Chuyển giao công nghệ được xem là một trong những mục tiêu cơ bản trong thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thông qua công nghệ được chuyển giao qua các hình thức:
nhập khẩu máy móc thiết bị, bí quyết kỹ thuật, bằng phát minh sáng chế, đào tạo huấn
luyện lao động để nâng dần trình độ quốc gia và rút ngắn khoảng cách chênh lệch về
khoa học kỹ thuật vớicác nước khác.
Trên thực tế, qua mấy năm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hồ Chí
Minh trong một số lĩnh vực, kếtquả chuyển giao công nghệ thông qua các dự án có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt một số kết quả khả quan. Nếu không có sự tham gia của
các bên đối tác nước ngoài, Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng
không thể hoặc khó có thể tự tiến hành các dự án về hiện đại hoá hệ thống thông tin, pha
chế dầu nhờn, sản xuất ô tô, các khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế Cùng với chuyển giao
công nghệ sản xuất, nhiều khía cạnh khác nằm trong “gói”công nghệ cũng được chuyển
giao kèm theo như kỹ năng chuyên môn, kỹ thuật quản lý điều hành, kỹ thuật tiếp cận thị
trường quốc tế
83 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1615 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Một số giải pháp tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bảng 2-22 :Trình độ máy móc thiết bị đang sử dụng trong sản xuất tại Thành phố
ĐVT: Phần Trăm (%)
Khu vực kinh tế Tổng số Hiện đại Trung bình Lạc hậu
DN nhà nước 100 9.5 50.3 40.2
DN có vốn đầu tư nước ngoài 100 60.6 39.4
Các thành phần kinh tế khác 100 23.7 51.9 24.4
Nguồn: Cục Thống kê Tp.Hồ Chí Minh
Trong lĩnh vực tiếp cận công nghệ, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu không
thể phủ nhận. Nhưng cũng còn nhiều vấn đề đặt ra trong lĩnh vực này:
- Không ít đối tác nước ngoài nâng giá máy móc thiết bị, công nghệ khi chuyển giao.
Chẳng hạn như: công ty Saigon vewong (đối tác Đài Loan) đã kê giá 1,009 triệu
USD trong khi giá thẩm định chỉ có 0.650 triệu USD, hay công ty dệt Saigon Joubo
Chương 1: Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trang 38
(đối tác Đài Loan) kê giá 3.497 triệu USD trong khi giá thẩm định là 3 triệu USD.
Việc kê giá của đối tác nước ngoài đã gây không ít khó khăn cho phía Việt Nam
trong liên doanh.
- Đa số các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ để đổi mới máy móc thiết
bị, công nghệ của nước họ. Có nghĩa là họ luôn đi trước ta về mặt thiết bị, công
nghệ, do đó sản phẩm của ta có sức cạnh tranh yếu trên thị trường thế giới.
Nguyên nhân của những tình trạng trên là do phía Việt Nam chưa nắm vững thông
tin công nghệ , hoạt động đánh giá thẩm định còn yếu. Về mặt quản lý Nhà nước chưa có
những qui định thật cụ thể trong hoạt động tiếp nhận công nghệ.
Kết luận: Trong hoạt động tiếp nhận công nghệ từ nước ngoài thông qua đầu tư trực
tiếp, chúng ta đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc đổi mới máy móc thiết bị, công
nghệ sản xuất trên địa bàn thành phố, mà trước đây hầu hết ở trong tình trạng cũ kỹ, lạc
hậu. Những kết quả nói trên, bước đầu không chỉ tăng thêm về cơ sở vật chất kỹ thuật cho
nền kinh tế mà quan trọng hơn hết là tạo ra những tố chất lao động mới cho đội ngũ chuyên
gia, công nhân khả năng tiếp cận nhanh chóng trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại, bản lĩnh
kinh doanh năng động và hiệu quả trong một môi trường kỹ thuật và thương mại đầy tính
cạnh tranh. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao hơn trong lĩnh vực này, cần tránh những
thiệt hại mà trước đây đã xảy ra.
2.3.1.5 Đóng góp cho ngân sách nhà nước
Thuế và các khoản thu cho ngân sách nhà nước từ khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ngày càng tăng tuy rằng vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu ngân sách
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Sở dĩ mức đóng góp cho ngân sách thành phố còn
khiêm tốn là bởi lẽ:
- Phần lớn các dự án ( đặc biệt là các dự ám có qui mô lớn) đang trong giai đoạn
triển khai xây dựng cơ bản hoặc chỉ mới đi vào hoạt động chưa lâu nên chưa có sản
phẩm và nguồn thu nhiều.
- Vật tư, thiết bị, phương tiện nhập khẩu để xây dựng cơ bản và vật tư nguyên vật liệu
để sản xuất hàng xuất khẩu theo qui định của luật đều được miễn thuế nhập khẩu.
- Những dự án đi vào sản xuất kinh doanh, trong thời gian đầu còn khó khăn về thị
trường tiêu thụ nên chưa có lãi, hơn nữa, có không ít dự án được miễn giảm thuế lợi
tức 1-3 năm liên tục.
Bảng 2-23: Đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài trong ngân sách thành phố
ĐVT: Tỷ đồng
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003
Thu ngân sách thành phố 26074.0 30731.6 37402.0 41590.9
- Khu vực có vốn ĐTNN 1833.4 2021.6 2621.9 3555.9
-Tỷ trọng trong ngân sách (%) 7.03 6.58 7.01 8.55
- Tốc độ tăng (%) 28.5 10.3 29.7 35.6
Nguồn: Cụ thuế thành phố – Niên giám Thống kê thành phố 2003
Trong một vài năm trở lại đây, các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bắt
đầu hoạt động có hiệu quả, tuy nhiên bên cạnh số lượng các doanh nghiệp có lãi đang tăng
lên thì số lượng các doanh nghiệp báo cáo lỗ cũng ngày một tăng và luôn luôn cao hơn số
Chương 1: Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trang 39
lượng các doanh nghiệp bị thua lỗ (thường là gấp ba lần). Đây cũng là một trong những
nguyên nhân khiến cho tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng
thu ngân sách thành phố vẫn còn hạn chế.
Bảng 2-24: Kết quả sản xuất kinh doanh của các DNNN
Chỉ Tiêu 2000 2001 2002 2003
Tổng số DN 849 1003 1026 1371
Số N kê khai lãi 61 81 81 108
Số DN kê khai lỗ 172 201 251 318
Số DN chuyển lợi nhuận
ra nước ngoài
42 35 34 32
Nguồn: Cục Thuế Thành phố
Kết luận: Với nhu cầu chi ngân sách địa phương ngày một lớn và bức thiết, thì
nguồn thu từ khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mang ý nghĩa hết sức quan trọng.
Tuy hiện nay nguồn thu này chưa cao, nhưng trong vài năm tới khi các dự án đi vào hoạt
động nhiều hơn, đây chắc chắn sẽ là nguồn thu quan trọng cho ngân sách thành phố.
2.3.2 Hiệu quả xã hội của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hình 2-5: Số lượng lao động của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố
150.955 163.398
206.72
238.96
0
50
100
150
200
250
300
2000 2001 2002 2003
Theo Sở lao động thương binh và xã hội, tính đến cuối năm 2003, toàn thành phố có
gần 300.000 người lao động đang làm việc cho các đơn vị có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn gián tiếp tạo việc làm cho hàng trăm
nghìn lao động khác thông qua các quá trình xây dựng, các công ty cung cấp dịch vụ,
nguyên vật liệu… Nhưng do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á vẫn còn
nên một số dự án phải giải thể hoặc giảm sản xuất khiến cho số lượng nhân công bị cắt
giảm đáng kể.
Mức thu nhập của lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tương đối khá hơn so với lương của các doanh nghiệp trong nước và so với mức
lương qui định tối thiểu khi làm việc cho các đơn vị có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
nhưng vẫn còn tùy thuộc vào tính chất ngành nghề và yêu cầu kỹ thuật nghề nghiệp.
Chương 1: Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trang 40
Cũng theo số liệu do Sở lao động thương binh và xã hội thành phố cung cấp thì trong
năm 2003, lương bình quân của người lao động làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài là 3.5 triệu đồng. Trong đó mức lương cáo nhất là 53triệu và thấp nhất là 600
nghìn đồng.
Ngoài ra, phần lớn cán bộ qua thời gian làm việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã trưởng thành, trình độ làm việc được nâng lên, thích ứng với cơ chế
thị trường và chế độ quản lý mới, nắm bắt được những công nghệ tiên tiến, sử dụng được
những thành tựu về khoa học kỹ thuật, khoa học quản lý, về các vấn đề thị trường, tiếp thị …
có tiến bộ về nghệ thuật, kỹ năng hành chính,, nghiệp vụ và quan hệ giao tiếp với các đối tác
nước ngoài. Còn về công nhân, trình độ tay nghề được nâng lên, quen dần với tác phong
công nghiệp. Kết quả là năng xuất lao động và chất lượng được cải thiện đáng kể.
Kết luận: Nhìn chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tác động tích cực đến giải
quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, trình độ tay nghề cũng được nâng lên.
Tuy nhiên cũng còn không ít những vấn đề về điều kiện làm việc và quan hệ lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đã ảnh hưởng không ít tới
quyền lợi của người lao động. Các cơ quan hữu trách cần can thiệp mạnh mẽ để bảo vệ
quyền lợi chính đáng cho người lao động.
2.4 KẾT LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TRÊN ĐỊA BÀN TP. HỒ CHÍ MINH VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
2.4.1 Kết luận về hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh
Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh trong thời
qua được đánh giá là tích cực so với một số địa phương trong cả nước. Nhưng bên cạnh
những mặt tích cực đó, vẫn còn một số điểm tồn tại cần được giải quyết nhằm tăng cường
thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn.
2.4.1.1 Mặt tích cực
Để đạt được những kết quả do đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại cho thành phố
như đã phân tích ở trên. Trong thời gian qua, thành phố Hồ Chí Minh, trong quyền hạn của
mình, đã cố gắng cải thiện môi trường đầu tư để tăng tính hấp dẫn của thành phố bằng một
loạt các biện pháp sau:
2.4.1.1.1 Tác động đến một số chính sách làm môi trường đầu tư tốt hơn
- Thành phố đã xây dựng và ban hành 16 chương trình mục tiêu phát triển các ngành
nghề chủ lực của thành phố để làm định hướng cho việc kêu gọi đầu tư nước ngoài tại
thành phố.
- Thành lập Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư trực thuộc Ủy ban nhân dân
thành phố, là cơ quan hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài trong giai đoạn đầu tìm hiểu về môi
trường đầu tư trước khi quyết định đầu tư.
- Ban hành Quyết định số 45/2004-QĐUB về chính sách ưu đãi trong đầu tư đối với
các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại thành phố Hồ Chí Minh, trong đó quy định các
ngành, lĩnh vực được ưu đãi, các chính sách ưu đãi dành cho nhà đầu tư khi họ tham gia vào
những dự án thành phố khuyến khích.
Chương 1: Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trang 41
- Công bố chủ trương “5 sẵn sàng” trong thu hút đầu tư, cụ thể là sẵn sàng về thông
tin, sẵn sàng về đất, sẵn sàng về lao động, sẵn sàng về viễn thông, sẵn sàng hỗ trợ đối với
những dự án lớn. Cụ thể là :
- Sẵn sàng về thông tin được thực hiện qua thành lập Đầu mối cung cấp thông tin
trực thuộc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư, là nơi có trách nhiệm thu thập
và cung cấp thông tin miễn phí về đầu tư nước ngoài “1 cửa” của thành phố.
- Sẵn sàng về đất được thực hiện qua việc thành lập “Trung tâm thu hồi và khai thác
quỹ đất phục vụ đầu tư” trực thuộc Ủy Ban Nhân Dân Thành phố, để tạo quỹ đất
sẵn sàng cho đầu tư nước ngoài và công khai quỹ đất. Các nhà đầu tư nước ngoài
khi có nhu cầu sẽ có những khu đất sẵn sàng cho thuê hoặc nhà xưởng xây sẵn,
không để nhà đầu tư phải tự đi tìm kiếm, tự đền bù giải tỏa, thiết kế hạ tầng, tự xây
dựng, chi phí nhiều và kéo dài thời gian.
- Sẵn sàng về lao động trong đó có cả cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật được
thực hiện qua việc thành lập Hội đồng Hiệu trưởng các trường đại học của thành
phố để liên kết các trường lại với nhau, hỗ trợ lẫn nhau trong việc đào tạo; tiến
hành chương trình đào tạo 300 thạc sỹ, tiến sỹ và chương trình đào tạo 1000 nhà
quản lý doanh nghiệp; nâng cấp các trường dạy nghề để có thể đáp ứng được nhu
cầu về công nhân kỹ thuật cho nhà đầu tư và sẽ chủ động giới thiệu đến các nhà
đầu tư.
- Sẵn sàng về viễn thông được thực hiện qua việc đã thỏa thuận với Tổng Công ty
Bưu chính - Viễn thông, Bưu điện thành phố để mở rộng hệ thống cáp quang và
đến năm 2005 có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của các nhà đầu tư.
- Sẵn sàng hỗ trợ, giúp đỡ nhà đầu tư khi đang làm thủ tục xin giấy phép đầu tư được
thực hiện qua việc phân công một chuyên viên của Sở kế hoạch và đầu tư phụ
trách một dự án (đối với dự án trên 1 triệu USD), thực hiện giao ban đầu tư nước
ngoài hàng tuần do Ủy Ban Nhân Dân TP. Hồ Chí Minh chủ trì, để kịp thời xử lý
những vướng mắc, trở ngại trong quá trình xin phép đầu tư.
- Thực hiện một số biện pháp về hạ tầng để cải thiện hệ thống giao thông như xây
dựng mới nhiều cầu (Cầu Bình Triệu II, Cầu Nguyễn Tri Phương ...), chương trình
đầu tư 1318 xe buýt, thực hiện dự án đường Đông Tây; chuẩn bị xây dựng cầu Thủ
Thiêm, cầu Tân Thuận II...; đang đàm phán với đối tác nước ngoài để xây dựng hai
tuyến metro của thành phố.
2.4.1.1.2 Cải cách cơ chế hành chính của thành phố
Những cải cách hành chính của thành phố đã nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chánh
và nâng cao tính minh bạch, công khai về chủ trương chính sách, làm cơ sở cho các nhà đầu
tư nước ngoài yên tâm khi quyết định đầu tư. Một số cải cách đã thực hiện như sau:
- Ban hành Chỉ thị 28/2001/CT-UB của Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân thành phố Hồ
Chí Minh về việc quy định những biện pháp cải tiến thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu
tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn thành phố trong đó quy định rõ quy trình cấp phép, thực
hiện và quản lý dự án có vốn đầu tư nước ngoài, mối quan hệ hợp tác giữa các cơ quan
Nhà nước trên địa bàn thành phố trong quá trình giải quyết các hồ sơ thủ tục và thời gian
giải quyết, xử lý hồ sơ tại mỗi cơ quan.
Chương 1: Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trang 42
- Từ tháng 12 năm 2002 đã bắt đầu xây dựng Chương trình Chính phủ điện tử, trong
đó đã hình thành HoChiMinh City Web liên kết được với các website của các Sở - Ban -
Ngành của thành phố để giới thiệu về thành phố, phổ biến công khai các hoạt động hoặc
các chủ trương, chính sách mới của thành phố.
- Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị đầu tiên trong cả nước
cấp giấy phép đăng ký kinh doanh qua mạng cho doanh nghiệp trong nước, và kể từ ngày
1/4/2004, đã bắt đầu thủ tục cấp giấy phép đầu tư qua mạng đối với một số dự án đầu tư
nước ngoài.
- Thành lập Trung tâm Triển lãm quy hoạch xây dựng thành phố trực thuộc Sở Quy
hoạch Kiến trúc để công khai các quy hoạch của thành phố, đang hoàn chỉnh việc quy
hoạch chi tiết 1/2000 của tất cả các quận huyện tại thành phố và dự thảo mới quy định về
thủ tục giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn thành phố.
- Và đối với doanh nhân đã đầu tư tại Việt Nam, thành phố thường xuyên quan tâm
đến ý kiến của họ nên đã và đang tổ chức ba hình thức đối thoại trực tiếp hay qua hệ thống
B2G mà chúng ta đang vận hành nhằm tìm hiểu nhu cầu, giải đáp các thắc mắc, khiếu nại
trong quá trình sản xuất, kinh doanh, cũng như tiếp nhận góp ý của họ về môi trường đầu tư
của thành phố nói riêng và của Việt Nam nói chung.
2.4.1.1.3 Đẩy mạnh xúc tiến bằng các biện pháp cụ thể
- Tổ chức những đoàn do lãnh đạo Ủy Ban Nhân Dân TP. Hồ Chí Minh dẫn đầu đi
xúc tiến thương mại và đầu tư tại những thị trường mục tiêu như Mỹ, Châu Âu, Châu Á...
với chất lượng ngày càng cao.
- Chuẩn bị các dự án để thành lập các văn phòng đại diện tại nước ngoài để xúc tiến
đầu tư, thương mại, du lịch cho thành phố Hồ Chí Minh.
- Tạo mối quan hệ hợp tác với lãnh sự quán các nước, hiệp hội doanh nhân nước
ngoài, công ty tư vấn tại thành phố, các đối tác tại nước ngoài... để tìm hướng cải thiện môi
trường đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Tổ chức Hội nghị các nhà ngoại giao tại thành phố Hồ Chí Minh để trao đổi những
vấn đề, phương hướng đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa ngành ngoại giao với TP. Hồ Chí
Minh theo tinh thần Nghị định 08/CP ngày 10/02/2003 của chính phủ “về hoạt động của cơ
quan đại diện nước CHXHCNVN ở nước ngoài phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế”.
- Soạn thảo và in ấn các tài liệu về thủ tục và môi trường đầu tư bằng tiếng Anh để
cung cấp miễn phí cho nhà đầu tư nước ngoài.
- Tổ chức tiếp đón đoàn các nhà đầu tư nước ngoài và sẵn sàng hỗ trợ họ tìm kiếm,
chọn lựa, bố trí gặp các đối tác tiềm năng hoặc gặp lãnh đạo Ủy ban nhân dân và các Sở
Ban ngành thành phố theo yêu cầu.
- Việc nâng cao trình độ chuyên môn và trình độ ngoại ngữ của đội ngũ cán bộ làm
công tác xúc tiến của thành phố, cũng như sự điêu luyện và thông thạo ngoại ngữ của lãnh
đạo Ủy ban nhân dân thành phố và Sở Ban ngành đã tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh
xúc tiến đầu tư trong quá trình tiếp xúc với các doanh nhân nước ngoài.
Chương 1: Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trang 43
2.4.1.2 Những mặt còn tồn tại, hạn chế
2.4.1.2.1 Hoạt động xúc tiến đầu tư chưa mang lại hiệu quả cao
Mặc dù trong thời gian qua, thành phố đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm cải thiện
hoạt động xúc tiến đầu tư trên địa bàn nhưng thực tế, hoạt động xúc tiến đầu tư chưa mang
tính chuyên nghiệp và đem lại hiệu quả cao. Thể hiện ở một số khía cạnh sau:
- Mức độ quảng bá hình ảnh của thành phố với tư cách là điểm đến của các nhà đầu
tư còn thấp và chưa đạt hiệu quả cao. Rất nhiều nhà đầu tư vẫn mang tâm tưởng về
thành phố thời chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu và chậm đổi mới.
- Việc cung cấp thông tin đến với các nhà đầu tư chưa mang tính chuyên nghiệp và
đa dạng và do đó hiệu quả của việc cung cấp thông tin chưa cao.
- Công tác xúc tiến đầu tư tại nước ngoài được xem là một trong những công cụ quan
trọng nhất trong mảng hoạt động xúc tiến chuyên nghiệp. Thực tế cho thấy, trong
những năm qua, sự năng động và chịu khó của các cơ quan thực hiện, thành phố
bước đầu đã thu được những kết quả khả quan trong công tác tổ chức các đoàn đi
xúc tiến đầu tư. Tuy nhiên, kỹ năng tổ chức và tính chuyên nghiệp trong việc tổ
chức các chuyến đi vẫn còn kém và chưa đạt kết quả cao, tính chất lượng của các
chuyến đi còn thấp.
- Việc đón tiếp các nhà đầu tư mới đến còn bị động, chưa được chuẩn bị một cách
kỹ lưỡng và vẹn toàn nên không thu được nhiều tín hiệu tốt từ các nhà đầu tư sau
khi họ đến thành phố tìm kiếm cơ hội.
2.4.1.2.2 Công tác hỗ trợ các nhà đầu tư hiện có vẫn còn nhiều hạn chế
Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ thực hiện nỗ lực thu hút đầu tư mà còn tạo mọi điều
kiện thuận lợi để các doanh nghiệp đã đầu tư tiếp tục phát triển tốt các hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Nếu thành phố thực hiện tốt chủ trương này thì chính các doanh nghiệp kể
trên sẽ trở thành một trong những cầu nối thu hút các nhà đầu tư mới đến làm ăn tại thành phố.
Nhưng trong quá trình thực hiện, còn có một số vấn đề tồn tại cần phải hoàn thiện:
- Các nhà đầu tư khi gặp khó khăn trong quá trình kinh doanh nhưng không biết phải
xác định đơn vị nào sẽ giải quyết khó khăn đó cho họ khi mà khó khăn đó liên
quan đến nhiều đơn vị khác nhau.
- Khi các nhà đầu tư gặp khó khăn, việc giải quyết khó khăn đó của thành phố cho
nhà đầu tư khá chậm, gây mất thời gian nhưng chưa được giải quyết một cách triệt
để vì có rất ít các cơ quan nhà nước tham gia giải quyết.
2.4.1.2.3 Chưa có sự phối hợp thật chặt chẽ giữa các đơn vị, tổ chức liên quan
Hiện nay, trên địa bàn thành phố, các cơ quan, tổ chức nhà nước liên quan đến hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Thể hiện ở một số
điểm:
- Chưa có sự phân bổ hợp lý trong cơ cấu ngành nghề đầu tư .
- Thông tin cung cấp cho các nhà đầu tư chưa đa dạng phong phú và hoàn chỉnh do
chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị nên thông tin nhiều khi không đầy đủ
theo như nhà đầu tư mong muốn.
- Trong những năm qua, thành phố đã tạo được mối quan hệ hợp tác với một số Lãnh
sự quán, hiệp hội doanh nhân nước ngoài, công ty tư vấn tại TP. Hồ Chí Minh. Tuy
Chương 1: Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trang 44
nhiên, chỉ là những quan hệ ngắn hạn theo từng vụ việc, chưa có những thỏa thuận
hợp tác thật dài hạn.
2.4.1.2.4 Năng lực của cán bộ trong các lĩnh vực liên quan đến đầu tư trực tiếp
nước ngoài chưa cao
- Thực tiễn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua tại thành phố
cho thấy, số doanh nghiệp kê khai lỗ luôn luôn cao hơn rất nhiều các doanh nghiệp
làm ăn có lời. Điều này đã được lượng hoá trong phần đánh giá hiệu quả của hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài nêu ở trên. Nguyên do cũng một phần bởi trình độ
và năng lực của cán bộ trong đối tác Việt Nam quá kém. Tình trạng này gây ảnh
hưởng rất lớn đến môi trường đầu tư ở thành phố dưới mắt nhìn của các nhà đầu tư
nước ngoài.
- Các chủ trương chính sách và quyết định của thành phố ban hành. Nhưng do năng
lực quản lý điều hành của các cán bộ, các cơ quan còn hạn chế, dẫn đến thực hiện
chậm và không nghiêm, né tránh trách nhiệm, kéo dài tình trạng thủ tục hành chính
rườm rà, nhũng nhiễu dẫn đến sự ái ngại của các nhà đầu tư vào thành phố.
- Các đối tác trong nước hợp tác góp vốn chủ yếu bằng quyền sử dụng đất. Do đó,
vốn tham gia không nhiều, làm yếu đi vai trò đại diện.
2.4.1.2.5 Cơ sở hạ tầng phát triển chậm
Mặc dù thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương có cơ sở hạ tầng
phát triển nhất nước ta nhưng theo đánh giá của các nhà đầu tư thì cơ sở hạ tầng của thành
phố đang có nguy cơ xuống cấp do không được thường xuyên duy tu, sửa chữa. Tình trạng
ùn tắc giao thông xảy ra liên tục, nhất là vào những giờ cao điểm, mật độ xe lưu thông tăng
lên rất nhiều trong khi việc mở các tuyến đường thì chậm chạp. Bên cạnh đó, hệ thống cầu
quá cũ đã không gánh nổi một lượng xe cộ quá lớn dẫn đến tình trạng không biết cầu sập
lúc nào. Hệ thống điện nước không đáp ứng được nhu cầu về số lượng và chất lượng làm
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hệ thống thoát nước
và xử lý chất thải cũ kỹ, lạc hậu dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường trầm trọng.
Bên cạnh đó, hệ thống sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc vẫn chưa được phát
triển tăng cường nên dẫn tới tình trạng xuống cấp, không đáp ứng kịp thời cho sự phát triển
của nền kinh tế.
Theo qui chế Khu công nghiệp, nhà nước sẽ hỗ trợ cho các công trình kết cấu hạ
tầng bên ngoài hàng rào vào đến tận chân Khu công nghiệp, nhưng trên thực tế nhiều con
đường dẫn vào các Khu công nghiệp vẫn chưa được thi công hoặc chưa thi công hoàn
chỉnh. Bên cạnh đó, hạ tầng cơ sở bên trong và các công trình phụ trợ vẫn chưa được đầu tư
nhiều. So sánh với các Khu công nghiệp do nước ngoài đầu tư ta thấy vốn đầu tư cho 1 ha
thấp nhất là 0.3USD/ha là Khu công nghiệp Nội Bài do Malaysia đầu tư, Khu công nghiệp
có vốn đầu tư trên một ha cao nhất là Khu công nghiệp Nomura của Singapore
1.07USD/ha. Trong khi đó vốn đầu tư bình quân của các Khu công nghiệp tại thành phố Hồ
Chí Minh do các chủ đầu tư trong nước làm là 0.22USD/ha. Chính vì điều này, các nhà đầu
tư nước ngoài khi tìm hiểu môi trường đầu tư và cơ hội đầu tư họ thường được các công ty
môi giới đưa đến các Khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các tỉnh như : Amata,
Việt Nam-Singapore, Nomura dù giá thuê có cao hơn với lý do là các K
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 42710.pdf