MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN.6
1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về nâng cao y đức người bác sĩ quân y theo tư
tưởng y đức Hồ Chí Minh.6
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng y đức người bác sĩ nói chung, bác sĩ
quân y Việt Nam nói riêng theo tư tưởng y đức Hồ Chí Minh .18
1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp nâng cao y đức người bác sĩ nói chung, bác
sĩ quân y Việt Nam nói riêng theo tư tưởng y đức Hồ Chí Minh . 22
1.4. Khái quát giá trị các công trình đã tổng quan có liên quan đến đề tài và những
vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết.27
Chương 2: NÂNG CAO Y ĐỨC NGƯỜI BÁC SĨ QUÂN Y VIỆT NAM THEO TƯ
TƯỞNG Y ĐỨC HỒ CHÍ MINH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.30
2.1. Quan niệm về y đức và tư tưởng y đức Hồ Chí Minh.30
2.2. Đặc điểm bác sĩ quân y Việt Nam và thực chất nâng cao y đức người bác sĩ
quân y Việt Nam theo tư tưởng y đức Hồ Chí Minh .48
2.3. Những nhân tố cơ bản tác động tới nâng cao y đức người bác sĩ quân y Việt
Nam hiện nay theo tư tưởng y đức Hồ Chí Minh .62
Chương 3: Y ĐỨC NGƯỜI BÁC SĨ QUÂN Y VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ
TƯỞNG Y ĐỨC HỒ CHÍ MINH - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN.77
3.1. Thực trạng y đức người bác sĩ quân y Việt Nam hiện nay theo tư tưởng y đức Hồ
Chí Minh .77
3.2. Nguyên nhân của thực trạng y đức người bác sĩ quân y Việt Nam hiện nay theo
tư tưởng y đức Hồ Chí Minh .96
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO Y ĐỨC NGƯỜI BÁC SĨ
QUÂN Y VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG Y ĐỨC HỒ CHÍ MINH.119
4.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy, các cơ quan chức năng
và các lực lượng tham gia nâng cao y đức người bác sĩ quân y theo tư tưởng y
đức Hồ Chí Minh .119
4.2. Cụ thể hóa nội dung, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương thức nâng cao y đức
cho bác sĩ quân y theo tư tưởng y đức Hồ Chí Minh.126
4.3. Xây dựng môi trường đơn vị trong sạch, lành mạnh, đi đôi với chống suy thoái
về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống.134
4.4. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong tự giáo dục, tự hoàn thiện y
đức theo tư tưởng y đức Hồ Chí Minh của bác sĩ quân y.149
KẾT LUẬN.158
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN. .160
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.161
PHỤ LỤC.174
208 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nâng cao y đức người bác sĩ quân y Việt Nam hiện nay theo tư tưởng y đức Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động đóng góp quỹ “Đền ơn đáp nghĩa” với số tiền 525,709
tỷ đồng; xây tặng 4.334 căn nhà tình nghĩa với số tiền 306,08 tỷ đồng; tặng 3.558 sổ
tiết kiệm với số tiền 10,237 tỷ đồng; phụng dưỡng 2.867 Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
tặng phương tiện, trang thiết bị y tế cho các trung tâm điều dưỡng người có công với
89
cách mạng số tiền 69,330 tỷ đồng; đỡ đầu Làng hữu nghị Việt Nam với số tiến 22,906
tỷ đồng; hỗ trợ “Hội nạn nhân chất độc da cam” số tiền 10,632 tỷ đồng.” [140, tr.12].
Đối với bác sĩ quân y công tác tại vùng sâu, vùng xa, nhất là vùng có đồng
bào dân tộc thiểu số, nhiều bác sĩ quân y đã chủ động học tiếng dân tộc để có thể
trao đổi thông tin với người bệnh trong quá trình khám, chữa bệnh. Tuyên truyền
các chính sách của Đảng và Nhà nước một cách hiệu quả, vận động nhân dân không
nghe theo kẻ xấu xúi giục, cảnh giác với những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch lợi dụng những vấn đề về “dân tộc”, “dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”
nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một số bác sĩ quân y còn tham gia tiến
hành đào tạo y tá thôn, bản, vận động nhân dân từ bỏ những hủ tục lạc hậu, ảnh
hưởng tới sức khỏe. Theo Cục Quân y:
Trong 10 năm trở lại đây, ngành Quân y đã tham gia củng cố, nâng cao
năng lực hoạt động cho 1.098 trạm y tế xã (có 697 xã thuộc vùng sâu,
vùng xa, vùng cao, biên giới, hải đảo); đào tạo hơn 8 nghìn nhân viên y
tế thôn, bản, trên 20 nghìn y tá, dược tá, dược sĩ và gần 03 nghìn bác sĩ
cho ngành Y tế. Ngành đề xuất xây dựng và chỉ đạo đưa vào hoạt động
03 trung tâm y tế quân - dân y huyện đảo, hơn 50 bệnh viện, bệnh xá,
phòng khám đa khoa, phòng khám khu vực và gần 130 trạm y tế quân -
dân y. Hằng năm, lực lượng quân y các cấp tổ chức hàng nghìn lượt tổ,
đội công tác đi đến những nơi vùng sâu, vùng xa, địa bàn đặc biệt khó
khăn, tổ chức khám, chữa bệnh, cấp phát thuốc miễn phí cho hàng triệu
lượt người dân, kết hợp tuyên truyền, giáo dục sức khỏe, vệ sinh môi
trường và thực hiện công tác dân vận [14].
Khi có thiên tai, dịch bệnh, các bác sĩ quân y lại cùng bộ đội các đơn vị tham
gia phòng chống thiên tai, thực hiện cứu trợ, cứu nạn, xử lý vệ sinh môi trường giúp
đồng bào sớm ổn định cuộc sống. Trong các đợt phòng, chống dịch COVID-19, lực
lượng quân y trong đó có các bác sĩ quân y cùng với cán bộ, chiến sĩ tại đơn vị trực
tiếp làm nhiệm vụ chăm sóc người dân vùng dịch; phối hợp nghiên cứu và thử
nghiệm vắc xin Nanocovax phòng COVID-19; một lực lượng bác sĩ quân y đã cùng
với các lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra, chốt chặn đường mòn, lối mở khu vực biên
90
giới để kiểm soát tình hình dịch bệnh. Đặc biệt, trong đợt bùng phát dịch COVID-
19 lần thứ tư với biến thể mới Delta của virut Sars-cov-2, với tinh thần quân đội nói
chung, lực lượng quân y nói riêng luôn đi đầu trong phòng chống dịch, bảo vệ sức
khỏe, tính mạng và cuộc sống của nhân dân, ngành Quân y đã hình thành các tổ quân
y lưu động cùng ăn, cùng ở với nhân dân để hỗ trợ địa phương trong việc lấy mẫu xét
nghiệm, tiêm vắc-xin; quản lý, điều trị, chăm sóc sức khỏe ban đầu của các F0 cách
ly điều trị tại gia đình cũng như các bệnh lý thông thường khác. Kết quả, các tổ quân
y lưu động đã phối hợp chặt chẽ với y tế địa phương điều trị khỏi gần 325.000 ca, cấp
thuốc điều trị gần 486.000 người, cấp cứu gần 42.000 ca Các bệnh viện dã chiến
truyền nhiễm của quân đội, gồm: 5A, 5B, 5C, 5D, 5E, 5G, 6, 6B, 4, 7A đã phối
hợp với ngành y tế địa phương kịp thời thu dung, điều trị bệnh nhân theo đúng phạm
vi quy định [143, tr.1, 3]. Những đóng góp của lực lượng quân y đã góp phần thắng
lợi mục tiêu vừa phát triển kinh tế-xã hội, vừa ngăn chặn, đẩy lùi đại dịch COVID-19
của Đảng ta.
Kết quả hoạt động xã hội của bác sĩ quân y, nhất là những bác sĩ quân y vùng
sâu, xa, biên giới, hải đảo không chỉ góp phần tích cực vào công tác chăm sóc, bảo
vệ sức khỏe cho người dân mà còn củng cố niềm tin của nhân dân, đặc biệt là đồng
bào các dân tộc thiểu số đối với Đảng, Nhà nước, đảm bảo “thế trận lòng dân” vững
chắc, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đại đoàn kết quân dân.
Không chỉ tích cực tham gia hoạt động xã hội trong nước, các bác sĩ quân y
hiện nay còn tích cực tham gia các hoạt động khám, chữa bệnh mang tính quốc tế.
Nhiều bác sĩ quân y đã hợp tác với nền y tế các nước như Lào, Campuchia để tiến
hành cấp cứu, khám chữa bệnh cho nhân dân và quân đội bạn; thực hiện vệ sinh
phòng dịch, tích cực tham gia đào tạo lực lượng y tế và quân y cho nước bạn;
chuyển giao các kỹ thuật tiên tiên tiến như ghép thận cho bệnh viện Trung ương
Quân đội 103 Lào; kết hợp với các bệnh viện quân y cùng nhiều bệnh viện trên thế
giới tham gia khám, chữa bệnh cho người dân.
Nhiều bác sĩ quân y còn tích cực tham gia trao đổi với quân y nhiều nước trên
thế giới, quân y châu Á-Thái Bình Dương, quân y các nước ASEAN; trao đổi kinh
nghiệm quốc tế về y học biển với quân y Nhật Bản, Singapore, Hoa Kỳ, Nga, Úc.
91
Nhiều bác sĩ quân y đã tình nguyên tham gia bệnh viện dã chiến cấp 2.1, 2.2, thực
hiện nhiệm vụ giữ gìn hòa bình của Liên Hợp Quốc tại Cộng hòa Nam-Xu đăng.
Kết quả khảo sát của đề tài cũng thống nhất với những nhận định trên, đó là
76% bác sĩ quân y và 75,5% lãnh đạo chỉ huy đã đánh giá sự tích cực, chủ động
tham gia các hoạt động dân vận, kết hợp quân-dân y, hợp tác quốc tế và các hoạt
động xã hội khác của đơn vị và xã hội của bác sĩ quân y ở mức độ tốt. [Phụ lục 2].
Kết quả này đã phần nào đánh giá được sự năng động, tích cực trong các hoạt động
xã hội của bác sĩ quân y cũng như những kết quả tích cực của các hoạt động đó.
Tham gia các hoạt động xã hội là một yêu cầu tất yếu trong hoạt động nghề nghiệp
của bác sĩ quân y. Nó thể hiện bản chất anh “Bộ đội Cụ Hồ”, bản chất của chế độ
cũng như là phẩm chất tất yếu của người thầy thuốc cách mạng.
Về hạn chế
Hiện nay vẫn còn số ít bác sĩ quân y có lối sống cá nhân chủ nghĩa, ngại khó,
ngại khổ nên còn chưa thực sự nhiệt tình, trách nhiệm trong các hoạt động xã hội,
nhất là hoạt động tình nguyện khám chữa bệnh cho nhân dân vùng sâu, vùng xa,
dân tộc thiểu số; hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao và các công tác xã hội khác.
Khi tham gia hoạt động xã hội, nhất là công tác dân vận, một số ít bác sĩ quân
chỉ dừng ở việc hô hào khẩu hiệu, sử dụng từ ngữ chuyên môn sâu, thiếu thuyết phục;
chưa tích cực, sáng tạo trong việc tìm tòi những cách thức tiến hành công tác dân vận
sao cho phù hợp với đặc điểm tâm lý của nhân dân địa phương. Một số bác sĩ quân y
làm công tác xã hội chưa tích cực bám, nắm và hiểu được ngôn ngữ, văn hóa, tâm tư,
nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số để có thể “nghe dân nói”, “nói dân hiểu”.
Bởi vậy, việc truyền tải những chính sách nhân văn, nhân đạo của Đảng và Nhà nước,
hoạt động vận động bà con dân tộc thiểu số xây dựng nếp sống vệ sinh khoa học, bài
trừ mê tín, hủ tục lạc hậu, tổ chức cai nghiện ma túy tại các xã biên giới, vùng dân tộc
ít người, tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS, phòng chống dịch bệnh, thực hiện
dân số - kế hoạch gia đình... có lúc, có nơi chưa thực sự hiệu quả. Cá biệt có quan
điểm cho rằng tiến hành công tác dân vận là của cán bộ chính trị, cán bộ chuyên trách
về công tác dân vận, không phải là trách nhiệm của bác sĩ quân y nên họ ít quan tâm,
thậm chí còn xem nhẹ hoạt động này.
92
3.1.5. Về thái độ của bác sĩ quân y trong mối quan hệ với chính mình
Về ưu điểm
Với tư cách là những quân nhân cách mạng, người bác sĩ quân y mang trong
mình những phẩm chất tốt đẹp của anh “bộ đội Cụ Hồ”- một phần thưởng cao quý
được nhân dân dành tặng cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội nói chung, người bác sĩ
quân y nói riêng. Danh hiệu và phẩm chất đặc biệt đó được hun đúc, kết tinh từ tinh
thần chiến đấu mưu trí, dũng cảm, không quản hy sinh, gian khổ của nhiều thế hệ
cán bộ, chiến sĩ và sự giáo dục, rèn luyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng
ta, cùng với sự thương yêu, đùm bọc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói:
Bộ đội ta là bộ đội nhân dân, bộ đội cách mạng, có truyền thống anh dũng,
khắc khổ, kiên nhẫn, cần kiệm, chất phác, việc khó khăn nguy hiểm mấy
cũng không sợ, nhất định làm cho kỳ được. Đó là truyền thống, đạo đức,
tác phong tốt, phải luôn luôn giữ vững và phát triển.” [121, tr.490].
Mặc dù chịu sự tác động từ mặt trái của KTTT; từ âm mưu, thủ đoạn “diễn
biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhưng đại đa số bác sĩ quân y Việt Nam ý
thức được sự cần thiết phải giữ gìn bản chất tốt đẹp anh “bộ đội Cụ Hồ”, luôn luôn có
bản lĩnh chính trị vững vàng, yêu nước, yêu dân, yêu nghề, yên tâm công tác; tuyệt
đối trung thành với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, có niềm tin vững chắc vào sự tất thắng của CNXH và CNCS; sẵn sàng hy
sinh để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, không quản ngại khó khăn, gian khổ, sẵn
sàng đi đến mọi miền của Tổ quốc để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe cho bộ đội và nhân dân - đúng như lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
dành cho Quân đội nhân dân Việt Nam: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân,
sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng” [125, tr.435].
Tuyệt đại đa số bác sĩ quân y đều tốt nghiệp trường Y trong quân đội và
được trang bị đầy đủ khoa học lý luận chính trị, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đạo đức quân sự. Họ có những hiểu biết sâu sắc
và nhận diện được những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng “phi
93
chính trị hóa” quân đội, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ
XHCN; luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ XHCN ở Việt Nam; giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn
xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ
cương. Thời gian qua họ đã góp phần cùng toàn quân, toàn dân “Chủ động ngăn
ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp
thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch,
phản động và cơ hội chính trị” [49, tr.117].
Trong quá trình công tác, đa phần bác sĩ quân y vẫn giữ được lối sống trong
sạch, lành mạnh, thực hiện tốt cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Họ không sợ
gian nan, nguy hiểm, khổ cực, sẵn sàng đi tới các vùng khó khăn, dịch bệnh để thực
hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe, công tác dân vận cho nhân dân vì lý tưởng của
nghề, vì tình yêu với Tổ quốc, nhân dân. Dù ở bất cứ nơi đâu họ đều luôn siêng
năng, chăm chỉ sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ; kê đơn thuốc và sử dụng thuốc
điều trị một cách hợp lý, an toàn, vừa không gây lãng phí vừa tiết kiệm chi phí cho
người bệnh. Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng các phương tiện, cơ sở vật chất-
kỹ thuật y tế của bệnh viện hay bệnh xá, các bác sĩ quân y đều quản lý, nắm chắc số
lượng, chất lượng từng chủng loại; học tập quy trình khai thác sử dụng, bảo quản
các trang thiết bị y tế; phát huy tối đa hiệu quả của chúng trong thực hiện nhiệm vụ
đào tạo, điều trị và nghiên cứu khoa học.
Với những gì họ đã đóng góp, nhiều bác sĩ quân y được phong tặng thầy
thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú, trở thành chuyên viên kỹ thuật đầu ngành như:
thầy thuốc Thượng tá, PGS. Lương Công Thức (tim mạch), Đại tá, PGS. Vũ Nhất
Định (ngoại khoa - chấn thương chỉnh hình), Trung tướng GS. Mai Hồng Bàng (nội
tiêu hóa), Thiếu tướng PGS. Lâm Khánh (chẩn đoán hình ảnh),... Nhiều bác sĩ quân
y vẫn đang âm thầm sát cánh cùng người bệnh, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng
hải đảo, xung phong nơi tuyến đầu chống dịch COVID-19 bảo vệ sức khỏe nhân
94
dân, sự bình yên của xã hội. Dù bất cứ hoàn cảnh nào họ luôn giữ vững phẩm chất
đạo đức cách mạng, hình ảnh anh “Bộ đội Cụ Hồ”.
Kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, có 97,3% bác sĩ quân y khi được
hỏi khẳng định nguồn thu nhập của họ chủ yếu từ tiền lương, phụ cấp nhưng 84,4%
khẳng định muốn được phục vụ lâu dài trong quân đội và tạo điều kiện để được đi
học nâng cao trình độ [Phụ lục 2]. 96% bác sĩ quân y và 94,28% cán bộ lãnh đạo,
chỉ huy đơn vị quân y đánh giá ở mức độ tốt về bản lĩnh chính trị vững vàng, yêu
nước, yêu dân, yêu nghề, yên tâm công tác; 78,66% bác sĩ quân y và 75,5% cán bộ
lãnh đạo, chỉ huy đơn vị đánh giá ở mức độ tốt về lối sống trong sạch, lành mạnh;
luôn thực hiện cần, kiệm, liêm, chính chí công, vô tư của bác sĩ quân y [Phụ lục 2].
Đồng thời, qua khảo sát ý kiến bệnh nhân càng minh chứng lối sống trong sạch,
lành mạnh của đại đa số bác sĩ quân y, khi 79,63%% bệnh nhân được hỏi đều cho
rằng bác sĩ quân y trong quá trình khám, điều trị không có những lời nói, hành vi
gây phiền hà cho người bệnh như: kê đơn gợi ý mua thuốc ngoài tiêu chuẩn, kê
thuốc đắt tiền hoặc làm xét nghiệm không phù hợp, phân biệt đối xử với bệnh
nhân [Phụ lục 3].
Về hạn chế
Bên cạnh đa số bác sĩ quân y có ý thức tu dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp thì hiện nay vẫn còn số ít bác sĩ
quân y bản lĩnh chính trị chưa thực sự vững vàng, còn có biểu hiện dao động trước
khó khăn, thử thách; ý thức tự rèn luyện, tư tu dưỡng, tự phấn đấu vươn lên của một
số bác sĩ quân y chưa cao, không ít người tỏ ra hoang mang, dao động, băn khoăn,
lo lắng, mơ hồ về con đường đi lên CNXH, từ đó giảm sút ý chí, quyết tâm xây
dựng CNXH.
Số ít bác sĩ quân y còn bàng quan, thờ ơ với chính trị, hoài nghi, thiếu tin
tưởng vào chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ đó có những nhận thức
sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học
tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước như Nghị quyết Hội nghị Trưng
95
ương 4 khóa XII đã chỉ ra. Do đó, kết quả viết thu hoạch, kiểm tra chính trị hàng
năm vẫn có những bác sĩ quân y đạt kết quả chưa cao.
Thiếu hiểu biết về vấn đề chính trị, thiếu bản lĩnh chính trị khiến một số bác sĩ
quân y dễ bị kẻ xấu lợi dụng, lôi kéo làm những việc sai trái, dẫn tới suy thoái về đạo
đức cách mạng, lối sống; vi phạm pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội; việc
duy trì chấp hành chế độ quy định, thực hiện nền nếp chính quy, lễ tiết, tác phong
quân nhân còn hạn chế, “Xây dựng nền nếp chính quy, chấp hành kỷ luật của một số
cơ quan, đơn vị còn hạn chế. Tỷ lệ cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật còn cao
trong đó vi phạm do tham gia cờ bạc, lô đề, vay nặng lãi không có khả năng chi trả
chiếm tỷ lệ lớn cá biệt còn có đảng viên đào bỏ ngũ, thoái thác nhiệm vụ.”[54,
tr.9]. Điều này gây dư luận không tốt, ảnh hưởng đến phẩm chất, hình ảnh người bác
sĩ quân y, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”.
Một số bác sĩ quân y chạy theo lối sống cá nhân chủ nghĩa, coi nghề y là
công cụ kiếm tiền, làm giàu dẫn tới họ chỉ muốn ở thành phố công tác, sợ khó khăn,
nguy hiểm khi công tác tại các vùng núi, hải đảo; với đồng nghiệp thì thiếu khiêm
tốn, với mình thì không chịu kiểm điểm, với việc thì thiếu tinh thần phụ trách
“nhận thức về yêu cầu nhiệm vụ, quan điểm, thái độ phục vụ và trách nhiệm ở một
số cá nhân chưa tốtcòn biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, thiếu nhiệt tình trước công
việc” [52, tr.3]; làm việc vì lợi ích cá nhân chứ không thực sự vì tình yêu với người
bệnh, với lý tưởng nghề y. Trong quá trình hoạt động nghề nghiệp, một số bác sĩ
quân y khai thác và sử dụng trang thiết bị y tế còn lãng phí, hiệu quả thấp, nhất là các
trang bị thuộc dự án tăng cường năng lực, dự án ODA.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tại lớp chỉnh Đảng Trung ương Khóa 2
(3-1953), rằng:
Phải thấy kẻ địch trong mình ta nó mạnh lắm. Đế quốc bên ngoài có thể
dùng súng dùng đạn để đánh được. Kẻ địch trong người không thể dùng
lựu đạn mà ném vào được; nó vô hình, vô ảnh, không dàn ra thành trận,
luôn luôn lẩn lút trong mình ta. Nó khó thấy, khó biết, nên khó tránh.
Nhưng đã biết việc phải thì kiên quyết làm. Làm không phải chuyện dễ.
96
Nó khó như trèo núi, rất gay go và có khi nguy hiểm là đằng khác [119,
tr.98-99].
3.2. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG Y ĐỨC NGƯỜI BÁC SĨ QUÂN Y
VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG Y ĐỨC HỒ CHÍ MINH
3.2.1. Nguyên nhân của những ưu điểm
Sự chuyển biến về mặt y đức của bác sĩ quân y theo các nội dung giá trị tư
tưởng y đức của Hồ Chí Minh trong mối quan hệ với bệnh nhân, nghề nghiệp, đồng
nghiệp, xã hội và với bản thân mình theo chiều hướng tích cực xuất phát từ nhiều
nguyên nhân.
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng đã rất coi trọng lãnh
đạo, chỉ đạo việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh nói chung, tư tưởng y đức của Người nói riêng.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, tại Đại hội
lần thứ XIII, Đảng ta chủ trương “Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện
thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị” [49, tr.183].
Tinh thần đó tiếp tục được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định tại Hội nghị
Toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh:
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là việc làm rất cần thiết, là nhiệm vụ hết sức quan trọng, thường
xuyên, không thể thiếu đối với toàn Đảng, toàn dân ta, trước hết là các tổ
chức đảng, các cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên trong tu dưỡng, rèn
luyện, cống hiến, phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân [167, tr.2-3].
Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đạt
hiệu quả cao, thời gian qua Đảng, Nhà nước, Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng đã ban hành
nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện và kết quả của phong trào này tác động rất lớn
tới ý thức học tập, rèn luyện tư tưởng y đức Hồ Chí Minh của mỗi bác sĩ quân y.
Từ năm 2011 đến năm 2016, Ban Chấp hành Trung ương đã ra Chỉ thị số 03-
CT/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
97
Chí Minh và Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh với mục đích “tạo chuyển biến mạnh mẽ và sâu rộng
hơn nữa về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng” [5] và yêu cầu
xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng
địa phương, cơ quan, đơn vị với phương châm “sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn,
dễ nhớ, dễ thực hiện và đánh giá việc thực hiện” [6, tr.3].
Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 1973/CT-TTg (năm 2011) và Chỉ
thị số 27/CT-TTg (năm 2016) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Chỉ thị nhấn mạnh, dựa trên cơ sở tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh mà “Các Bộ, Ngành rà soát, xây dựng, công bố và tổ chức thực hiện
các chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở tất cả các cơ quan, tổ
chức, đơn vị thuộc Bộ, ngành, địa phương mình” [150, tr.2].
Riêng đối với ngành Y, Đảng ta chủ trương phải: “Tăng cường đào tạo, đào
tạo lại, luân phiên cán bộ y tế, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới. Đổi mới
phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức.” [50, tr.137]. Trong đó yêu cầu phải
xây dựng người cán bộ y tế ““Thầy thuốc phải như mẹ hiền”, có năng lực chuyên
môn vững vàng, tiếp cận trình độ quốc tế” [47, tr.136] nhằm xây dựng nền y học
khoa học, dân tộc và đại chúng.
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ y tế đã ban hành nhiều
chủ trương, biện pháp học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh. Ngày 6/11/1996, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 2088/BYT-QĐ về việc
ban hành “Quy định về y đức”. Trong đó dựa trên tư tưởng y đức Hồ Chí Minh, Bộ Y
tế ban hành 12 điều y đức, quy định nhận thức và hành vi y đức của người làm công
tác y tế trong các mối quan hệ nghề nghiệp, trong đó nhấn mạnh: “phải nghiêm túc
thực hiện lời dạy của Bác Hồ”. Từ năm 2016-2021, Bộ Y tế cũng ban hành các Kế
hoạch với nội dung nội dung triển khai học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, Quy tắc ứng xử, đổi mới phong
cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế, xây dựng cơ sở y tế “Xanh-Sạch-Đẹp” hướng
tới sự hài lòng của người bệnh. Trên cơ sở tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, Bộ Y tế đã xây dựng nội dung chuẩn mực đạo đức chung của ngành Y tế gồm:
98
3 xây (Xây dựng tinh thần trách nhiệm và ý thức phục vụ nhân dân; Xây dựng tinh
thần tự giác học tập; Xây dựng mối đoàn kết nội bộ) và 3 chống (Chống quan liêu,
hách dịch; Chống tham ô, lãng phí; Chống bè phái, cục bộ).
Trong các mối quan hệ nghề nghiệp của thầy thuốc, Bộ Y tế rất quan tâm
điều chỉnh “kỹ năng giao tiếp, ứng xử, nâng cao tinh thần, thái độ phong cách phục
vụ người bệnh của cán bộ y tế, hướng tới nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh,
đáp ứng sự hài lòng của người bệnh” [28] nhằm xây dựng người thầy thuốc thực sự
là người mẹ hiền như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn.
Để nâng cao năng lực giao tiếp, ứng xử; nâng cao ý thức phục vụ bệnh nhân,
Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản liên quan tới vấn đề này, như: Quyết định số:
4031/2001/QĐ-BYT ngày 27/9/2001 về việc ban hành Quy định về “Chế độ giao
tiếp trong các cơ sở khám, chữa bệnh”; Quyết định số 29/2008/QĐ-BYT ngày
18/8/2008 về việc ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, viên chức trong các đơn vị
sự nghiệp y tế; Thông tư số: 07/2014/TT-BYT ngày 25/2/2014 Quy định về “Quy
tắc ứng xử của công chức, viên chức, người lao động làm việc tại các cơ sở y tế”;
Quyết định số: 2151/QĐ-BYT ngày 4/6/2015 về việc phê duyệt kế hoạch triển khai
thực hiện “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài
lòng của người bệnh” và Kế hoạch số 607/KH-BYT Truyền thông triển khai thực
hiện “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế, hướng tới sự hài lòng
của người bệnh”.
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Cục Quân y dựa trên quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng, Chính phủ, Bộ Y tế đã ban hành nhiều nghị quyết,
quyết định về đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh trong quân đội nói chung, gắn phong trào với phát triển ngành Quân y nói riêng.
Ngày 26/12/2013, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã ban hành Chỉ thị số 78-
CT/QUTW Về phát động Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng,
xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”. Trên cơ sở đó, Tổng cục Chính trị ban hành hướng dẫn
nội dung phấn đấu xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Năm 2016, Thường vụ
Quân ủy Trung ương đã ban hành Chỉ thị số 87-CT/QUTW ngày 8/7/2016 về đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong Đảng bộ
99
Quân đội và toàn quân; Chỉ thị số 855-CT/QUTW ngày 12/8/2019 về đẩy mạnh thực
hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội
Cụ Hồ” thời kỳ mới. Tổng cục Chính trị ban hành Kế hoạch số 1585/KH-CT ngày
1/9/2016 về việc triển khai thực hiện Chỉ thị 87; Kế hoạch số 1721/KH-CT ngày
23/9/2019 triển khai thực hiện Chỉ thị 855 bảo đảm chặt chẽ, nghiêm túc. Điều đó cho
thấy, trong quân đội, công tác tuyên truyền, giáo dục, học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh luôn luôn được đẩy mạnh.
Các văn bản về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh của Đảng, Nhà nước, Bộ Y tế nói chung, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc
phòng, Cục Quân y nói riêng đã có sức tác động, lan tỏa sâu rộng đến mọi tầng lớp
nhân dân cũng như trong Quân đội, trong đó có ngành Quân y và đạt được nhiều kết
quả tích cực.
Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với thực
hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 87-CT/QUTW của Thường
vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh đã có tác động trực tiếp đến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
đến tính tiên phong trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; đội ngũ cấp ủy
viên, cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy các cấp tự giác, nêu gương tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức cách mạng; hình ảnh, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” tiếp tục được giữ
vững và làm sâu sắc hơn trong lòng nhân dân. Nhiều tấm gương người tốt, việc tốt
được nhân rộng. Trong 5 năm thực hiện Chỉ thị 05, Bộ Quốc phòng đã “tặng Bằng
khen cho 77 tập thể và 104 cá nhân có thành tích xuất sắc tuyên dương 50 gương
mặt trẻ tiêu biểu và 72 gương mặt trẻ triển vọng toàn quân; trong đó có 07 đồng chí
được bình chọn là Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu và 08 đồng chí là Gương mặt
trẻ Việt Nam triển vọng” [140 tr.13].
Sau mỗi đợt học tập, phổ biến các chỉ thị, nghị quyết, chuyên đề c