MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN . ii
LỜI CAM ĐOAN . iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT . vii
DANH MỤC CÁC BẢNG . x
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ . xi
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ . xii
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU . 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài . 1
1.2. Mục đích, nội dung, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án . 3
1.2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án . 3
1.2.2. Nội dung nghiên cứu . 4
1.2.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án . 4
1.3. Phương pháp nghiên cứu và số liệu . 6
1.4. Đóng góp của luận án. . 7
1.5. Kết cấu của luận án. . 7
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN . 8
2.1. Tổng quan các nghiên cứu . 8
2.1.1. Tổng quan các nghiên cứu tại Việt Nam. 8
2.1.2. Tổng quan nghiên cứu tại các nước . 10
2.2. Tổng quan về ngân hàng thương mại. 12
2.2.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại . 12
2.2.2. Chức năng của ngân hàng thương mại . 13
2.3. Cơ sở lý luận về cấu trúc cạnh tranh ngành và năng lực cạnh tranh . 14
2.3.1. Cơ sở lý luận về cấu trúc cạnh tranh ngành . 14
2.3.2. Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh . 23
2.3.3. Các chỉ số đo lường năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của ngân
hàng thương mại. 30v
2.3.4. Cơ sở lý luận về mối quan hệ giữa cấu trúc cạnh tranh ngành và năng
lực cạnh tranh . 35
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG CẤU TRÚC CẠNH TRANH NGÀNH
NGÂN HÀNG VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM . 51
3.1. Tổng quan về ngành ngân hàng Việt Nam . 52
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng . 52
3.1.2. Đặc điểm của hệ thống ngân hàng sau năm 2007 - 2008. 55
3.2. Những hạn chế của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam . 61
3.2.1. Cơ chế và thể chế còn nhiều hạn chế . 62
3.2.2. Chất lượng dịch vụ chưa đủ mạnh . 62
3.2.3. Năng lực quản trị và công nghệ còn nhiều hạn chế . 63
3.2.4. Trình độ cán bộ nhân viên ngân hàng chưa cao . 64
3.2.5. Năng lực cạnh tranh còn yếu . 64
3.3. Thực trạng cấu trúc cạnh tranh ngành ngân hàng Việt Nam. . 65
3.3.1. Mức độ cạnh tranh của các đối thủ hiện tại: . 65
3.3.2. Mối đe dọa của những người gia nhập tiềm năng . 67
3.3.3. Mối đe dọa của các sản phẩm thay thế: . 68
3.3.4. Sức mạnh người mua . 69
3.3.5. Sức mạnh của người cung ứng . 70
3.4. Cấu trúc ngành ngân hàng và năng lực cạnh tranh của các ngân
hàng thương mại . 71
3.4.1. Ước lượng hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng thương mại . 72
3.4.2. Cấu trúc cạnh tranh ngành ngân hàng và hiệu quả kỹ thuật. . 98
CHƯƠNG 4: KIẾN NGHỊ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM . 109
4.1. Nhóm kiến nghị đối với Chính phủ và ngân hàng Nhà nước. 109
4.1.1. Giải pháp từ Chính Phủ. 109
4.1.2. Giải pháp từ Ngân hàng Nhà nước. 115vi
4.2. Nhóm kiến nghị đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam . 118
4.2.1. Phát triển theo định hướng thị trường mục tiêu . 118
4.2.2. Nâng cao hiệu quả quản trị trong ngân hàng . 119
4.2.3. Tăng cường năng lực tài chính và tự chủ tài chính . 120
4.2.4. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, xây dựng văn hóa kinh doanh . 121
4.2.5. Phát triển đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ theo hướng phát triển chiềusâu . 122
4.2.6. Nâng cao năng lực cán bộ công nhân viên . 124
PHẦN KẾT LUẬN . 126
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ. 128
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 129
PHỤ LỤC . 138
173 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 597 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Lý thuyết cấu trúc cạnh tranh ngành với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c quản trị ngân hàng ở Việt Nam còn nhiều bất
cập. Có thể thấy từ cuối năm 2008, nền kinh tế đối mặt với nhiều khó khăn do tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ đó tác động tới các ngành nghề làm
cho tốc độ tăng trưởng không cao, hiệu quả đầu tư thấp kém, lạm phát biến đổi
không ngừng. Điều này tác động tới ngân hàng và phản ánh năng lực quản trị của
các ngân hàng chưa cao do đó khó có khả năng chống chọi với các biến động kinh
tế. Trong giai đoạn này có thể thấy chất lượng tín dụng của các ngân hàng giảm sút
thể hiện ở các khoản nợ xấu gia tăng (Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ từ 2,17% năm 2008
lên 6,0% năm 2012). Việc nâng cao vai trò của Hội đồng quản trị trong việc điều
hành và tăng cường sự kiểm soát độc lập của ngân hàng thương mại Nhà nước
64
thông qua Nghị định 59/2009/NĐ –CP về tổ chức và hoạt động của ngân hàng
thương mại đã giúp các ngân hàng thương mại nâng phần nào cao hiệu quả hoạt
động. Tuy nhiên, vấn đề nội tại trong quản trị ngân hàng chưa được quan tâm đúng
mức như quản trị nguồn nhân lực, quản trị rủi ro, quản trị thương hiệu, quản trị
khách hàngSở dĩ việc quan tâm đến quản trị của ngân hàng không được đúng
mức cũng là do nền tảng công nghệ ngân hàng không đồng bộ từ đó dẫn đến thông
tin không kịp thời, gây hao phí về thời gian và độ chính xác không cao.
3.2.4. Trình độ cán bộ nhân viên ngân hàng chưa cao
Mặc dù trong những năm vừa qua các ngân hàng đã quan tâm nhiều hơn tới
trình độ của nhân viên để đáp ứng tới xu hướng phát triển trong giai đoạn hội nhập.
Việc tăng cường kiểm tra trình độ chuyên môn và nâng cao đào tạo năng lực từng
năm. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển ngày càng nhanh của hoạt động ngân hàng
như: công nghệ ngày một hiện đại, việc phát triển các sản phẩm dịch vụ được mở
rộng hơn hay tiếp cận với các tổ chức nước ngoài gia tăng đã đòi hỏi cán bộ nhân
viên phải có trình độ nhất định. Nhưng việc đáp ứng nhu cầu của nguồn nhân lực
các ngân hàng chưa thực sự đồng đều dẫn gia tăng chi phí từ đó ảnh hưởng tới hiệu
quả hoạt động của các ngân hàng. Ngoài ra, trình độ cán bộ công nhân viên không
chỉ thể hiện ở trình độ chuyên môn mà còn thể hiện ở thái độ, kinh nghiệm, kiến
thức khi tiếp xúc với khách hàng vì nó có khả năng tăng hoặc giảm chất lượng sản
phẩm dịch vụ khi cung ứng cho khách hàng. Đối với văn hóa kinh doanh của ngân
hàng còn yếu kém từ đó tác động tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
3.2.5. Năng lực cạnh tranh còn yếu
Sau khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã gặt hái
được nhiều thành công tuy nhiên cũng gặp phải nhiều khó khăn và thách thức. Đối
với ngành ngân hàng, cơ hội phát triển là rất cao nhưng cũng không ít trở ngại buộc
các ngân hàng phải tăng cường năng lực của mình để cạnh tranh với các đối thủ.
Tiến trình hội nhập tài chính ngân hàng đòi hỏi tự do hóa tài chính trong khi giai
đoạn trước đây các ngân hàng thương mại Việt Nam hoạt động trong môi trường
65
thu hẹp với sự bảo hộ của Chính Phủ và Ngân hàng Nhà nước dẫn đến nhiều khó
khăn sẽ phải đương đầu. Trong khi đó, theo Hiệp định thương mại Việt – Mỹ với
cam kết tháo dỡ mọi hạn chế đối với các ngân hàng của Mỹ và các điều kiện của tổ
chức thương mại thế giới thì ngành ngân hàng cũng phải mở cửa toàn bộ. Các ngân
hàng 100% vốn nước ngoài lúc này được phép hoạt động tại thị trường Việt Nam
gây áp lực trong cạnh tranh gia tăng. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn vừa qua các
ngân hàng thương mại Việt Nam đã bộc lộ những yếu kém trong năng lực cạnh
tranh với các đối thủ khi tham gia vào thị trường tài chính quốc tế. Đối với các ngân
hàng thương mại Việt Nam chỉ có được ưu điểm về hệ thống chi nhánh, phòng giao
dịch phủ rộng khắp cả nước và nắm bắt được văn hóa bản địa. Nhưng so với các đối
thủ cạnh tranh từ ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng Việt Nam kém về năng lực
nguồn vốn, trình độ quản trị ngân hàng, công nghệ ngân hàng và tính đa dạng của
sản phẩm dịch vụ. Hơn thế nữa trong quá trình tái cơ cấu để nâng cao hiệu quả hoạt
động và khả năng cạnh tranh thì hệ thống ngân hàng Việt Nam còn gặp phải vấn đề
lớn là tình trạng tham nhũng gia tăng, vấn đề này không chỉ ảnh hưởng tới các ngân
hàng mà còn liên lụy đến toàn bộ nền kinh tế.
3.3. Thực trạng cấu trúc cạnh tranh ngành ngân hàng Việt Nam.
Dựa trên khung lý thuyết năm lực lượng cạnh tranh của Micheal Porter, phần
này sẽ đánh giá thực trạng cấu trúc cạnh tranh ngành trên 5 yếu tố: i) Mức độ cạnh
tranh của các đối thủ hiện tại, ii) Mối đe dọa của những người gia nhập tiềm năng,
iii) Mối đe dọa của các sản phẩm thay thế, iv) Sức mạnh người mua, v) Sức mạnh
nhà cung ứng.
3.3.1. Mức độ cạnh tranh của các đối thủ hiện tại:
Tốc độ tăng trưởng của ngành ngân hàng Việt Nam: Kể từ năm 2000 tốc độ
tăng trưởng tín dụng của ngành là rất cao, đặc biệt giai đoạn từ 2006 đến 2010 tốc
độ tăng trưởng tín dụng lên tới 35% và tốc độ tăng trưởng huy động cũng lên tới
28%. Có thể thấy qua các năm tốc độ tăng trưởng tín dụng thường cao hơn tốc độ
tăng trưởng huy động làm cho các ngân hàng phụ thuộc vào nguồn vốn của NHNN
66
và huy động vốn từ thị trường liên ngân hàng để tài trợ thanh khoản thiếu hụt hoặc
tạo nguồn mở rộng tín dụng. Từ đó, làm gia tăng chi phí của các ngân hàng ảnh
hưởng tới lợi nhuận và mức độ cạnh tranh gia tăng.
Sự khác biệt về sản phẩm và chi phí chuyển đổi của khách hàng: Có thể thấy
đối với các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng là tương tự nhau vì vậy khả năng thay
thế là rất cao dẫn đến cầu về sản phẩm dịch vụ của ngân hàng là tương đối co giãn.
Do đó, khi có sự biến động nhỏ về giá sẽ dẫn đến lượng cầu thay đổi mạnh. Đơn cử
như đối với hoạt động thu hút vốn của ngân hàng có nhiều biến động cùng với sự
thay đổi của lãi suất ngân hàng. Năm 2008 có thể coi là năm của lãi suất khi lãi suất
biến động trái chiều với một biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. Diễn biến lãi suất
trong năm 2008 gồm 2 giai đoạn chính: cuộc đua lãi suất của các ngân hàng trong
nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chiều hướng ngược lại, đua giảm lãi
suất dù kém quyết liệt hơn. Từ mức lãi suất 8,5% vào tháng 1 đã tăng lên 18,5% vào
tháng 6. Có một làn sóng ồ ạt người dân rút tiền của ngân hàng có lãi suất thấp và
chuyển sang ngân hàng có lãi suất cao. 6 tháng cuối năm các ngân hàng lại vào cuộc
đua mới với lãi suất giảm mạnh. Việc điều chỉnh lãi suất huy động giảm mạnh cung
dẫn đến lãi suất cho vay cũng giảm theo. Thêm vào đó lượng vốn huy động từ đầu
năm khá lớn nên các ngân hàng phải giảm lãi suất cho vay để kích thích người tiêu
dùng trong hoạt động sản xuất cũng như cho các doanh nghiệp vay để đầu tư. Bên
cạnh đó, chi phí chuyển đổi của khách hàng là không cao không tạo rào cản chuyển
đổi của khách hàng sang các ngân hàng khác. Từ đó có thể thấy việc cạnh tranh của
các ngân hàng ngày càng gia tăng.
Hàng rào rút khỏi ngành cao: Bắt đầu từ năm 2004 các ngân hàng hoạch
định mở rộng mạng lưới chi nhánh là một trong những ưu tiên hàng đầu của các
NHTM. Việc mở rộng mạng lưới cho thấy chi phí mua sắm hay thuê mướn mặt
bằng đều khá cao so với ngành nghề kinh doanh khác. Thêm vào đó đặc thù của
ngân hàng khi mở rộng các điểm giao dịch là các địa điểm phải nằm ở những vị trí
dễ giao dịch, dễ quảng bá thương hiệu nên chi phí thường cao. Tại mỗi điểm giao
dịch dù lớn hay nhỏ đều phải bỏ chi phí tương tự: đầu tư trụ sở, đầu tư tài sản cố
67
định, xe cộ, máy móc thiết bị, quảng bá, điện nước,Đi kèm với chi phí điểm giao
dịch là chi phí về nhân sự. Đây là khoản chi phí rất lớn của các ngân hàng thương
mại. Việc cạnh tranh của các ngân hàng sẽ có xu hướng gia tăng khi do chi phí cao
khi rút lui khỏi ngành.
3.3.2. Mối đe dọa của những người gia nhập tiềm năng
Hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam bao gồm nhiều loại hình hoạt động
khác nhau. Vì vậy, đối với các ngân hàng thương mại hiện tại thì các đối thủ tiềm
năng gồm: các ngân hàng mới, các công ty bảo hiểm; các quỹ đầu tư; các ngân hàng
nước ngoài; các tổ chức tài chính phi ngân hàng;... Mối đe doạ của những người gia
nhập tiềm năng được xác định bằng “độ cao của các hàng rào gia nhập”. Rào cản
gia nhập của các đối thủ cạnh tranh tiềm năng gồm có:
Chính sách của Chính phủ là rào cản đầu tiên đối với việc hình thành các
ngân hàng mới. Việc yêu cầu về vốn điều lệ bằng vốn pháp định tối thiểu 3000 tỷ
đồng và một số yêu cầu trong thành lập chi nhánh, phòng giao dịch nhằm đảm bảo
an toàn cho hệ thống chính là một rào cản gia nhập ngành ngân hàng. Tuy nhiên có
thể thấy số lượng các ngân hàng vẫn không ngừng tăng lên qua các năm ( Bảng 3.1)
chứng tỏ việc gia nhập thị trường ngân hàng có rào cản không cao. Chỉ có năm
2012 số lượng các NHTMCP giảm xuống do hoạt động của một số ngân hàng trong
hệ thống không hiệu quả buộc phải tiến hành sát nhập.
Yêu cầu về vốn: Để đáp ứng chỉ tiêu an toàn vốn theo thông lệ Basel II, Ngân
hàng Nhà nước đã yêu cầu các NHTM tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng từ đó các
NHTM mở rộng tương đối vốn chủ sở hữu (đồ thị 3.1). Việc các ngân hàng nội tại
có nguồn vốn lớn sẽ đáp ứng được nhu cầu đầu tư tài chính lớn để có thể cạnh tranh
từ đó hình thành rào cản cho các đối thủ cạnh tranh tiềm năng.
Sự khác biệt về sản phẩm dịch vụ: Bên cạnh những sản phẩm dịch vụ truyền
thống như tiền gửi và cho vay, đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới có nhiều tiện ích
cho khách hàng như tăng tiện ích tài khoản cá nhân, phát triển dịch vụ thẻ, phát
triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại như internet banking, phone bankingHoạt
68
động huy động vốn ngày càng đa dạng hơn về hình thức để người gửi tiền có nhiều
lựa chọn có lợi cho mình. Ngoài các sản phẩm tiền gửi tiết kiệm có lãi suất cố định
truyền thống, các ngân hàng còn đưa ra các sản phẩm tiền gửi được hưởng lãi suất
biến động theo tỷ lệ lạm phát, đảm bảo giá trị theo vàng,Nhiều dịch vụ phát triển
thẻ đa tiện ích đã được cung cấp cho khách hàng. Mặc dù sản phẩm dịch vụ là khá
đa dạng, nhưng nhìn chung các sản phẩm ngân hàng là tương tự nhau và có khả
năng thay thế cao. Chẳng hạn như, dù được đặt tên khác nhau nhưng tài khoản tiết
kiệm ở các ngân hàng hầu như là giống nhau. Điểm quan trọng là khi các ngân hàng
tạo được lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm của mình sẽ tạo được rào cản
khi gia nhập của các ngân hàng mới.
Tính kinh tế của quy mô: một ngân hàng đạt tính kinh tế của quy mô thì việc
mở rộng sản lượng sẽ làm giảm được chi phí bình quân. Khi đó, việc cung cấp sản
phẩm cho một lượng lớn khách hàng sẽ cho phép ngân hàng giảm chi phí và đưa ra
mức giá hợp lý. Điều này các hãng mới muốn gia nhập thị trường sẽ bị cản trở do
chi phí cao ảnh hưởng tới lợi nhuận kỳ vọng.
Những bất lợi về chi phí mà không phụ thuộc về quy mô: các ngân hàng
thương mại hiện tại có những lợi thế về chi phí do vậy các đối thủ tiềm năng của
ngân hàng khó có thể sao chép. Các lợi thế này gồm có: Số lượng chi nhánh, phòng
giao dịch nhiều tập trung khu đông dân cư; duy trì được mối quan hệ với khách
hàng truyền thống; được hưởng lợi từ sự hỗ trợ của Chính phủ; bản quyền về công
nghệ sản phẩm Từ những lợi thế này, các đối thủ tiềm năng muốn gia nhập sẽ bị
rào cản về chi phí cao do đó sẽ phải cân nhắc khi cạnh tranh với các đối thủ trong
ngành ngân hàng.
3.3.3. Mối đe dọa của các sản phẩm thay thế:
Với xu thế chung thị trường tài chính ngày càng phát triển, đồng hành với sự
phát triển sẽ xuất hiện ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ mới đáp ứng tốt hơn nhu
cầu của khách hàng. Có thể thấy, trong giai đoạn hiện nay thay vì gửi tiền vào ngân
hàng để hưởng lãi suất theo gói truyền thống, khách hàng có thể tối đa hóa nguồn
tiền gửi thông qua nhiều hình thức khác nhau. Các sản phẩm thay thế bất hợp pháp
69
như: các dịch vụ cho vay nhỏ lẻ, cho vay nặng lãi và chơi hụi. Hoặc các kênh đầu tư
như: đầu tư trên thị trường chứng khoán; đầu tư trên thị trường vàng; đầu tư bất
động sản; tham gia các quỹ đầu tưĐối với đối tượng cần vay vốn cũng có thể tìm
kiếm nguồn vốn thông qua các kênh huy động khác ngoài ngân hàng như: vay từ
các dịch vụ nhỏ lẻ ngoài ngân hàng; phát hành cổ phiếu; trái phiếu trên thị trường
chứng khoán; thuê mua tài chínhCác sản phẩm, dịch vụ thay thế ngày càng hấp
dẫn, giá cả cạnh tranh dẫn đến việc cạnh tranh của các ngân hàng thương mại ngày
càng trở nên gay gắt.
3.3.4. Sức mạnh người mua
Trong lĩnh vực ngân hàng, đối tượng mua hay sử dụng sản phẩm, dịch vụ của
ngân hàng bao gồm các cá nhân và tổ chức. Đối với dân cư: tham gia vào thị trường
tài chính thông qua việc sử dụng hiệu quả hơn lợi ích từ sự phát triển của thị trường
sản phẩm dịch vụ ngân hàng như các hình thức tiền gửi, thanh toán không dùng tiền
mặt qua ngân hàng, tín dụng tiêu dùng, tín dụng trả góp, vay vốn thành lập doanh
nghiệp, vay đi du học Đối với các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế xã hội: đây là
đối tượng quan trọng trong việc cầu về sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Việc sử dụng
các sản phẩm dịch vụ của các đối tượng này sẽ ngày càng gia tăng cùng với tốc độ
phát triển kinh tế. Vì vậy, sức mạnh của đối tượng này cũng sẽ ngày một mạnh mẽ
hơn đối với các ngân hàng trong giai đoạn thị trường mở. Chính phủ: tham gia vào
thị trường tài chính với tư cách là người sử dụng khi Chính phủ cần huy động các
nguồn tài chính phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển kinh tế xã hội như phát hành trái
phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương
Đối với đối tượng mua các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thì độ nhạy cảm
đối với giá sẽ tác động tới sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và đối với
ngân hàng nói riêng. Trong trường hợp giá cả các loại dịch vụ tài chính quá cao,
khách hàng mua sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng các loại dịch vụ tài
chính. Bên cạnh đó, đối với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng ít có điểm khác biệt
như các dịch vụ trao đổi ngoại tệ, chiết khấu thương phiếu, cho vay thương mại,
nhận tiền gửi, bảo quản vật giá trị, tài trợ các hoạt động Chính phủ, cung cấp các tài
70
khoản giao dịch, cung cấp dịch vụ ủy thác, cho vay tiêu dùng quản lý tiền mặt, dịch
vụ thuê mua thiết bị, cho vay tài trợ dự án, bán các dịch vụ bảo hiểm, và chi phí
chuyển đổi không cao mà động cơ của khách hàng mua dịch vụ là tối đa hóa lợi ích
của mình do đó khách hàng nhạy cảm hơn về giá sẽ dẫn đến sự dịch chuyển của
khách hàng đến ngân hàng có giá cả thấp hơn.
Sức mạnh của bên mua còn được thể hiện thông qua mức độ về mặc cả:
trong thời đại công nghệ thông tin ứng dụng cao, việc cập nhật thông tin của người
mua về các ngân hàng là rất thuận tiện và nhanh chóng. Cùng với đó các sản
phương dịch vụ của các ngân hàng có tính tương đồng cao tạo ra sự thay thế ở mức
độ cao của các sản phẩm dịch vụ. Điều đó dẫn đến khách hàng đi mua có khả năng
mặc cả cao hơn trong thị trường tài chính.
3.3.5. Sức mạnh của người cung ứng
Người cung ứng đối với ngân hàng trước hết phải nói đến khách bao gồm các
cá nhân và tổ chức là người cung ứng nguồn vốn cho ngân hàng để kinh doanh. Với
các đối tượng này do hiện tại ở Việt Nam có hơn 100 ngân hàng hoạt động trong
ngành vì vậy khách hàng có thể dễ dàng lựa chọn đối tác để cung ứng nguồn vốn.
Hơn nữa chi phí chuyển đổi là thấp dẫn đến đối tượng này dễ dàng trong việc thay
đổi đối tượng cung ứng.
Đối tượng cung ứng thứ hai mà ngân hàng cần quan tâm là người cung ứng
mặt bằng cho các ngân hàng. Với đặc thù về đối tượng khách hàng nên các ngân
hàng cần phải hoạt động tại các khu vực đông dân cư và thuận tiện trong việc tiếp
xúc với khách hàng. Vì vậy, với đối tượng cung ứng mặt bằng sẽ có sức mạnh
tương đối đối với ngân hàng trong việc cung ứng mặt bằng.
Trong quá trình toàn cầu hóa, yếu tố thời gian và tính tiện ích của các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng đặc biệt quan trọng trong việc thu hút khách hàng tăng
doanh thu và giảm chi phí của các ngân hàng. Do đó, để có thể tồn tại và nâng hiệu
quả trong hoạt động các ngân hàng phải hiện đai hóa hoạt động của ngân hàng. Quá
trình hiện đại hóa phải dựa trên nền tảng công nghệ thông tin để đáp ứng tối đa hiệu
71
quả hoạt động. Trên thị trường có nhiều đối tượng cung ứng nền tảng công nghệ
thông tin cho các ngân hàng, tuy nhiên đối với công nghệ thông tin ứng dụng trong
ngân hàng đòi hỏi tính hiện đại và độ an toàn cao do đó các ngân hàng thường tiếp
cận với các nhà cung ứng lớn có uy tín trên thị trường. Do đó, đối với đối tượng
cung ứng này có sức mạnh tương đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chẳng hạn như đối với LienVietPostBank ngay từ những ngày đầu chuẩn bị thành
lập đã xây dựng một chiến lược đầu tư công nghệ bài bản để hướng tới trở thành
ngân hàng số 1 Việt Nam về hiện đại hóa. Ngân hàng LienVietPostBank ứng dụng
Ngân hàng lõi (CoreBanking) Flexcube do nhà cung cấp giải pháp công nghệ thông
tin lĩnh vực dịch vụ tài chính hàng đầu thế giới I-Flex Solutions (nay là Oracle
Financial Services Limited). Flexcube là giải pháp Ngân hàng được ưa chuộng nhất
trên thế giới theo bảng xếp hạng của IBS Sales league Table của International
Banking System trong 4 năm liền (2002 -2005). Với giải pháp CoreBanking tích
hợp toàn diện, ngân hàng này đáp ứng được toàn diện nhu cầu dịch vụ Tài chính –
Ngân hàng hiện đại. Hoặc như ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á ký hợp đồng
với tập đoàn GRG mua 250 bộ máy ATM đời mới H68N cho phép nạp tiền. Nhận
thấy ứng dụng khoa học công nghệ trong ngân hàng đặc biệt quan trọng, các ngân
hàng đã không ngừng nâng cấp hệ thống ngân hàng điện tử. Nhiều ngân hàng đã trở
thành thành viên chính thức của Visa và MasterCard. Có thể thấy, mức độ tập trung
của các nhà cung ứng dẫn đến xu hướng tạo cho họ sức mạnh từ đó tác động tới các
NHTM Việt Nam.
3.4. Cấu trúc ngành ngân hàng và năng lực cạnh tranh của các ngân
hàng thương mại
Từ khung cơ sở lý luận, phần này sẽ định lượng mối quan hệ giữa đặc điểm
cấu trúc ngành ngân hàng (dựa trên mô hình năm lực lượng cạnh tranh của Micheal
Porter) và năng lực cạnh tranh của các NHTM. Tác giả sẽ sử dụng một số biến số
hiệu quả của các NHTM để đo lường năng lực cạnh tranh của ngành. Đầu tiên, tác
giả ước lượng biến số này với 2 phương pháp: bao dữ liệu (DEA), phân tích biên
ngẫu nhiên (SFA) và sẽ có những đánh giá tổng quan về hiệu quả của hệ thống ngân
72
hàng thông qua các biến số hiệu quả ước lượng được. Sau đó, tác giả sẽ sử dụng
hàm Tobit và hồi quy tuyến tính để nghiên cứu tác động của các biến số phản ánh
cấu trúc ngành đến hiệu quả kỹ thuật của ngành.
3.4.1. Ước lượng hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng thương mại
3.4.1.1. Ước lượng hiệu quả kỹ thuật với phương pháp bao dữ liệu (DEA).
Phương pháp bao dữ liệu DEA:
DEA ( data evelopment analysis) là một phương pháp cơ bản trong ước lượng
hàm sản xuất và hiệu quả kỹ thuật. DEA sử dụng mô hình toán tuyến tính và hàm
khoảng cách. Phương pháp này được nhiều nhóm ý tưởng từ Farell (1957) khi ông
đưa ra ý tưởng áp dụng đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF) làm tiêu chí đánh
giá hiệu quả tương đối giữa các công ty trong cùng một ngành. Tuy nhiên thời điểm
sau đó phương pháp này chưa nhận được sự ủng hộ rộng rãi, ngoài sự quan tâm của
một số ít các nhà khoa học như Coelietal, Boles (1966), Sheparl (1970) và
Afriat((1972). Cho đến khi, Charmes, Cooper và Rhodes đưa ra khái niệm và
phương pháp “phân tích bao dữ liệu” thì nó thực sự ngày càng được mở rộng và
cho đến nay đã trở thành một ứng dụng lớn trong phân tích kinh tế.
DEA được gọi là phương pháp bao dữ liệu bởi nó sử dụng những biến tốt
nhất ứng với mức đầu vào xác định để tạo thành một đường bao biên.
Đồ thị 3.7 : Đường bao dữ liệu (DEA)
73
Hiệu quả kỹ thuật:
Bằng cách tạo ra đường bao dữ liệu này, phương pháp sẽ giới hạn được hiệu
quả kỹ thuật của toàn ngành và coi đó là hiệu quả sản xuất tối đa đầu ra trong điều
kiện đầu vào cho trước. Đồ thị 3.6 minh họa định nghĩa này. Trong hình này, chúng
ta có các điểm A, B, C và E tương ứng với mỗi mức đầu vào và đầu ra nhất định.
Đường ABC mô tả đường biên của quá trình sản xuất. Các quan sát A, B, và C nằm
trên đường biên, trong xu hướng hoạt động luôn là tối đa hóa lợi nhuận, cũng như
sử dụng khi các quan sát D và E nằm dưới đường biên.
Sau khi qui hoạch tuyến tính các biến tốt nhất trong bộ số liệu thành đường
bao giới hạn (trên hình minh họa là đường nối các điểm A B C), ta sẽ có hình dung
về tính hiệu quả trong việc sử dụng cá yếu tố đầu vào của các số liệu mô tả bằng
các điểm nằm dưới đường bao biên (E, F). Mỗi yếu tố đầu ra (q) được đặt trong mối
quan hệ phụ thuộc với các yếu tố đầu vào (x1, x2 ,x3 ,x4 ). Vì vậy các điểm giá
trị nằm dưới đường bao biên cho thấy mức độ hiệu quả cũng như phi hiệu quả của 1
số liệu đại diện. Ở đây, ta xét đến thang đo cho mức độ hiệu quả là TE ( Tổng hiệu
quả kỹ thuật):
TE= SE× PE
Trong đó:
TE: Tổng hiệu quả kỹ thuật.
SE: Hiệu quả kỹ thuật thuần túy.
PE: Hiệu quả quy mô.
Dựa trên việc thiết lập đường bao biên (PP), trạng thái hiệu suất không đổi và
hàm khoảng cách, ta có thể tính được PE, SE và TE. Kỹ thuật này tạo ra một biên
giới được thiết lập bởi các ngân hàng hiệu quả và so sánh nó với các ngân hàng
không hiệu quả để sản xuất điểm hiệu quả. Trong DEA, ngân hàng hiệu quả nhất
(với TE=1) không nhất thiết phải tạo ra mức tối đa của sản lượng từ các yếu tố đầu
vào nhất định. Thay vào đó, ngân hàng này tạo ra mức độ thực hành tốt nhất của
đầu ra giữa các ngân hàng khác trong mẫu
74
Trong các bài toán DEA định hướng đầu ra, TE được đo bằng 1/θ. Trong đó θ
là tỷ lệ khoảng cách từ gốc tọa độ đến điểm tối ưu trên đường biên sản xuất (OB) và
khoảng cách từ gốc tọa độ đến vị trí sản xuất thực tế (OA). Do đó, TE sẽ nhận giá
trị trong khoảng từ 0 đến 1. Qua đó cho ta 1 độ đo về mức độ không hiệu quả kĩ
thuật của ngân hàng. Khi TE có giá trị bằng 1 tức là ngân hàng đó có hiệu quả là tối
đa, gồm các điểm nằm trên đường bao biên (điểm B).
Trong trường hợp hiệu quả không đổi theo qui mô. DEA sẽ xác định tổng hiệu
quả kĩ thuật của doanh nghiệp thông qua bài toán sau :
Với các ràng buộc:
Với: m=1,,M: số đầu ra
n=1,,N: số đầu vào
k=1,,K: số doanh nghiệp
Từ bài toán này ta có thể xác định được TE của doanh nghiệp thứ i tại thời kì
s. Thông qua đó sẽ có cái nhìn khách quan về hiệu quả trong hoạt động sản xuất của
danh nghiệp i, cũng như đưa ra định hướng về việc thay đổi qui mô hay tiến bộ về
mặt công nghệ để đạt mức hiệu quả cao hơn.
Chỉ số năng suất nhân tố tổng hợp (TFP):
Kỹ thuật qui hoạch các biến số trong phương pháp tiếp cận phi tham số được
sử dụng để đo lường chỉ số Malmquist (chỉ số năng suất nhân tố tổng hợp). TFP
phản sánh sự thay đổi độ đo hiệu quả kỹ thuật, tiến bộ công nghệ, hiệu quả thuần,
hiệu quả qui mô và năng suất nhân tố tổng hợp.
75
Xác định chỉ số Malmquist tức là ta giả thiết công nghệ sản xuất sẽ thay đổi
ứng với từng thời kì. Qua đó sẽ kiểm nghiệm việc thay đổi đó là do yếu tố nào gây
ra. Thông qua nghiên cứu Malmquist TFP có thể phân ra thành 2 thành phần là
TEC và TC.
Malmquist TFP index = TECxTC
Công thức này hàm ý rằng tăng trưởng của TFP có thể được giải thích bằng
cải tiến trong hiệu quả kỹ thuật và tiến bộ công nghệ.
Như vậy:
DEA áp dụng được cả với các biến định tính, do đó nó được ứng dụng để
phân tích hiệu quả của các doanh nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực. DEA được
xây dựng dựa trên các điểm thực tế, nên nó có thể được áp dụng với các mẫu
nghiên cứu nhỏ, khác với phương pháp phân tích hồi quy thường yêu cầu cỡ mẫu
lớn. Do vậy DEA thường được sử dụng để phân tích chuyên sâu theo khu vực, địa
phương, chẳng hạn như phân tích hiệu quả của các nền kinh tế trong ASEAN, các
phòng ban trong một doanh nghiệp, các ngân hàng lớn trên địa bàn Hà Nội
phương pháp này cũng có hạn chế (so với phương pháp hồi quy) đó là nó không
tính toán đến yếu tố sai số hay nhiễu, do đó trong DEA không tồn tại yếu tố mức ý
nghĩa hay độ tin cậy. Nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng, tác giả
sử dụng DEA để phân tích thông qua việc so sánh tương quan giữa hiệu quả trong
hoạt động các Ngân hàng thương mại của nước ta trong giai đoạn (2008-2013).
Nguồn số liệu được sử dụng được lấy từ các báo cáo tài chính, báo cáo thường
niên của 31 ngân hàng thương mại giai đoạn 2008-2011 và 27 ngân hàng thương
mại năm 2012. Dựa trên số liệu tác giả lựa chọn ra các biến số để sử dụng chạy mô
hình DEA: tổng tài sản (TA); chi phí lãi vay (IN); vốn chủ sở hữu (EQ); lợi nhuận
chưa phân phối (RE); thu nhập trước thuế (EB); thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS);
chi phí hoạt động (OE).
Trong phần này, để lựa chọn biến đầu ra, đầu vào phù hợp cho mô hình,
nghiên cứu đã sử dụng kiểm định tương quan hạng Spearman. Trước hết, chúng ta
76
ước lượng hiệu quả kỹ thuật cho mô hình DEA với các tổ hợp các biến đầu vào và
đầu ra khác nhau. Sau đó thực hiện kiểm định tương quan hạng các mô hình đưa
thêm với mô hình gốc để kiểm định xem liệu tổ hợp các biến lựa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_he_giua_nang_luc_canh_tranh_nganh_cong_nghiep_va_ho_tro_phat_trien_cluster_cum_nganh_nghien_cuu.pdf