiệm vụ kiểm tra hoạt động tài chính, giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán, thực hiện KTNB hoạt động từng thời kỳ, từng lĩnh vực.. nhằm đánh giá chính xác hoạt động kinh doanh và thực trạng tài chính của NHTM. Luật này c ng quy định về kiểm tra và KSNB, theo đó, các NHTM phải thường xuyên kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành pháp luật và các quy định nội bộ; trực tiếp kiểm tra, kiểm soát các hoạt động nghiệp vụ trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Kể từ khi Luật các Tổ chức tín dụng năm 2004 được ban hành nhưng đến 2006 vẫn chưa có một văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể về vấn đề kiểm tra, kiểm soát và KTNB của NHTM. Vì vậy, khái niệm “Hệ thống KSNB” và quy định cụ thể trách nhiệm của các cấp lãnh đạo trong NHTM đối với hệ thống KSNB theo nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế chưa đựợc quan tâm đúng mực. Theo Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN, mục đích tối thiểu được đặt ra đối với hệ thống KSNB là: Hiệu quả và an toàn trong hoạt động; Bảo đảm hệ thống thông tin tài chính và thông tin quản lý trung thực, hợp lý đầy đủ và kịp thời; Bảo đảm tuân thủ pháp luật và các quy chế, quy trình, quy định nội bộ. Quyết định này quy định rõ trách nhiệm của ban lãnh đạo TCTD, các phòng, ban chuyên môn trong việc xây dựng và quản lý hệ thống KSNB c ng như trách nhiệm của NHNN trong hoạt động giám sát tổ chức tín dụng. 86 Để hỗ trợ thực hiện các yêu cầu trên, KTNB được quy định về hoạt động theo Quyết định 37/2006/QĐ-NHNN của NHNN. Theo quyết định này, KTNB của TCTD là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với hệ thống kiểm tra, KSNB; đánh giá độc lập về tính thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục quy trình đã được thiết lập trong TCTD, thông qua đó, đơn vị thực hiện KTNB đưa ra các kiến nghị, tư vấn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống, các quy trình, góp phần đảm bảo TCTD hoạt động an toàn, hiệu quả, đúng pháp luật. 3.1.2.3. Hệ thống KSNB được tổ chức hoạt động theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và Thông tư 44/2011/TT- NHNN ngày 29/12/2011 của NHNN Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 16 tháng 06 năm 2010 đã quy định một số nội dung như sau: Hệ thống KSNB là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được xây dựng phù hợp với hướng dẫn của NHNH và được tổ chức thực hiện nhằm bảo đảm phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được yêu cầu đề ra. TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải xây dựng hệ thống KSNB để bảo đảm các yêu cầu: Hiệu quả và an toàn trong hoạt động; bảo vệ, quản lý, sử dụng an toàn, hiệu quả tài sản và các nguồn lực; Hệ thống thông tin tài chính và thông tin quản lý trung thực, hợp lý, đầy đủ và kịp thời; Tuân thủ pháp luật và các quy chế, quy trình, quy định nội bộ. Hoạt động của hệ thống KSNB của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được KTNB, tổ chức kiểm toán độc lập đánh giá định kỳ. Ngày 29/12/2011 NHNN ban hành Thông tư 44/2011/TT- NHNN quy định về hệ thống KSNB và KTNB của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, có hiệu lực từ ngày 12/02/2012, thay thế cho Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN về quy chế kiểm tra, KSNB và Quyết định 37/2006/QĐ-NHNN về Quy chế kiểm toán nội bộ. Thông tư 44 bao gồm các nội dung chính liên quan đến những quy định cụ thể về hệ thống KSNB bao gồm các yêu cầu và nguyên tắc; về việc xây dựng và duy trì hoạt động của hệ thống KSNB; về việc tự kiểm tra, đánh giá về 87 hệ thống KSNB; và việc đánh giá độc lập về hệ thống KSNB. Thông tư c ng quy định cụ thể về KTNB đồng thời 44 quy định trách nhiệm của các đơn vị liên quan như trách nhiệm của HĐQT, Tổng giám đốc, BKS, trưởng KTNB, kiểm toán viên nội bộ và các đơn vị khác; trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước. 3.1.2.4. Hệ thống KSNB được tổ chức hoạt động theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi và có hiệu lực từ 15/1/2018 và thông tư số 13/2018/TT- NHNN ngày 18/5/2018 có hiệu lực từ ngày 1/1/2019 Trong bối cảnh các ngân hàng đang tiếp tục tái cơ cấu, xử lý nợ xấu, việc xây dựng và ban hành quy định mới về hệ thống KSNB (thay thế Thông tư số 44/2011/TT-NHNN) sẽ tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho công tác KSNB, giúp ngăn ngừa, cảnh báo và quản lý rủi ro lấp đầy các “lỗ hổng” trong KSNB các NHTM. Có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2019, Thông tư số 13/2018/TT-NHNN là cơ sở pháp lý, cung cấp các chuẩn mực, tiêu chí cần thiết để cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thực hiện việc đánh giá chất lượng hoạt động KSNB, quản lý rủi ro và KTNB của TCTD nhằm giảm bớt các sai phạm, khả năng tổn thất, nguy cơ mất khả năng thanh toán, đổ vỡ của hệ thống ngân hàng.Thông tư số 13/2018/TT-NHNN đã tiệm cận các thông lệ quốc tế, tạo nên các chuẩn mực mới cao hơn, chặt chẽ hơn trong việc quản trị rủi ro của ngân hàng, phù hợp với tình hình của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay. Cụ thể: Thứ nhất, đưa ra các quy định về cơ cấu tổ chức đối với giám sát của quản lý cấp cao, nâng cao năng lực quản trị, bảo đảm kiểm soát tốt chất lượng hoạt động thông qua hệ thống KSNB. Mỗi TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thành lập các hội đồng giám sát cấp cao, từ cấp độ HĐQT đến cấp độ điều hành, đảm bảo được các quy định cụ thể về cơ chế hoạt động, các thành phần, năng lực chuyên môn của các thành viên trong HĐQT và các chính sách, quy trình mà HĐQT phải ban hành, thực hiện. Thứ hai, đặt ra những yêu cầu, tiêu chuẩn quản lý rủi ro, tiếp cận sát hơn với thông lệ quốc tế về quản trị ngân hàng, từng bước thực hiện các quy định của Basel II về bảo đảm an toàn trong hoạt động. Các TCTD, chi nhánh ngân hàng 88 nước ngoài đáp ứng các tiêu chuẩn về định lượng và phát triển các mô hình quản trị rủi ro theo từng loại rủi ro trọng yếu như rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng và rủi ro tập trung. Từ đó, tính toán các mức vốn tối thiểu phân bổ cho tài sản mỗi loại rủi ro để nâng cao mức độ an toàn vốn sát với hoạt động thực tại của ngân hàng, trong khi các quy định trước đây chỉ yêu cầu vốn cho rủi ro tín dụng. Điều này đòi hỏi những yêu cầu khắt khe hơn, góp phần thúc đẩy công tác quản trị rủi ro không những tập trung ở các phòng, ban hay hội sở, mà còn chi tiết đến từng đơn vị kinh doanh ở các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thứ ba, thúc đẩy các ngân hàng phát triển và hoàn thiện về mặt cơ sở dữ liệu. Song song với việc đáp ứng các chuẩn mực quản lý rủi ro, hệ thống thông tin hiện tại là một thực trạng khó khăn của hầu hết các ngân hàng Việt Nam khi thiết lập các công cụ tính toán, xây dựng mô hình quản trị rủi ro. Vì vậy, đây là bài toán cần được các ngân hàng giải quyết trước khi tiến lên một cấp độ cao hơn trong công tác quản trị rủi ro. Thứ tư, giúp tăng cường khả năng giám sát, quản lý của các cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thông qua các báo cáo cụ thể, chi tiết về các chỉ tiêu vốn, đánh giá mức đủ vốn, tình hình tuân thủ quy định nội bộ tại chính các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tư số 13/2018/TT-NHNN yêu cầu các NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có hệ thống KSNB phải đảm bảo các nguyên tắc nhất định. Hệ thống KSNB của các NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải đảm bảo tối thiểu có đủ các quy định nội bộ theo Luật các TCTD; phù hợp với quy mô, điều kiện và độ phức tạp trong hoạt động kinh doanh của từng ngân hàng.Trong đó, một nội dung quan trọng của Thông tư là quy định hệ thống KSNB ngân hàng phải có 03 tuyến bảo vệ độc lập: (i)Tuyến bảo vệ thứ nhất có chức năng nhận dạng, kiểm soát và giảm thiểu rủi ro do các bộ phận thực hiện gồm: Các bộ phận kinh doanh; các bộ phận có chức năng tạo ra doanh thu khác; Bộ phận nhân sự, bộ phận kế toán.(ii)Tuyến bảo vệ thứ hai có chức năng xây dựng chính sách quản lý 89 rủi ro, quy định nội bộ về quản trị rủi ro, đo lường, theo dõi rủi ro và tuân thủ quy định pháp luật do các bộ phận sau đây thực hiện: Bộ phận tuân thủ, Bộ phận quản lý rủi ro.(iii) Tuyến bảo vệ thứ ba có chức năng KTNB do bộ phận KTNB thực hiện. 3.1.3. Rủi ro trọng yếu trong hoạt động của ngân hàng thương mại Rủi ro tín dụng Tại các NHTM Việt Nam những năm qua rủi ro tín dụng vẫn diễn biến khá phức tạp, thể hiện ở các khoản nợ xấu gia tăng khó kiểm soát những năm trước 2013, điều này có nguyên nhân do trong khoảng thời gian khá dài các NHTM Việt Nam quá chú trọng tăng trưởng tín dụng trong bối cảnh kỹ năng quản trị ngân hàng còn những hạn chế nhất định. Từ sau năm 2013 cùng với sự ra đời của Công ty quản lý tài sản (VAMC) thì nợ xấu của các NHTM c ng từng bước được kiểm soát hiệu quả hơn. Nợ xấu của các NHTM trong giai đoạn 2013-2018 có xu hướng giảm dần từ 3,6% năm 2013 xuống còn 2,4 năm 2018. Ngoài ra, rủi ro tín dụng còn thể hiện ở sự chênh lệch về kỳ hạn giữa huy động vốn và cho vay. Loại rủi ro này phát sinh khi các NHTM sử dụng nguồn vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Trong thực tế nhu cầu vay vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển trong nền kinh tế luôn cao nên nếu như hành lang pháp luật thuận lợi thì các NHTM sẽ đẩy mạnh cho vay trung dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Thực tế những năm qua đã khẳng định điều này khi một số NHTM có tỷ trọng dư nợ trung dài hạn trong tổng dư nợ luôn rất cao, chẳng hạn tại một số NHTM như BIDV, ACB, VietinBank HDBank, VietcomBank, ABBank tỷ trọng dư nợ trung dài hạn luôn xấp xỉ 60%. Một số NHTM khác như: MB Bank, SacomBank, PGBank, EximBank, BacABank tỷ trọng cho vay trung dài hạn c ng xấp xỉ 50% (số liệu được xác định cho năm 2018). Trong khi đẩy mạnh cho vay trung dài hạn thì huy động vốn của hầu hết các NHTM lại ở kỳ hạn ngắn là chủ yếu do khách hàng gửi tiền vì nhiều lý do khác nhau (chủ yếu do lãi suất không hấp dẫn) họ không muốn kéo dài kỳ hạn gửi tiền. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu tín dụng trung dài hạn tăng 90 cao bắt buộc các NHTM phải sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn, do đó nguy cơ rủi ro kỳ hạn luôn tiềm ẩn. Để phòng ngừa rủi ro kỳ hạn trong hoạt động tín dụng, NHNN đã ban hành Thông tư số 19/2017/TT-NHNN ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Thống đốc NHNN về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 về Quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã qui định. Tuy nhiên, để “lách” qui định trên, ngay từ đầu năm 2018 hầu hết các NHTM đều tăng vọt lãi suất huy động trung dài hạn lên tới xấp xỉ 9%/năm trong kỳ hạn 5 năm [26] thậm chí những tháng đầu năm 2019 lãi coupon chứng chỉ tiền gửi kỳ hạn 5 năm của VietcapitalBank lên tới 10,2%/năm [27]. Truy cập ngày 26/8/2019) làm cho tỷ trọng huy động vốn trung dài hạn ở hầu hết các NHTM một số năm gần đây tăng rất nhanh. nhưng chi phí tín dụng của các NHTM tăng lên, ảnh hưởng bất lợi đến kết quả tài chính của các NHTM. Rủi ro hoạt động Những năm qua rủi ro hoạt động có những diễn biến khá phức tạp do công tác KSNB chưa hiệu quả, đặt trong bối cảnh hành lang pháp luật về hoạt động ngân hàng vẫn còn thiếu sự đồng bộ và chưa hoàn thiện, các giao dịch ngân hàng ngày càng đa dạng và phức tạp gắn với sự phát triển của công nghệ thông tin, nên những rủi ro tiềm ẩn càng cao đối với các NHTM trong nước. Rủi ro về thông tin và công nghệ: Do hệ thống thông tin còn nhiều bất cập trong khi hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn gắn với điều kiện hệ thống thông tin phải cập nhật và tin cậy cho nên những năm qua các NHTM luôn phải đối mặt với các rủi ro đạo đức do hiệu quả của công tác kiểm định thông tin về khách hàng không cao, hơn nữa, hạ tầng công nghệ của các NHTM c ng còn khá thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh ngân hàng nên hầu hết các NHTM chủ yếu vẫn triển khai các dịch vụ ngân hàng truyền thống, có nhiều khó khăn khi triển khai các dịch vụ ngân hàng hiện đại vừa thu hút được khách hàng vừa tăng thu nhập và giảm thiểu rủi ro. 91 Rủi ro gian lận giao dịch: Do công tác KSNB còn yếu nên các hành vi gian lận giao dịch vẫn diễn ra, thậm chí là khá phức tạp tại một số NHTM, đó không chỉ là các hành vi lợi dụng công nghệ nhằm trục lợi của khách hàng, như hacker tấn công mạng của các NHTM làm tê liệt các giao dịch ngân hàng, tạo các trang mạng của NHTM giả nhằm lừa đảo khách hàng, tạo các thẻ ATM giả nhằm rút trộm tiền trên tài khoản thẻ của khách hàng mà còn là hành vi gian lận của chính cán bộ trong ngân hàng khi lợi dụng các chức trách được giao nhằm trục lợi và chiếm đoạt tiền của khách hàng lẫn của ngân hàng. Các vụ việc về cán bộ lợi dụng công việc chuyển tiền vào các cây ATM để lấy cắp tiền, để rút ruột tiền trong các kho tiền của ngân hàng, làm giả các lệnh rút tiền của khách hàng trên các sổ tiết kiệm mà các vụ án đã và đang được tòa án xử lý trong những năm qua đã phản ánh rất rõ thực trạng này. Rủi ro pháp lý và sự tuân thủ: Do môi trường pháp luật về hoạt động ngân hàng tại Việt Nam còn chưa đồng bộ và hoàn thiện, qui trình hoạt động còn chưa được tiêu chuẩn hóa, nên những rủi ro loại này luôn tiềm ẩn phức tạp. Đó là những vi phạm các qui định pháp luật của Quốc hội, Chính phủ hay NHNN ban hành trong các hoạt động tín dụng, thanh toán, kinh doanh hối đoái Mặt khác, sự không tuân thủ các chính sách, qui trình hoạt động, sự kiểm tra, giám sát tuân thủ c ng không nghiêm minh nên các vi phạm luôn diễn biến phức tạp, dẫn tới các hệ quả không mong đợi đối với nền kinh tế và với chính các NHTM. Điều dễ nhận thấy nhất đó là các cuộc chạy đua trong mở rộng thị phần cho vay tiêu dùng mà phần lớn là cho vay kinh doanh bất động sản [9], trong đó không ít các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phát hành ra các trái phiếu này để vay vốn với lãi coupon khá hấp dẫn trong khi NHNN luôn đưa ra các khuyến cáo hạn chế mua các công cụ nợ loại này. Rủi ro về nguồn nhân lực: Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh bậc cao do tất cả các sản phẩm dịch vụ mà NHTM cung cấp cho nền kinh tế đều là các sản phẩm dịch vụ cao cấp dựa trên điều kiện về hạ tầng công nghệ hiện đại, cho nên nó đòi hỏi các cán bộ ngân hàng – những người trực tiếp triển khai các dịch vụ 92 này phải lan tỏa các hiẻu biết sâu sắc của mình đến với khách hàng – những người thụ hưởng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp cho họ. Nhưng để có thể lan tỏa sự hiểu biết sâu về các dịch vụ ngân hàng thì bản thân từng cán bộ ngân hàng phải rất thấu hiểu về chúng, nếu ngược lại thì cái giá phải trả luôn rất lớn, khiến cả NHTM và khách hàng đều bị rủi ro. Từ thực tiễn nguồn nhân lực trong hệ thống NHTM Việt Nam cho thấy rằng, một bộ phận cán bộ chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động, đặc biệt là các cán bộ hoạt động tại các chi nhánh xa các hội sở ngân hàng thì chất lượng càng yếu. Với các dịch vụ ngân hàng hiện đại như ngân hàng diện tử thì nguồn nhân lực lại càng bất cập bởi hầu hết yếu về công nghệ thông tin, khả năng kiểm soát và xử lý rủi ro phát sinh là rất bị động. Về rủi ro thị trƣờng. Rủi ro lãi suất: Do lãi suất thị trường luôn diễn biến khá phức tạp những năm trước đây nên nó không chỉ ảnh hưởng đến các hoạt động huy động vốn và cho vay của NHTM mà còn gây những bất lợi đối với tình hình tài chính của khách hàng vay vốn. Mặt khác, nếu như những năm trước 2010 các NHTM luôn nắm giữ danh mục các chứng khoán khá lớn thì những năm gần đây tỷ trọng đầu tư vào chứng khoán trong tổng tài sản của các NHTM luôn ở mức thấp do thị trường chứng khoán hoạt động yếu, rủi ro cao, chính vì vậy những biến động của lãi suất có tác động không lớn tới danh mục nắm giữ các công cụ nợ của NHTM. Nhiều NHTM không sử dụng các sản phẩm phái sinh nên ít bị tác động bởi yếu tố lãi suất. Tuy vậy, xét về dài hạn, các NHTM phải đa dạng hóa các công cụ nắm giữ trên Tài sản Có của mình nên những rủi ro lãi suất tiềm ẩn sẽ cao, và để giảm thiểu rủi ro các NHTM phải sử dụng các công cụ phái sinh để phòng vệ trong khi thị trường này ở Việt Nam chưa phát triển. Rủi ro tỷ giá: Những năm trước đây các NHTM đều thực hiện huy động và cho vay bằng ngoại tệ nên rủi ro tỷ giá luôn tiềm ẩn. Tuy vậy, do NHNN luôn kiểm soát tỷ giá và thực tế là tỷ giá luôn diễn biến theo chiều hướng tăng lên, nên các NHTM ít chịu rủi ro về tỷ giá nếu nắm giữ ngoại tệ trên tài khoản. Hơn nữa, NHNN sử dụng các công cụ Swap và forward trong mua bán ngoại tệ với 93 NHTM và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nên những rủi ro về tỷ giá c ng được giảm thiểu. Tuy vậy, về nguyên lý thì để giảm thiểu rủi ro tỷ giá các NHTM phải sử dụng các công cụ phái sinh tiền tệ nhưng hiện nay thị trường này tại Việt Nam hoạt động rất yếu. Rủi ro giá chứng khoán: Những năm qua, giá chứng khoán – một công cụ được các NHTM nắm giữ - luôn có những diễn biến thất thường nên gây ra các tác động tiêu cực đối với các NHTM nắm giữ chứng khoán lớn, và c ng gây ra các rủi ro với các ngân hàng cho vay kinh doanh chứng khoán. Nếu như các năm 2013 và 2014 một số NHTM duy trì tỷ trọng năm giữ chứng khoán so tổng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_kiem_soat_noi_bo_trong_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet.pdf
Tài liệu liên quan