Cũng vì là các loại hình nghệ thuật mới, nên các cách thức giới thiệu
tác phẩm của chúng cũng rất khác so với truyền thống. Không gian trưng bày
các tác phẩm này không còn chỉ giới hạn trong các phòng trưng bày của các
bảo tàng, hay các nhà triển lãm. Các tác phẩm nghệ thuật mới đã tiến đến
nhiều khu vực trước đây tưởng như không phải nơi dành cho nghệ thuật, như
các nhà ga, sân bay, các nhà máy, nơi công cộng Ở những nơi đó, với khả
năng ứng dụng cao của các phương tiện CNTT như máy chiếu, các sensor
cảm biến , thực sự các tác phẩm nghệ thuật mới đã biến đổi những không
gian từ chỗ tự nhiên, thành những không gian nghệ thuật tạo nên một sức hấp
dẫn đối với người xem.
Việc giới thiệu các tác phẩm nghệ thuật trên internet đã trở nên một
cách rất hiệu quả để quảng bá mỹ thuật với thế giới. Ngược lại nó cũng giúp
cho việc đưa các tác phẩm Mỹ thuật của thế giới đến Việt Nam dễ dàng hơn.
27 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 652 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Mỹ thuật Việt Nam - Những biến đổi trong thời đại công nghệ thông tin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an tâm. Ở phương Tây các tư tưởng, khái niệm, đặc
trưng nghệ thuật, hoàn cảnh ra đời, giá trị của các loại hình nghệ thuật mới
trong thời kỳ hậu hiện đại đã được bàn đến khá sâu rộng. Tuy nhiên ở Việt
Nam, các vấn đề này mới được bàn rải rác trong một số sách, tiểu luận, bài
báo phê bình, nghiên cứu văn học và một số hội thảo khoa học. Cuốn sách
Nghệ thuật Môđéc và Hậu Môđéc (1996) của tác giả Lê Thanh Đức có thể
xem là công trình mang tính giới thiệu, tổng hợp đầu tiên về các trào lưu
nghệ thuật phương Tây ra đời trong thời kỳ hậu hiện đại.
b. Nghiên cứu về sự tác động CNTT trong Mỹ thuật Việt Nam
Công việc nghiên cứu Mỹ thuật Việt Nam trong giai đoạn gần đây thể
hiện trong các công trình như: 20 năm Mỹ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Nghệ thuật Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa của Viện Mỹ thuật thuộc
Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. Các nghiên cứu cho thấy sau mở cửa và
đổi mới, Mỹ thuật Việt Nam đã có sự thay đổi mạnh mẽ.
Các họa sỹ đã nhanh chóng hòa nhập với nghệ thuật quốc tế, đặc biệt các
nghệ sỹ trẻ đã có điều kiện hơn để tiếp cận các loại hình nghệ thuật mới như
Video Art, Installation Art Một số bài viết đã chỉ ra sự ứng dụng khoa học
công nghệ thông tin góp phần trong việc hỗ trợ sáng tác nghệ thuật, tạo ra các
7
hiệu quả thẩm mỹ mới phù hợp với thời đại. Vài nét về hình thức Video Art ở
Việt Nam của tác giả Phạm Trung khái quát về hình thức Video Art ở Việt Nam
từ năm 1998 đến 2006, Nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Quân trong bài Nghệ
thuật đương đại sống với cộng đồng giới thiệu về quá trình nghệ thuật đương đại
vào Việt Nam. Bài viết “Tái định nghĩa quá khứ và chuyển hóa không gian công
cộng: Hai chiến thuật gần đây của các nghệ sĩ đương đại Việt Nam trong những
năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới”của tác giả Nguyễn Như Huy. Hay như
Richard Streitmatter - Tran đã đề cập đến một số điều kiện quan trọng có ảnh
hưởng tới việc sáng tạo nghệ thuật đương đại ở Việt Nam trong bài viết Các giai
đoạn và điều kiện cho việc sáng tạo nghệ thuật đương đại ở Việt Nam.
Năm 2011, Hội thảo khoa học toàn quốc Nghệ thuật đương đại Việt Nam
hướng tới cộng đồng tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nghệ thuật
đương đại, đề cập đến sự thay đổi căn bản về cách thức tiếp cận, mối quan hệ
giữa nghệ sĩ và công chúng. Ta có thể thấy các loại hình nghệ thuật có ứng
dụng khoa học và công nghệ thông tin như Video Art, Multimedia Art, Digital
Art,... là một phần quan trọng của nghệ thuật đương đại Việt Nam.
Tuy nhiên vẫn chưa có những nghiên cứu sâu chỉ ra những biểu hiện
của khoa học và công nghệ trong các loại hình nghệ thuật mới như Video
Art, Sound Art, Multimedia Art; cũng như chưa có những nhận định, đánh
giá những giá trị của việc vận dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sáng
tác Mỹ thuật ở Việt Nam.
Đề tài “Mỹ thuật Việt Nam - những biến đổi trong thời đại công nghệ thông
tin” của NCS là một đề tài mới. Qua đề tài của luận án có thể hiểu sâu hơn về
những giá trị của các loại hình nghệ thuật chịu tác động của khoa học và công
nghệ, đồng thời sẽ nhận biết rõ hơn mối quan hệ giữa CNTT và Mỹ thuật, nhận
biết rõ hơn giá trị tình cảm của các tác phẩm có sử dụng phương tiện CNTT.
6. Phương pháp nghiên cứu
8
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành. Với các thao tác như
sau: Thu thập thông tin, Phân tích tài liệu, Phân tích tác phẩm, Phương pháp
phỏng vấn, Sử dụng phương pháp định tính, định lượng, Phương pháp so sánh
7. Giả thuyết khoa học của đề tài
7.1 Công nghệ thông tin và những thay đổi trong nghệ thuật
Một câu hỏi đặt ra là nếu không có CNTT thì nghệ thuật có thay đổi
hay không? Trên thực tế nghệ thuật luôn đòi hỏi phải thay đổi và làm mới, đó
chính là sự sáng tạo.
CNTT tác động đến mọi mặt của đời sống con người tạo ra một xã hội
thông tin. Những thay đổi này đã tạo ra nhiều hình thái nghệ thuật mới, mà
nhiều khi nó là sự tổng hòa của những loại hình nghệ thuật trước đó.
CNTT đã tạo điều kiện, có thể coi là chất xúc tác để các nghệ sỹ sáng
tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật mới như Video Art, Digital Art, Sound
Art, tăng thêm sức biểu hiện của nghệ thuật và tạo nên mối quan hệ mới,
tương tác giữa người xem và người sáng tác.
Khi CNTT ra đời đã hình thành nên xã hội thông tin, nó tác động mọi
mặt vào đời sống của con người, nên hiển nhiên nó đã tạo nên sự thay đổi to
lớn đối với nghệ thuật.
7.2. Nhận thức về thế giới thay đổi hay không khi xuất hiện CNTT
Thế giới mà không có CNTT thì chắc chắn sẽ vẫn có những sự thay đổi
về nhận thức. Nhưng tốc độ của sự thay đổi này sẽ diễn ra chậm chạp hơn rất
nhiều. Bởi các phương tiện trước đó không đủ khả năng truyền tải được một
lượng dữ liệu lớn như CNTT có thể đưa đến cho con người.
Khi CNTT ra đời nó đã ảnh hưởng lớn đến nhận thức của con người về
thế giới quan xung quanh mình. Nó giúp cho con người xóa bỏ các rào cản
về khoảng cách, về không gian, và cả thời gian. Trong một xã hội thông tin
phát triển như vũ bão hiện nay, con người dường như lớn nhanh hơn, hấp thu
được nhiều kiến thức hơn.
9
7.3. CNTT thay đổi giá trị chuẩn mực thẩm mỹ truyền thống
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ đã góp phần tạo điều
kiện cho nghệ sĩ có thể thực hiện được những ý tưởng, những biểu hiện tình
cảm của mình. Thành quả của những tác phẩm mà nghệ sĩ sáng tạo ra đã
khẳng định thẩm mỹ nghệ thuật của mỗi thời kỳ.
CNTT cũng đã tác động vào tiến trình toàn cầu hóa, tạo điều kiện cho
mọi người trên thế giới dễ dàng hiểu nhau hơn. Nhiều giá trị chuẩn mực văn
hóa thẩm mỹ truyền thống được thay đổi. Những quan niệm về thẩm mỹ mới
được hình thành tại nhiều quốc gia và là sự kết hợp từ những bản sắc của mỗi
dân tộc kết hợp với những nền văn hóa mới bên ngoài đem đến; ở đây CNTT
đã trở thành một công cụ nhanh nhất để phát tán văn hóa, cũng như phổ biến
văn hóa tới mọi nơi. Khi mà truyền hình và mạng thông tin toàn cầu
(internet) càng ngày càng trở nên phổ biến người ta sống quen với việc sử
dụng các sản phẩm CNTT, chịu mọi tác động của xã hội CNTT, thẩm mỹ
của con người cũng thay đổi theo sự thay đổi của xã hội. CNTT dường như
đã lan tỏa mọi ngóc ngách của cuộc sống.
7.4. Ở Việt Nam CNTT có thực sự ảnh hưởng đến những biến đổi trong
sáng tác, thưởng thức, cũng như quảng bá tác phẩm Mỹ thuật hay không ?
Kể từ 1925 khi ra đời trường Mỹ thuật Đông Dương chúng ta mới có một
loại hình Mỹ thuật theo các trường phái phương Tây với các khoa học về giải
phẫu, luật xa gần, hình hoạ, một thẩm mỹ mới về Mỹ thuật ra đời. Từ khi có
chính sách Đổi mới, CNTT du nhập vào VN và nhanh chóng trở nên phổ biến
trong đời sống xã hội. Trong xã hội CNTT nhiều phương tiện của CNTT đã có
ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội. Nghệ thuật trong đó có Mỹ thuật cũng
không nằm ngoài sự ảnh hưởng ấy. Nhiều loại hình mới trong Mỹ thuật ra đời.
Phương pháp sáng tác và trình bày tác phẩm cũng có nhiều sự biến đổi, tác
phẩm của nghệ sỹ và công chúng có sự tương tác lẫn nhau. Người thưởng thức
nhiều khi tham gia vào cùng tác phẩm (Video Art, Sắp đặt)
10
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu (20 trang), Kết luận (7 trang), Tài liệu tham khảo (7
trang) và Phụ lục (42 trang), nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về mỹ thuật trong thời đại CNTT (29 trang)
Chương 2: Sự kết nối giữa Mỹ thuật và CNTT (43 trang)
Chương 3: Những biến đổi của MTVN trước tác động của CNTT (30
trang)
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỸ THUẬT TRONG THỜI ĐẠI CNTT
1.1 Khái niệm Mỹ thuật
“Mỹ thuật” là từ dùng để chỉ các loại nghệ thuật tạo hình như Hội hoạ,
đồ hoạ, điêu khắc, kiến trúc. Nói cách khác, từ mỹ thuật (đẹp + nghệ thuật)
chỉ cái đẹp do con người hoặc thiên nhiên tạo ra mà mắt ta nhìn thấy được, vì
lý do này người ta còn dùng từ nghệ thuật thị giác để nói về mỹ thuật. Ngày
nay khái niệm về Mỹ thuật cũng đã thay đổi. Nằm trong không gian chung của
nghệ thuật đương đại, nơi mọi loại hình nghệ thuật đang dần gỡ bỏ các
đường biên giới về hình thức thể hiện. Nhiều loại hình nghệ thuật mới được
hình thành như Nghệ thuật Sắp đặt, Video Art, Nghệ thuật trình diễn,...cũng
được nằm trong Mỹ thuật.
Tổng kết lại trong quá trình phát triển của Mỹ thuật, kể từ khi có các
cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật, đặc biệt là khi có sự phát triển của
CNTT thì khái niệm của Mỹ thuật đã được mở rộng ra rất nhiều. Mỹ thuật đã
bao gồm gần như toàn bộ các loại hình, chất liệu có thể tạo nên hình ảnh cho
người thưởng thức. Nhiều tác phẩm được hình thành dựa trên nhiều cách
nhìn khác nhau, vì vậy mà có sự xuất hiện của những thứ tưởng như không
11
thuộc Mỹ thuật thì ngày nay đã năm trong Mỹ thuật như video, âm thanh, vũ
đạo ...
1.2. Khái niệm Biến đổi Văn hoá
Biến đổi văn hoá, theo nghĩa rộng đó là sự thay đổi so sánh với một
tình trạng văn hoá hoặc một nền văn hoá có trước. Khi một xã hội có những
chính sách thay đổi về kinh tế, về văn hoá, về giáo dục thì cũng dẫn đến
những biến đổi về xã hội, những biến đổi văn hoá. Tiếp xúc và giao lưu văn
hoá là sự tác động qua lại, ảnh hưởng đến nhau tạo nên những nét biến đổi
văn hoá. Khi một xã hội có những chính sách thay đổi về kinh tế, về văn hoá,
về giáo dục thì cũng dẫn đến những biến đổi về xã hội, những biến đổi văn
hoá. Tiếp xúc và giao lưu văn hoá cũng là một nguyên nhân quan trọng của
biến đổi văn hoá. Tiếp xúc và giao lưu văn hoá là sự tác động qua lại, ảnh
hưởng đến nhau tạo nên những nét biến đổi văn hoá.
1.3. Khái quát về các loại hình nghệ thuật mới
a. Khái quát về Chủ nghĩa Hậu hiện đại (Post Modernism)
Khái niệm “Hậu hiện đại” được nhiều nhà phê bình sử dụng để mô tả
xu hướng văn hóa nghệ thuật muốn vượt qua phạm vi, ranh giới của chủ
nghĩa hiện đại. Thuật ngữ "hậu hiện đại" bao hàm hai nghĩa: ở nghĩa thứ
nhất, nó chỉ khoảng thời gian sau thời kỳ hiện đại; ở nghĩa thứ hai, nó hàm
chỉ tính chất của văn hóa trong giai đoạn hậu hiện đại. Nhìn chung, nghĩa
«hậu hiện đại» là một thuật ngữ triết học đề cập đến nghệ thuật, văn học,
chính trị, xã hội và các khía cạnh của xã hội sau chiến tranh thế giới thứ hai.
b. Khái quát về Nghệ thuật đương đại (Contemporary Art)
Các loại hình nghệ thuật của ngày hôm nay và được lan toả rộng khắp
thế giới và có thể được tính từ năm 1980. Tuy nhiên phải đến thập niên 1990
việc phát minh ra internet với sự liên kết thông tin toàn cầu, sự ra đời của
thời đại kỹ thuật số, cùng nhiều sự biến đổi trong chính trị và xã hội của
nhiều quốc gia trên thế giới, nghệ thuật đương đại gắn liền với sự phát triển
12
của khoa học và CNTT. Thời gian này có thể tạm gọi là “Nghệ thuật đương
đại”. Tựu chung lại các loại nghệ thuật của ngày hôm nay và được lan tỏa ra
rộng khắp thế giới thì là nghệ thuật đương đại.
c. Khái quát về Video Art
Video Art là loại hình nghệ thuật được cấu thành từ những hình ảnh
chuyển động. Ở đó Video là thành tố quan trọng cấu thành nên nó. Một tác
phẩm được gọi là Video Art trước tiên nó phải có hình ảnh mang tính chất nghệ
thuật, các hình ảnh đó chuyển động, và được ghi lại bằng chất liệu video.
d. Khái quát về Nghệ thuật âm thanh (Sound Art)
Sound Art là một loại hình nghệ thuật đương đại trong đó âm thanh
được sử dụng như là phương tiện để truyền tải ý tưởng hình ảnh. Cũng như
nhiều loại hình nghệ thuật đương đại khác, Sound art mang tính liên ngành,
là sự kết hợp của nhiều đối tượng tham gia, ở đấy có thể chứa đựng các thành
phần âm thanh truyền thống từ âm nhạc, cũng có thể là sự kết hợp của tiếng
ồn, âm thanh điện tử. Nó cũng có thể xuất hiện cùng với nhiều chất liệu khác
của nghệ thuật đương đại như Video Art, Sắp đặt,
e. Khái quát về Nghệ thuật đa phương tiện (Multimedia Art)
Trong tiếng Anh, “Multimedia” có nghĩa là “Sự truyền tin kết hợp các phương
tiện truyền thông như văn bản, đồ họa, âm thanh”. Trên cơ sở đó, Multimedia Art
được hiểu là nghệ thuật sử dụng nhiều hơn một phương tiện truyền thông. Các nghệ
sĩ Multimedia Art sử dụng kết hợp nghệ thuật thị giác với nghệ thuật âm thanh, hình
ảnh chuyển động và các phương tiện truyền thông khác
f. Khái quát về Intermedia Art
Intermedia Art là một khái niệm được nghệ sĩ Dick Higgins thuộc
nhóm Fluxus đưa ra vào giữa những năm sáu mươi để mô tả các hình thức
nghệ thuật thường gây nhầm lẫn do sự sáng tạo liên ngành hoạt động diễn ra
giữa các thể loại đã trở thành phổ biến trong những năm 1960. Thực tế, đôi
13
khi Intermedia và Multimedia được sử dụng thay thế cho nhau với cùng một
ý nghĩa: sáng tác đa phương tiện truyền thông điện tử.
g. Khái quát về Nghệ thuật kỹ thuật số (Digital Art)
Digital Art là chỉ các tác phẩm nghệ thuật sử dụng công nghệ kỹ thuật
số trong sáng tác và trưng bày. Công nghệ kỹ thuật số đã tạo ra bước ngoặt
trong sáng tác và thưởng thức nghệ thuật. Tác động của công nghệ kỹ thuật
số đến nghệ thuật đã tạo ra những hình thức nghệ thuật mới bên cạnh hội họa
và điêu khắc. Digital Art có thể là tác phẩm được tạo ra hoàn toàn từ máy
tính, hoặc kết hợp quét ảnh, sử dụng phần mềm đồ họa
h. Khái quát về Internet Art, hay còn được gọi là Net Art (Nghệ thuật mạng)
Là một hình thức của tác phẩm nghệ thuật kỹ thuật số được phân phối
thông qua Internet. Hình thức nghệ thuật này đã phá vỡ sự thống trị truyền
thống của hệ thống thư viện, bảo tàng, mở ra kinh nghiệm thẩm mỹ mới
thông qua Internet. Nghệ thuật internet phát triển ngày càng phức tạp với
nhiều kỹ thuật của phương tiện công nghệ cao, điều đó đòi hỏi người nghệ sỹ
phải có đủ khả năng và trí tuệ để điều khiển loại phương tiện mới này, từ đó
mở ra triển vọng phát triển vô tận đối với loại hình này
i. Khái quát về nghệ thuật Sắp đặt (Installation Art)
Nghê thuật Sắp đặt là một loại hình nghệ thuật của tác phẩm ba chiều
mà ở đó thường có vị trí riêng biệt và được thiết kế để thay đổi những không
gian trưng bày. Các đặc trưng của nghệ thuật sắp đặt gồm có: Nghệ thuật Sắp
đặt trước hết đưa người xem vào trong lòng tác phẩm; Đặc trưng thiết kế
không gian và những sáng tạo nghệ thuật trở thành một chỉnh thể; Sắp đặt
đòi hỏi một không gian độc lập trên phương diện thị giác và thính giác đều
không chấp nhận sự ảnh hưởng và gây nhiễu; Người xem thâm nhập và
tương tác trở thành một bộ phận không thể tách rời của nghệ thuật Sắp đặt;
Nghệ thuật Sắp đặt là sự sáng tạo không gian; Nghệ thuật Sắp đặt không hạn
chế các loại hình nghệ thuật, nó tổng hợp một cách tự do hội hoạ, điêu khắc,
14
kiến trúc, âm nhạc, lý lịch, tản văn, điện ảnh, truyền hình, âm nhạc, tiếng
động, thơ ca...; Có lúc nghệ thuật Sắp đặt làm đảo lộn cả thói quen tư duy
của người xem bằng các biện pháp khoa trương, cường điệu quái lạ để kích
thích cảm quan người xem; Nghệ thuật Sắp đặt thông thường tồn tại trong
một thời gian ngắn, không phải thứ nghệ thuật sưu tập; Nghệ thuật Sắp đặt là
nghệ thuật biến hoá, nó biến hoá theo môi trường, không gian, thời gian...
j. Khái quát về Điêu khắc kỹ thuật số (Digital Sculpture)
Điêu khắc kỹ thuật số là việc tạo ra các vật thể ba chiều bằng cách sử
dụng công nghệ kỹ thuật số được phát triển từ computer-assisted design viết
tắt là CAD và computer-assisted manufacturing viết tắt là CAM
1.4. Khái quát về Mỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới
Từ những quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước, cho đến nay đất
nước ta đã trở thành một xã hội công nghệ thông tin và CNTT thực sự đã có
ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. CNTT thực sự đã làm thay đổi xã
hội, thay đổi cách thưởng thức, thay đổi cách hưởng thụ văn hóa xã hội của con
người. Trong các loại hình nghệ thuật đều có những ảnh hưởng của CNTT.
Đối với Mỹ thuật Việt Nam, sự xuất hiện của CNTT và các phương
tiện của nó thực sự đã làm xuất hiện nhiều hình thức thể hiện mới. CNTT
cũng biến đổi các phương thức sáng tác, các cách thức giới thiệu tác phẩm,
quảng bá tác phẩm. Đối với người thưởng thức các tác phẩm Mỹ thuật, thì
CNTT cũng đã làm thay đổi cách xem, và cũng giúp người xem tương tác
với tác phẩm nhiều hơn.
1.5 Khái niệm về khoa học, công nghệ và nghệ thuật
1.5.1 Khái niệm về khoa học và công nghệ.
Khái niệm về Khoa học theo cuốn Khoa học công nghệ và các giá trị văn hoá của
Hoàng Đình Phu được hiểu “Khoa học là một hệ thống các kiến thức về các qui luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy dựa trên những phương pháp được xác định để thu nhận kiến thức”.
15
Và “Công nghệ là sự ứng dụng của khoa học để giải quyết các vấn đề thực tiễn trong
hoạt động của con người”.
1.5.2 Khái niệm về nghệ thuật
Nghệ thuật là sự sáng tạo ra những sản phẩm vật thể hoặc phi vật thể chứa đựng những
giá trị lớn về tư tưởng thẩm mỹ, mang tính chất văn hóa làm rung động cảm xúc, tư tưởng tình
cảm cho người thưởng thức. Theo ý nghĩa này thường là dùng trong các loại hình nghệ thuật
khác nhau.
- Nghệ thuật là cái hay, cái đẹp để người ta chiêm nghiệm qua các giác quan từ đó
ngưỡng mộ bởi trình độ, tài năng. Kỹ năng cao vượt lên trên mức thông thường phổ biến,
thường là một tác phẩm nghệ thuật.
- Nghệ thuật là khi một nghề nghiệp nào đó được thực hiện ở mức hoàn hảo với trình độ
điêu luyện, thậm chí siêu việt.
Tiểu kết
Bằng những khái niệm thao tác cơ bản về Mỹ thuật, về sự biến đổi văn
hoá, về CNTT cũng như khái quát qua các loại hình nghệ thuật mới mà ở đó
CNTT là phương tiện được sử dụng khá nhiều trong quá trình sáng tác, cũng như
thưởng thức tác phẩm. Thông qua đó chúng ta có thể nhận thấy được sự phát
triển của khoa học và CNTT đã tác động đến việc biến đổi của Mỹ thuật. Cũng
nhờ vào sự phát triển của xã hội CNTT mà Mỹ thuật đã hình thành các loại hình
nghệ thuật mới như Video Art, Sound Art, Internet Art, Multimedia Art, Digital
Art Cũng qua đây NCS làm rõ các khái niệm và cũng như khái quát về các
loại hình nghệ thuật mới, làm rõ những khái niệm này từ đó làm cơ sở để giải
quết các vấn đề mà nghiên cứu sinh đặt ra trong câu hỏi nghiên cứu của đề tài.
Với việc khái quát qua về Mỹ thuật Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, NCS chỉ ra
được những tác động của chính sách nhà nước đối với việc thay đổi để phù hợp
với thời kỳ mới. Đây là thời kỳ có nhiều sự phát triển của Mỹ thuật Việt Nam với
sự xuất hiện của nhiều loại hình nghệ thuật mới.
16
Chương 2
SỰ KẾT NỐI GIỮA MỸ THUẬT VÀ CNTT
2.1. Mối quan hệ giữa Khoa học, công nghệ và Nghệ thuật
Khoa học, công nghệ và nghệ thuật có một mối quan hệ luôn luôn đồng
hành với nhau. Nhìn vào lịch sử nếu không có khoa học và công nghệ thì con
người có lẽ sẽ không thể có được những công trình nghệ thuật tuyệt tác như
ở Hy Lạp, La mã, Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Độ Hay như chính tại Việt
Nam, nếu không có những công nghệ về đúc đồng thì có lẽ chúng ta sẽ
không có được nền văn minh Đông Sơn với những kiệt tác đồ đồng như
trống đồng, thạp đồng, dao, chân đèn...
Đặc biệt khi xã hội CNTT, những tiến bộ của khoa học và công nghệ đã tạo
nên mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa Khoa học, Công nghệ và Nghệ thuật. CNTT
trở thành phương tiện hữu hiệu thúc đẩy sự sáng tạo của nghệ thuật.
Những sáng tạo của nghệ thuật và những nhu cầu đòi hỏi ngày càng
cao của nghệ sỹ đã tác động nhiều đến các nhà khoa học và công nghệ, các
sản phẩm công nghệ ngày càng được nâng cao bởi các nhà phát minh. Trước
những đòi hỏi để thể hiện các ý tưởng sáng tạo của nghệ sỹ, nhiều phát minh
mới về công nghệ đã ra đời, điển hình như khi Nam June Paik đã cùng với kỹ
sư điện tử Shuya Abe phát minh ra bộ tích hợp Pick/Pick (thiết bị biên soạn
và xử lý hình ảnh truyền hình)
2.2. Sự hình thành nghệ thuật mới trong thời đại CNTT
Sự hình thành các loại hình nghệ thuật mới trên thế giới.
Nghệ thuật có ứng dụng CNTT là các nghệ thuật trong đó các tác phẩm
nghệ thuật được tạo ra bằng các phương tiện truyền thông công nghệ mới,
bao gồm kỹ thuật số, máy tínhnhư Video Art, Digital Art, Multimedia Art,
Sound Art, là một bước khẳng định sự biến đổi của Mỹ thuật trong thời đại CNTT.
Sự xuất hiện của các loại hình nghệ thuật mới tại Việt Nam
17
Từ khi đất nước tiến hành công cuộc Đổi mới tuy thời gian chưa dài
nhưng đối với Mỹ thuật Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ. Nhìn vào
những hoạt động sáng tác ở cả ba miền (Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí
Minh) chúng ta cũng thấy rõ sự phát triển và tác động của CNTT đến Mỹ
thuật Việt Nam. Thông qua những hoạt động triển lãm, nhiều tác giả, tác
phẩm đã xuất hiện cùng với các chất liệu mới mà trước đây chưa có trong mỹ
thuật Việt Nam như video, ảnh, âm thanh, multimedia Có thể kể đến
những triển lãm lớn có sự xuất hiện của các sản phẩm CNTT tại Việt Nam
như: Festival Mỹ thuật Trẻ 2007, 2011; Dự án Triển lãm “Tạo hình cho
nước” 2004, “Cây” 2005; Triển lãm “Quobo” 2003; Triển lãm “Moving city
movement” 2003; Triển lãm “Xanh – Đỏ - Vàng”; Triển lãm “Không gian
nghệ thuật Đức” 2008; Triển lãm “Phòng Cấp Cứu 2009, 2011”.
2.3. Mối quan hệ giữa nghệ sỹ và CNTT
Các nghệ sỹ của thế giới phương Tây luôn là những người đi đầu trong
việc ứng dụng các công nghệ mới nhất vào tác phẩm của mình. Điện ảnh,
nhiếp ảnh, sân khấu, mỹ thuật đã có nhiều thay đổi lớn trong bối cảnh của
sự bùng nổ CNTT. CNTT cũng giúp xóa nhòa khoảng cách địa lý, khoảng
cách không gian tạo nên một thế giới phẳng, chính vì vậy mà việc ứng dụng
CNTT cũng đã trở thành nhu cầu của cả các nghệ sỹ ngoài thế giới phương
Tây. Những nước có phổ cập CNTT cũng dần dần xuất hiện những nghệ sỹ
ứng dụng CNTT để thực hiện tác phẩm.
Tính tương tác là đặc trưng nổi bật nhất của nghệ thuật có ứng dụng
CNTT, trước hết nghệ sỹ tương tác với các phương tiện máy móc thông
minh, rồi tác phẩm lại tương tác với người xem, sự tương tác đó hoặc thể
hiện ở sự vắng mặt gián tiếp và có mặt trực tiếp, hoặc tuỳ theo sự lý giải của
người xem để thực hiện tác phẩm.
Trong các loại hình nghệ thuật mới: Video Art, Digital Art, Multimedia
Art, Internet Art, Sound Art,, là những loại hình chịu nhiều ảnh hưởng CNTT
18
nhất. Qua các tác phẩm của các nghệ sỹ tiêu biểu cho loại hình này là Nam June
Paik, Wolf Vostell, Bill Viola, Tony Oursler, Mathew Barney, Bruce Naunam
Mối quan hệ giữa CNTT và nghệ sỹ không chỉ có việc các nghệ sỹ cần
ứng dụng các công nghệ, mà trong quá trình nghiên cứu khoa học, thực hành
khoa học và công nghệ đã có nhiều người từ kỹ sư trở thành những nghệ sỹ,
điển hình như Micheal Noll. CNTT cũng rất cần có nghệ thuật để phát triển
và hoàn thiện mình, con mắt tạo hình của người nghệ sỹ góp phần tạo nên sự
hấp dẫn cho các sản phẩm CNTT.
Trong lĩnh vực phương tiện công nghệ cao, phương tiện phát triển
nhanh theo sự tiến bộ của khoa học công nghệ mà không tuỳ thuộc vào ý chí
của cá nhân nghệ sỹ. Trong mối quan hệ đó, nghệ sỹ ở vào thế bị động, cho
nên khoa học công nghệ cao đã mở ra thời đại trong đó nghệ sỹ, tác phẩm và
khoa học phương tiện được tái kiểm nghiệm trong thực hành. Đây là một mối
quan hệ kích thích sức sáng tạo của cả nghệ sỹ và nhà khoa học.
Tuy sử dụng công nghệ để sáng tạo nghệ thuật nhưng không vì thế
những sáng tác của họ mất đi tình cảm cá nhân, tình cảm dân tộc. Công nghệ
cũng chỉ như là một chất liệu để sáng tác mà thôi.
Tiểu kết
Xuất phát từ mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ và nghệ thuật,
NCS đã nghiên cứu các khái niệm của khoa học, công nghệ, nghệ thuật để từ
đó làm cơ sở xác định mối quan hệ giữa CNTT và Mỹ thuật, cũng như nhận
biết được giá trị của nó đối với sự phát triển của nghệ thuật.
Đối với Mỹ thuật Việt Nam sau Đổi mới, các phương tiện CNTT đã cung
cấp nhiều cách biểu đạt mới, từ đó dẫn đến các hình thức nghệ thuật mới như:
Video Art, Digital Art, Sound Art Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay,
thì số lượng các cuộc triển lãm các loại hình nghệ thuật như Sắp đặt, Video Art,
Digital Art, có CNTT ngày càng nhiều, diễn ra trên khắp cả 3 miền của đất
nước, tập trung chính ở 3 thành phố Hà Nội, Huế, thành phố Hồ Chí Minh.
19
Qua các tác phẩm nghệ thuật của các nghệ sỹ thế giới, qua các sản
phẩm CNTT có bàn tay nghệ sỹ, NCS chỉ rõ mối quan hệ giữa khoa học,
công nghệ và nghệ thuật.
Mối quan hệ của khoa học, công nghệ và nghệ sỹ chúng ta cũng có thể
thấy rằng, những tác động của công nghệ đến với các nghệ sỹ hoàn toàn
không giống nhau. CNTT gần như là chất liệu, giải pháp và các phương án
cấu thành nên tác phẩm.
Chương 3
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA MỸ THUẬT VIỆT NAM TRƯỚC TÁC
ĐỘNG CỦA CNTT
3.1. Những biến đổi trong cách thức sáng tác, và giới thiệu tác phẩm
Mỹ thuật Việt Nam
CNTT là một hệ thống đặc biệt nó có thể cung cấp các giải pháp kỹ
thuật giúp cho người nghệ sỹ hình thành ý tưởng và sáng tác tác phẩm theo
một cách thức mới đồng thời cũng cung cấp khán giả cho nghệ thuật, nó đã
thay đổi mọi mặt cuộc sống của chúng ta. Đối với các nghệ sỹ Việt Nam thì
kể từ những năm cuối của thập niên 90 thế kỷ XX, với sự bùng nổ của các
sản phẩm CNTT đã làm biến đổi đáng kể các cách thức sáng tác các tác
phẩm mỹ thuật. Kể cả những tác phẩm mỹ thuật truyền thống như, hội hoạ,
đồ hoạ,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_vn_4442_1854436.pdf