MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU 5
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 10
1.1. Các công trình khoa học ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án 10
1.2. Các công trình khoa học ở trong nước liên quan đến đề tài luận án 17
1.3. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu 28
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CHẤT LƯỢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN CỦA CÁC HUYỆN ỦY TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN 33
2.1. Các huyện trên địa bàn Tây Nguyên và xây dựng lực lượng dự bị động viên của các huyện trên địa bàn Tây Nguyên 33
2. 2. Các huyện ủy trên địa bàn Tây Nguyên và lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên của các huyện ủy trên địa bàn Tây Nguyên 52
2. 3. Quan niệm, những yếu tố quy định, biểu hiện và tiêu chí đánh giá chất lượng lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên của các huyện ủy trên địa bàn Tây Nguyên 70
Chương 3 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN CỦA CÁC HUYỆN ỦY TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN 82
3.1. Thực trạng chất lượng lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên của các huyện ủy trên địa bàn Tây Nguyên 82
3.2. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên của các huyện ủy trên địa bàn Tây Nguyên 108
Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN CỦA CÁC HUYỆN ỦY TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 125
4.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên của các huyện ủy trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay 125
4.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên của các huyện ủy trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay 135
KẾT LUẬN 170
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 172
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 173
PHỤ LỤC 192
219 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 421 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nâng cao chất lượng lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên của các huyện ủy trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Năng tỉnh Đắk Lắk từ năm 2015 đến nay cho thấy, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng LLDBĐV của các huyện ủy còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm cần được khắc phục. Trách nhiệm của một số cấp ủy, chính quyền huyện và các đơn vị thường trực của Quân đội trong quán triệt, phổ biến, tuyên truyền nhiệm vụ xây dựng LLDBĐV chưa được quan tâm đúng mức; nội dung, hình thức chưa phong phú, thiếu tính đa dạng, hiệu quả chưa cao; công tác phối kết hợp chưa chặt chẽ ở một số địa phương, đơn vị đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; nhận thức của một số cán bộ, Nhân dân và quân nhân dự bị ở một số nơi chưa thật sự đầy đủ; đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên danh hoặc 100% vốn nước ngoài.
Việc cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng, các chỉ thị, hướng dẫn của trên và nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy cấp trên về công tác QSQP địa phương, về xây dựng LLDBĐV thành những chủ trương, biện pháp lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền huyện còn chung chung, thiếu cụ thể, ít sáng tạo. Do vậy, những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng LLDBĐV của một số huyện ủy chưa thật sát, đúng và phù hợp với thực tiễn địa phương. Trách nhiệm của một số cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành, tổ chức CTXH huyện trong nhiệm vụ xây dựng LLDBĐV theo quy định của pháp luật chưa được quan tâm đúng mức; chưa phát huy được sức mạnh của HTCT địa phương trong xây dựng LLDBĐV, chất lượng một số đơn vị DBĐV còn hạn chế; việc lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương đối với CQQS cùng cấp trong phối hợp với đơn vị nhận nguồn để thực hiện quy trình bổ nhiệm, sắp xếp quân nhân dự bị vào các đơn vị DBĐV theo thẩm quyền một số nơi chưa đúng quy định; quản lý LLDBĐV của các địa phương xây dựng nguồn, giao nguồn và các đơn vị quân đội chưa thường xuyên, liên tục; nắm tình hình biến động và các điều kiện, hoàn cảnh của quân nhân dự bị chưa kịp thời; tổ chức thực hiện công tác QSQP địa phương, xây dựng LLDBĐV là nhiệm vụ “trọng tâm, thường xuyên”, đặt ngang tầm với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, cá biệt có nơi còn coi đó là công việc của CQQS huyện, chưa thấy rõ đó là trách nhiệm của chính cơ quan, đơn vị mình. Việc quán triệt và tổ chức thực hiện có nơi còn biểu hiện coi nhẹ, nặng về biện pháp hành chính. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện xây dựng LLDBĐV chưa thực sự thường xuyên, dẫn đến lúng túng trong lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp giải quyết các tình huống nảy sinh trong thực tiễn. Việc quy tụ sức mạnh tổng hợp trong xây dựng LLDBĐV ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Gia Lai nhiệm kỳ 2020 - 2025 chỉ rõ: “Nhận thức của một số cán bộ và một bộ phận Nhân dân về nhiệm vụ QSQP địa phương, về vị trí, vai trò của LLDBĐV chưa thật sự sâu sắc, do đó chưa đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và tham gia xây dựng LLDBĐV” [165]. Kết quả khảo sát đối với đội ngũ cán bộ cơ quan các huyện cho thấy, có 12,7% ý kiến được hỏi cho rằng cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đúng mức, 5,7% ý kiến được hỏi cho rằng năng lực, trách nhiệm của đội ngũ huyện ủy viên còn mức độ trung bình [Phụ lục 02].
Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân một số huyện trên ĐBTN chưa thể hiện vai trò, còn thiếu chủ động, linh hoạt và sự kiên quyết trong quá trình tổ chức thực hiện. Việc ra nghị quyết, lập kế hoạch, chương trình hoạt động và ban hành các văn bản có tính pháp quy trong xây dựng LLDBĐV chưa thực sự kịp thời. Công tác phối hợp, hiệp đồng với các cơ quan chức năng cấp trên và lãnh đạo, chỉ đạo sự phối kết hợp, hiệp đồng giữa các tổ chức, các lực lượng ở huyện đạt hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Báo cáo của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng chỉ rõ: “Công tác quản lý điều hành xây dựng lực lượng dự bị động viên ở một số địa phương, cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội còn hạn chế; một số chính quyền địa phương chưa kịp thời ban hành văn bản, chế tài để xử lý công dân vi phạm Luật lực lượng dự bị động viên...”[21]. Kết quả khảo sát đánh giá về năng lực quản lý, điều hành của chính quyền huyện trên ĐBTN, có 21% ý kiến được hỏi cho rằng ở mức độ trung bình và 1% ý kiến được hỏi cho rằng ở mức yếu [Phụ lục 02].
Một số cơ quan, ban, ngành, tổ chức CTXH ở địa phương chưa thực sự quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng về nhiệm vụ xây dựng và BVTQ trong tình hình mới, đặc biệt là các chủ trương, đường lối về xây dựng nền QPTD; xây dựng thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân; việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng; quốc phòng với kinh tế; xây dựng LLVT địa phương với xây dựng HTCT ở địa phương vững mạnh... Mặt khác, nhận thức về vị trí, vai trò của công tác QSQP địa phương, xây dựng LLDBĐV ở huyện trong tình hình mới chưa đầy đủ; kiến thức, kinh nghiệm và năng lực tổ chức thực tiễn còn có những hạn chế nhất định. Năng lực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương và chỉ đạo tiến hành xây dựng LLDBĐV ở một số nơi còn thấp. Việc tổ chức các hoạt động, các phong trào ở các địa phương chưa thực sự đi vào chiều sâu, chưa thường xuyên, liên tục, còn mang tính thời vụ. Kết quả điều tra, khảo sát ở một số huyện trên ĐBTN về nhận thức, trách nhiệm của các cơ quan, ban, ngành, tổ chức CTXH đối với lãnh đạo xây dựng LLDBĐV ở huyện, có 12% ý kiến được hỏi cho rằng còn ở mức độ trung bình và 0,7% còn mức độ yếu [Phụ lục 02].
Cơ quan quân sự ở một số huyện tính chủ động, sáng tạo còn hạn chế; chưa phát huy hết trách nhiệm vai trò làm tham mưu cho Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện cấp mình đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng LLDBĐV vững chắc. Trong xây dựng LLDBĐV còn nhiều mặt yếu, thiếu tích cực, chủ động, nhất là công tác tạo nguồn, đăng ký, quản lý, tổ chức huấn luyện LLDBĐV có lúc, có nơi còn thiếu chặt chẽ, quản lý số lượng, chất lượng LLDBĐV còn chung chung. Không ít địa phương chỉ mới quản lý trên sổ sách, danh sách sắp xếp, vì nhiều người đi làm ăn ở các địa phương khác trong cả nước. Một số địa phương việc tạo nguồn LLDBĐV còn lỏng lẻo thiếu chặt chẽ, có nơi mang tính đối phó với trên, chỉ lập danh sách báo cáo số lượng, chất lượng LLDBĐV và hoạt động trên sổ sách, giấy tờ. Nguồn quân nhân dự bị tuy nhiều nhưng phân bổ không đều, tập trung nhiều ở thành thị, việc tổ chức các đơn vị DBĐV gặp nhiều khó khăn do chất lượng chuyên nghiệp quân sự của quân nhân dự bị đạt thấp. Sĩ quan dự bị thiếu so với yêu cầu do đầu vào hạn chế, số giải ngạch nhiều hơn số đăng ký vào ngạch; đào tạo sĩ quan dự bị chưa đáp ứng được nhu cầu do nguồn kinh phí hạn hẹp; chất lượng sĩ quan dự bị thấp, chủ yếu là đào tạo từ hạ sĩ quan chuẩn bị xuất ngũ, thời gian đào tạo ít, việc đào tạo, bổ túc lại theo chức vụ chưa làm thường xuyên nên năng lực chỉ huy, huấn luyện, quản lý đơn vị DBĐV còn hạn chế. Thực hiện chế độ nền nếp đăng ký, quản lý, kiểm tra sức khỏe định kỳ 2 năm/lần đối với sĩ quan dự bị đã sắp xếp vào đơn vị DBĐV và tổ chức sinh hoạt toàn thể sĩ quan dự bị ở một số địa phương chưa được thực hiện; việc triển khai đăng ký, quản lý phương tiện kỹ thuật chưa thực sự hiệu quả, các chủ phương tiện chưa tự giác chấp hành việc đăng ký, quản lý của CQQS địa phương, việc xử lý vi phạm chưa nghiêm. Trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác đảng, công tác chính trị theo quy định trong xây dựng và huy động LLDBĐV của đảng ủy quân sự cùng cấp còn hạn chế. Cán bộ khung B còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng; năng lực chỉ huy, quản lý huấn luyện còn yếu. Kết quả khảo sát đối với đội ngũ cán bộ cơ quan huyện về năng lực tham mưu, tổ chức thực hiện của CQQS huyện trên ĐBTN trong xây dựng LLDBĐV ở địa phương, có 13% ý kiến được hỏi cho rằng còn ở mức độ trung bình và 0,3% ý kiến được hỏi cho rằng ở mức độ yếu [Phụ lục 02].
Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cấp ủy viên, cán bộ chủ trì các cấp chưa nhận thức đầy đủ và phát huy vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức xây dựng LLDBĐV, chưa quan tâm đến xây dựng, tổ chức hoạt động của LLDBĐV; có biểu hiện khoán trắng công việc cho cán bộ phụ trách công tác QSQP địa phương, chưa tạo điều kiện cả về vật chất, tinh thần cho xây dựng LLDBĐV. Còn không ít địa phương không thực hiện đúng qui định, hoặc có làm chỉ là hình thức để báo cáo lên cấp trên. Đánh giá những hạn chế, khuyết điểm trong lĩnh vực này, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân khu 7 nhiệm kỳ 2020 - 2025 chỉ rõ:
Nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng an ninh; về đối tác, đối tượng và âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch ở một số cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và một bộ phận Nhân dân chưa đầy đủ sâu sắc, cá biệt còn có biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác..., một số cán bộ chưa đề cao ý thức, trách nhiệm trong thực hiện chức trách, làm việc cầm chừng chưa thực sự gương mẫu trong lời nói, việc làm [89].
Theo kết quả điều tra khảo sát thực tế ở một số cơ quan huyện cho thấy vẫn còn 5,7% ý kiến được hỏi cho rằng; phẩm chất, năng lực, trách nhiệm của đội ngũ huyện ủy viên đối với nhiệm vụ xây dựng LLDBĐV ở các huyện còn ở mức độ trung bình, 2,3% ý kiến được hỏi cho rằng còn ở mức yếu [Phụ lục 02].
Hai là, một số nội dung, phương thức lãnh đạo xây dựng LLDBĐV của các huyện ủy trên ĐBTN chưa thật phù hợp với thực tiễn một số địa phương, hiệu quả chưa cao
Một số huyện ủy chưa chủ động trong bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, năng lực cho huyện ủy viên, cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới, cán bộ chủ trì các cơ quan, ban, ngành... kiến thức, năng lực về xây dựng Đảng; kiến thức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện xây dựng LLDBĐV còn hạn chế. Việc tổ chức, nghiên cứu quán triệt nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng cấp trên về xây dựng LLDBĐV còn chậm, nội dung quán triệt còn dàn trải, chưa vận dụng sáng tạo các hình thức, biện pháp; chưa phát huy tốt vai trò của cấp ủy, cán bộ chủ chốt trong tự bồi dưỡng nâng cao năng lực. Một số huyện ủy viên, cán bộ chủ trì chưa nắm chắc chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của trên; khả năng dự báo, phân tích, đánh giá tình hình xây dựng LLDBĐV còn hạn chế; vận dụng chưa sát với đặc điểm, mục tiêu, yêu cầu xây dựng LLDBĐV của từng địa phương dẫn tới khả năng tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng lãnh đạo xây dựng LLDBĐV của các cơ quan, ban, ngành còn ở mức độ nhất định. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng nhiệm kỳ 2020 - 2025 cho rằng:
Công tác tuyên truyền giáo dục về nhiệm vụ xây dựng lực lượng dự bị động viên cho các tổ chức, lực lượng có thời điểm cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đúng mức, chưa kết hợp lồng ghép với các chương trình hành động của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội ở địa phương. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Luật lực lượng dự bị động viên chưa được tiến hành sâu rộng trong Nhân dân và lực lượng dự bị động viên, việc hiểu biết về nội dung Luật lực lượng dự bị động viên của một bộ phận không nhỏ quần chúng Nhân dân chưa đầy đủ [115].
Xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo còn dàn trải, thiếu trọng tâm, chưa sát thực tế của địa phương; xác định đột phá khắc phục dứt khâu yếu, điểm hạn chế chưa thật phù hợp. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắk Nông nhiệm kỳ 2020 - 2025 chỉ ra: “Năng lực quán triệt, cụ thể hoá nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, ra nghị quyết lãnh đạo và tổ chức thực hiện ở một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa theo kịp sự phát triển của tình hình” [163], Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Kom Tum chỉ rõ: “Năng lực cụ thể hóa và vận dụng, quán triệt chủ trương, quan điểm của Đảng và Nghị quyết của cấp ủy cấp trên ở một số cấp ủy, chính quyền địa phương còn hạn chế, chưa chủ động, chậm đổi mới, không theo kịp sự phát triển của thực tiễn” [167].
Công tác bồi dưỡng năng lực triển khai thực hiện nghị quyết cho đội ngũ bí thư cấp ủy ở một số huyện ủy chưa được chú trọng đúng mức. Hoạt động lãnh đạo của một số huyện ủy chưa bám sát, đánh giá đúng thực trạng khâu yếu, mặt yếu của từng cấp ủy, tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cấp uỷ viên, bí thư, phó bí thư để có nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng phù hợp; nội dung bồi dưỡng chưa tập trung khắc phục những khâu yếu, mặt yếu của hoạt động lãnh đạo, đặc biệt là kiến thức, kinh nghiệm, nội dung, phương pháp triển khai thực hiện nghị quyết của đội ngũ bí thư cấp ủy. Vì vậy, việc phổ biến, quán triệt nghị quyết của một số bí thư cấp ủy còn biểu hiện máy móc, dập khuôn, hình thức, thiếu chặt chẽ; nội dung, phương pháp, hình thức phổ biến quán triệt nghị quyết thiếu linh hoạt, sáng tạo dẫn đến việc nắm và vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng LLDBĐV của cấp ủy, tổ chức đảng không đầy đủ, chưa sát với đặc điểm của địa phương, đồng thời chưa phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng ở địa phương trong tổ chức thực hiện. Nghị quyết Đại hội Đại biểu tỉnh Gia Lai nhiệm kỳ 2020 - 2025 chỉ ra: “Năng lực lãnh đạo của một số ít cấp uỷ, chi bộ, trách nhiệm của người đứng đầu trong quán triệt, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghị quyết còn hạn chế; tính chiến đấu và vai trò tiền phong gương mẫu của số ít cấp ủy viên, đảng viên chưa được đề cao” [166].
Các huyện ủy đã xây dựng quy chế lãnh đạo, nhưng quá trình thực hiện chưa bám sát quy chế, giải quyết các mối quan hệ giữa cấp ủy, Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, các cơ quan chức năng có lúc, có nơi chưa thực sự phù hợp. Việc phân định vai trò, chức năng của các thành phần trong cơ chế là chưa rõ ràng, có những mặt, những nội dung xây dựng LLDBĐV bị chồng chéo, “lấn sân”, song có lúc, có nơi lại bị xem nhẹ hoặc “khoán trắng” cho CQQS, cán bộ quân sự. Cấp ủy các cấp với vai trò lãnh đạo tập trung, thống nhất xây dựng LLDBĐV, song trong các khâu, các bước của quy trình lãnh đạo còn bộc lộ những hạn chế nhất định, từ khâu ra nghị quyết, tổ chức thực hiện nghị quyết, kiểm tra, giám sát việc thực hiện ở tất cả các cơ quan, ban, ngành đến việc quy tụ sức mạnh tổng hợp của địa phương để xây dựng LLDBĐV. Bên cạnh đó, việc quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố kiện toàn các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, các cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ còn những hạn chế nhất định. Thậm chí một số tổ chức đảng, trong đó có huyện ủy năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu còn yếu, một bộ phận cán bộ ở các ban, ngành, tổ chức CTXH địa phương còn thiếu kiến thức, kinh nghiệm và năng lực tổ chức thực tiễn công tác QSQP địa phương, xây dựng LLDBĐV, một số cán bộ ở CQQS lại hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm lãnh đạo quản lý kinh tế Do vậy, chưa phát huy hết vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng LLDBĐV. Mặt khác, phong cách, phương pháp, tác phong công tác của một số cấp ủy, chính quyền và người đứng đầu còn thiếu sâu sát cơ sở, chưa thực sự khoa học. Công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, chưa được tiến hành thường xuyên. Công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác chính sách chưa được kết hợp một cách chặt chẽ, khoa học và hợp lý, chưa phát huy hết tiềm năng, thế mạnh của địa phương trong thực hiện công tác QSQP địa phương.
Ba là, kết quả xây dựng LLDBĐV của một số huyện trên ĐBTN có mặt còn hạn chế, bất cập
Hiện nay do tác động của điều kiện kinh tế - xã hội, một bộ phận quân nhân dự bị phải thường đi làm ăn xa địa phương, vì vậy, công tác quản lý lực lượng này gặp không ít khó khăn. Mặt khác, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế - xã hội đã tạo ra sự biến động mạnh và liên tục về lực lượng lao động, nhất là lực lượng lao động trẻ, lực lượng lao động có tay nghề cao đã gây nhiều khó khăn cho công tác kiện toàn tổ chức, biên chế LLDBĐV theo quy định, nhất là việc đảm bảo quản lý quân số, huy động quân số theo các nhiệm vụ huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng chiến đấu, kiểm tra sẵn sàng động viên chưa thật sự cao.
Một số địa phương, cơ quan, tổ chức chưa chú trọng đầy đủ tới việc xây dựng LLDBĐV có đủ tiêu chuẩn về lai lịch chính trị, độ tin cậy, uy tín xã hội trong cộng đồng. Chưa thực sự coi trọng chất lượng chính trị để làm nền tảng, cơ sở vững chắc cho việc xây dựng LLDBĐV vững mạnh, đủ sức nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tình hình mới. Tỷ lệ đảng viên trong đội ngũ sĩ quan dự bị thấp, bất cập nhất là hàng năm có chỉ tiêu phấn đấu kết nạp từ 1 đến 3 quân nhân dự bị vào Đảng, song khó có thể thực hiện do chi bộ quân sự và trong tổ chức LLDBĐV không có các tổ chức quần chúng như công đoàn, đoàn thanh niên để bồi dưỡng, giới thiệu kết nạp quần chúng vào Đảng. Vì vậy, việc xét kết nạp đảng cho quân nhân dự bị có nhiều khó khăn, phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác như việc chi bộ phát hiện, bồi dưỡng, các tổ chức quần chúng giới thiệu, bảo đảm kết nạp. Thực chất đây là những bất cập, chồng chéo, không đồng bộ và thiếu tính khả thi đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chính trị của LLDBĐV.
Trách nhiệm đăng ký, quản lý quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật dự bị ở một số cơ quan, ban, ngành có mặt còn hạn chế, mới quản lý trên sổ sách, danh sách sắp xếp; việc sắp xếp quân nhân dự bị vào đơn vị DBĐV ở một số địa phương mới quan tâm đến gần, gọn địa bàn để tiện quản lý, nhưng chưa chú trọng mở rộng địa bàn để nâng cao chất lượng chuyên nghiệp quân sự cho đơn vị DBĐV, nhất là các đơn vị quân chủng, binh chủng và chuyên môn kỹ thuật; cơ cấu LLDBĐV còn có nhiều bất cập.
Chất lượng xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị chưa toàn diện; cấp ủy, chỉ huy một số đơn vị quán triệt và nhận thức về vị trí, ý nghĩa tầm quan trọng của chỉ thị 48/CT-BQP ngày 18/10/2002 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về tăng cường củng cố tổ chức, xây dựng khung thường trực vững mạnh toàn diện, chưa đầy đủ, chưa có nhiều giải pháp thiết thực trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện; năng lực tiến hành công tác đảng, công tác chính trị của một số cán bộ còn hạn chế; việc kiện toàn các tổ chức chưa được quan tâm đúng mức; năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, huấn luyện của đội ngũ cán bộ khung thường trực còn nhiều hạn chế; chất lượng công tác dân vận và vận động quần chúng hiệu quả chưa cao. Tổ chức biên chế, vũ khí trang bị đơn vị khung thường trực còn thiếu so với yêu cầu nhiệm vụ. Duy trì chế độ sẵn sàng chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu của một số đơn vị khung thường trực còn hạn chế; việc kiện toàn, bổ sung hệ thống văn kiện sẵn sàng chiến đấu chưa kịp thời; kế hoạch huy động, tiếp nhận LLDBĐV mới dừng ở xây dựng văn kiện, chưa hiệp đồng cụ thể giữa địa phương và đơn vị. Thực hiện nhiệm vụ huấn luyện ở một số địa phương, đơn vị chưa được quan tâm đúng mức; duy trì, quản lý điều hành huấn luyện DBĐV chưa chặt chẽ; công tác tập huấn, bồi dưỡng cán bộ chưa được coi trọng, chất lượng huấn luyện chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; xây dựng, duy trì nền nếp chính quy, quản lý kỷ luật, giáo dục pháp luật ở số ít đơn vị khung thường trực hiệu quả chưa cao; chấp hành điều lệnh chuyển biến chưa vững chắc.
Tổ chức hiệp đồng huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng chiến đấu giữa đơn vị với địa phương ở một số nơi chưa chặt chẽ (về quân số, chất lượng, chuyên nghiệp quân sự, độ tuổi, thời gian...) dẫn đến quân số, chất lượng đơn vị DBĐV tập trung huấn luyện chưa cao; quân số biên chế của đơn vị DBĐV tham gia huấn luyện hàng năm thay đổi nhiều (từ 15 đến 25%). Tổ chức thực hiện nhiệm vụ huấn luyện ở một số đơn vị, địa phương chưa được quan tâm đúng mức; duy trì, quản lý, điều hành và thực hiện chế độ huấn luyện DBĐV chưa chặt chẽ; công tác tập huấn, bồi dưỡng cán bộ chưa được coi trọng, trình độ huấn luyện của cán bộ khung A còn hạn chế, cán bộ khung B chưa đảm đương được nhiệm vụ huấn luyện theo phân cấp. Kinh phí bảo đảm cho huấn luyện hạn hẹp, do đó việc quay vòng huấn luyện cho quân nhân dự bị chậm, phải từ 9 đến 10 năm quân nhân dự bị mới được tham gia huấn luyện một lần, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng xây dựng và huy động LLDBĐV.
Lực lượng DBĐV ở một số huyện có mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương. Thực hiện Luật LLDBĐV, các huyện ủy trên ĐBTN đã có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo nâng cao chất lượng về mọi mặt cho LLDBĐV, bảo đảm cho lực lượng này luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ, song thực trạng hiện nay, khả năng đáp ứng của LLDBĐV trước yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của địa phương còn nhiều mặt hạn chế. Một số huyện, việc lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức, lực lượng có liên quan, cũng như việc huy động quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật dự bị diễn tập, kiểm tra trình độ sẵn sàng chiến đấu gặp nhiều khó khăn. Qua nghiên cứu, trao đổi với một số đồng chí chỉ huy trưởng CQQS huyện đều có nhận định, nếu báo động kiểm tra theo các phương án chiến đấu thì chỉ bảo đảm từ 65 - 85% quân số, và phương tiện để thông tin báo động kiểm tra là điện thoại (chủ yếu là điện thoại di động). Vì vậy, không thể bảo đảm đầy đủ quân số cũng như bảo đảm yếu tố bí mật quân sự trong việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ. Hơn nữa, LLDBĐV là lực lượng không thoát ly sản xuất, công tác nên thường phải đi làm ăn xa, đi định cư theo mùa vụ nên có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng bảo đảm quân số và điều động quân số theo yêu cầu, mệnh lệnh. Đánh giá hạn chế về kết quả hoạt động của LLDBĐV. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Nông, nhiệm kỳ 2020 - 2025, cho rằng: “Sự phối hợp hoạt động của lực lượng dự bị động viên và các lực lượng khác trong hoạt động bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội có lúc, có thời điểm chưa thật chặt chẽ nên kết quả còn hạn chế”[164].
3.2. Nguyên nhân và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng lãnh đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên của các huyện ủy trên địa bàn Tây Nguyên
3.2.1. Nguyên nhân ưu điểm
Một là, những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước trên các lĩnh vực và sự phát triển toàn diện về mọi mặt của các địa phương trên ĐBTN trong thời gian qua
Công cuộc đổi mới đất nước của Nhân dân ta đã thu được những thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị ổn định, kinh tế - xã hội phát triển, QPAN được tăng cường, sức mạnh tổng hợp và vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao. Đảng ta khẳng định:
Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày hôm nay. [84, tr.103-104].
Cùng với những thành tựu to lớn của đất nước, kinh tế - xã hội của các địa phương trên ĐBTN đã không ngừng phát triển và thu được những kết quả quan trọng. Kinh tế phát triển với nhịp độ khá cao và toàn diện. Văn hoá - xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện rõ rệt. Công tác QPAN địa phương thường xuyên được củng cố và tăng cường; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững... Những thành tựu quan trọng đó, một mặt tạo điều kiện để các huyện xây dựng và nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của LLVT địa phương, xây dựng thế trận QPTD, thế trận an ninh nhân dân; xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Mặt khác, là cơ sở vững chắc cho các huyện ủy trên ĐBTN lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát huy nhân tố chính trị tinh thần của các tổ chức, các lực lượng và các tầng lớp Nhân dân địa phương trong xây dựng và BVTQ cũng như trong thực hiện công tác QSQP địa phương, xây dựng LLDBĐV. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng giúp các huyện ủy trên ĐBTN nâng cao hiệu lực, chất lượng lãnh đạo công tác QSQP địa phương, xây dựng LLDBĐV những năm vừa qua.
Hai là, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Quân khu 7, các tỉnh ủy, chính quyền tỉnh mà thường xuyên, trực tiếp là đảng ủy, CQQS tỉnh
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng và BVTQ, Đảng ta đã xác định đường lối xây dựng nền QPTD, xây dựng LLVT nhân dân. Nhà nước ta đã ban hành Luật quốc phòng; Luật Nghĩa vụ quân sự; Luật LLDBĐV và nhiều văn bản pháp quy tạo điều kiện cho mọi công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ BVTQ. Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng có nghị quyết và định hướng chỉ đạo xây dựng LLVT địa phương, xây dựng LLDBĐV. Trên cơ sở quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về nhiệm vụ BVTQ, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Đảng uỷ, Bộ Tư lệnh Quân khu 7, các cấp ủy, chính quyền các địa phương trên địa bàn đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, kế hoạch, hướng dẫn để lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác QSQP địa phương, xây dựng LLVT địa phương, tiêu biểu như: Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân khu 5 nhiệm kỳ 2020 - 2025, Đại hội đại biểu đảng bộ cấp tỉnh, huyện nhiệm kỳ 2020 - 2025; các chỉ thị của Ban Thường vụ Đảng ủy Quân khu, ban thường vụ cấp ủy tỉnh, huyện; các quyết định, kế hoạch của Tư lệnh Quân khu, của chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện... Các nghị quyết đã xác định rõ chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo và tổ