Luận án Nghiên cứu một số hình thức tổ chức lãnh thổ kinh tế ở tỉnh Đồng Nai

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

CHỮ VIẾT TẮT

DANH SÁCH BẢNG

DANH SÁCH BIỂU ĐỒ

DANH SÁCH BẢN ĐỒ

MỞ ĐẦU .2

1. Lí do chọn nghiên cứu đề tài .2

2. Tổng quan nghiên cứu vấn đề .3

2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước . 3

2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .4

3. Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu đề tài .7

3.1. Mục tiêu .7

3. 2. Nhiệm vụ .7

4. Phạm vi nghiên cứu .8

5. Các quan điểm và phương pháp nghiên cứu .9

5.1. Các quan điểm nghiên cứu .9

5.1.1. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ .9

5.1.2 Quan điểm hệ thống. 9

5.1.3. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh .9

5.1.4. Quan điểm phát triển bền vững. 9

5.2. Các phương pháp nghiên cứu .10

5.2.1. Phương pháp tổng hợp tài liệu, số liệu thống kê. 10

5.2.2. Phương pháp khảo sát thực địa .10

5.2.3. Phương pháp xử lí và phân tích tài liệu, số liệu .10

5.2.4. Phương pháp bản đồ, biểu đồ và ứng dụng công nghệ GIS .11

5.2.5. Phương pháp chuyên gia .11

5.2.6. Phương pháp thang điểm tổng hợp .11

6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn .12

7. Cấu trúc của luận án .13

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ .14

1.1. Cơ sở lí luận về tổ chức lãnh thổ kinh tế .14

1.1.1. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ .14

1.1.2. Quan niệm và nguyên tắc của tổ chức lãnh thổ kinh tế .16

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ kinh tế .19

1.1.4. Một số hình thức cơ bản của tổ chức lãnh thổ kinh tế .25

1.2. Cơ sở thực tiễn nghiên cứu một số hình thức tổ chức lãnh thổ kinh tế .31

pdf195 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 555 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu một số hình thức tổ chức lãnh thổ kinh tế ở tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Long Thành H. Nhơn Trạch N gư ời /H ộ N gư ời Số nhân khẩu của hộ NN Bình quân nhân khẩu/hộ nông nghiệp Biểu đồ 2.3: Số nhân khẩu và bình quân nhân khẩu trên 1 hộ nông nghiệp phân theo huyện, thị xã, TP của tỉnh Đồng Nai (1/7/2011) Với 66,57% dân số sống ở khu vực nông thôn và 30,07% số lao động đang hoạt động trong các ngành kinh tế, nhưng chỉ tạo ra 8,29% so với tổng GDP. Hơn nữa, năng suất lao động của ngành nông nghiệp lại thấp nhất trong các ngành kinh tế, mà phải gánh thêm một lượng lớn người phụ thuộc nên thu nhập trung bình của cư dân nông thôn nhìn chung còn thấp. Do vậy, trong những năm tới cần phải giảm số hộ nông nghiệp và thay vào đó là các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp khác có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế và thu nhập cao hơn cho người lao động nông nghiệp. Về quy mô sản xuất của hộ nông nghiệp:  Đối với trồng trọt Với diện tích canh tác bình quân của 1 hộ sản xuất nông nghiệp của tỉnh Đồng Nai là 1,32 ha/hộ (phụ bảng 2.3). Trong đó đất trồng cây hàng năm là 0,36ha, đất trồng lúa là 0,18ha và đất trồng cây lâu năm là 0,78ha. Điều này cho thấy đất canh tác nông nghiệp còn manh mún, gây khó khăn cơ giới hóa nông nghiệp và khó có được khối lượng sản phẩm đạt an toàn về chất lượng. 77  Đối với chăn nuôi Từ phụ bảng 2.4 cho thấy vật nuôi chủ lực của tỉnh Đồng Nai được nuôi trong hộ chiếm tỷ lệ lớn (bò chiếm 99,28%, gia cầm chiếm 56,99 và lợn chiếm 64,63%). Trong đó bò gần như được nuôi manh mún và có qui mô nhỏ ở trong các hộ (số lượng trung bình khoảng 3- 5 con), chỉ có một số lượng đàn bò rất nhỏ so với tổng số đàn bò của tỉnh được nuôi theo hình thức công nghiệp ở trong các trang trại của công ty bò sữa Long Thành. Với quy mô nhỏ lẻ, manh mún và phân tán, khó kiểm soát về dịch bệnh nên năng suất và và hiệu quả kinh tế thấp. Đánh giá chung: Nông hộ là một hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp đóng vai trò quan trọng ở Đồng Nai, chiếm 78,13% giá trị sản xuất nông nghiệp và 95,7% lao động phục vụ trong ngành nông nghiệp. Mặc dù bộc lộ những hạn chế về quy mô nhỏ, phân tán và khó áp dụng khoa học tiến tiến, nhưng về cơ bản chưa thể xóa bỏ hoàn toàn trong đều kiện của nước ta hiện nay nói chung và Đồng Nai nói riêng. b) Trang trại Các trang trại của tỉnh Đồng Nai phần lớn là loại hình trang trại gia đình, sử dụng lao động gia đình là chủ yếu, hợp đồng thuê thêm lao động thường xuyên không nhiều.  Trang trại trồng cây hàng năm Kết quả điều tra của Cục Thống kê Đồng Nai năm 2010 có 222 trang trại trồng cây hàng năm, chiếm 6,87% tổng số trang trại của tỉnh (tăng 47 trang trại so với năm 2006). Phần lớn các trang trại trồng cây hàng năm tập trung ở những huyện có tỷ trọng nông nghiệp lớn trong cơ cấu kinh tế như: huyện Xuân Lộc, huyện Tân Phú và thị xã Long Khánh. Vốn đầu tư của trang trại trồng cây hàng năm thấp nhất trong các loại hình trang trại. Nguyên nhân vốn đầu tư của trang trại trồng cây hàng năm thấp là do chi phí đầu tư về giống và các loại vật tư nông nghiệp không lớn; chi phí bỏ ra của các trang trại trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở mức thấp. Loại hình trang trại trồng cây hàng năm sử dụng diện tích đất canh tác tương đối lớn (bình quân 5,22 ha/trang trại). Quy mô đất của trang trại 78 trồng cây hàng năm là điều kiện thuận lợi để áp dụng cơ giới hóa các khâu làm đất, thu hoạch Việc sử dụng lao động thường xuyên trong các trang trại trồng cây hàng năm bình quân là 5,23 lao động/trang trại, trong đó lao động chủ hộ là 2,27 lao động/trang trại. Tuy nhiên, các trang trại này lại sử dụng số lao động thuê mướn thời vụ cao hơn cả so với các loại hình trang trại ở tỉnh Đồng Nai (bình quân 5,94 lao động/trang trại). Điều này xuất phát từ tính chất sản xuất của loại hình trang trại trồng cây hàng năm: một năm có thể sản xuất 2-3 vụ; thu họach cần phải tập trung trong thời gian ngắn. Nhưng số lao động thường xuyên của các trang trại không thể thực hiện toàn bộ các công việc trong quá trình sản xuất, nên việc thuê mướn lao động thời vụ là tất yếu. Lao động thuê mướn thời vụ trong nông nghiệp của tỉnh Đồng Nai ngày càng trở nên khan hiếm do sự chuyển dịch lao động sang ngành công nghiệp. Đây là những khó khăn, trở ngại cho việc phát triển trang trại trồng cây hàng năm trong thời gian tới.  Trang trại trồng cây lâu năm Số lượng trang trại trồng cây lâu năm là 1175 trang trại (năm 2010). Đây là loại hình trang trại sản xuất chiếm số lượng tương đối lớn (chiếm 36,36%) so với tổng số trang trại của tỉnh. Các chủ trang trại đã biết tận dụng lợi thế về đất, khí hậu của tỉnh để phát triển sản xuất kinh doanh các loại cây ăn trái đặc sản như: buởi Tân Triều, chôm chôm, sầu riêng Long Khánh, đặc biệt là các cây công nghiệp lâu năm như: cao su, cà phê, tiêu và điều là hàng hóa xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nói chung và Đồng Nai nói riêng. Năm 2010 số lao động thường xuyên làm việc trong các trang trại trồng cây lâu năm là 3843 lao động (chiếm 31,87% số lao động thường xuyên của trang trại), bình quân 3,27 lao động thường xuyên/trang trại; số lao động thời vụ là 4519 lao động (chiếm 63,36% tổng số lao động thời vụ của các trang trại), bình quân 3,85 lao động thời vụ/trang trại. Nhìn chung, lao động làm việc thường xuyên trong các trang trại trồng cây lâu năm yêu cầu phải biết kỹ thuật trồng, chăm sóc và thực hành thành thạo các biện pháp kỹ thuật như: áp dụng mô hình tưới nước tiết kiệm, bón phân qua đường ống, xử lí ra hoa trái vụ vvv 79 Sản phẩm hàng hóa của trang trại trồng cây lâu năm sản xuất ra chủ yếu được bán thông qua thương lái. Qua khảo sát thực tế ở một số huyện như Xuân Lộc, Cẩm Mỹ, Long Thành cho thấy: Hầu hết các chủ trang trại trồng cây lâu năm, kể cả trang trại trồng cao su cũng đều bán sản phẩm cho thương lái trước khi đến tay các doanh nghiệp sơ chế hoặc chế biến xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Đây là một thực tế đang diễn ra khá phổ biến ở Đồng Nai.  Trang trại chăn nuôi: Đồng Nai là tỉnh có truyền thống chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn và gia cầm (chủ yếu là gà công nghiệp). Năm 2010 tỉnh Đồng Nai có số lượng đàn lợn xếp thứ 4 trên 63 tỉnh, thành của cả nước (gần 1.119.823 con không kể lợn sữa). Cùng với các hình thức chăn nuôi khác ở địa phương, hình thức chăn nuôi trang trại đang chiếm ưu thế và phát triển nhanh về số lượng với việc sử dụng phương pháp chăn nuôi công nghiệp là chủ yếu (phụ bảng 2.8 và 2.9). Căn cứ vào phụ bảng 2.9, ta thấy số lượng bò nuôi trong các trang trại so với tổng số đàn bò của địa phương vẫn chiếm tỷ trọng thấp mà chủ yếu được chăn nuôi ở các hộ gia đình, nên khó áp dụng phương thức chăn nuôi theo kiểu công nghiệp để tăng năng suất và hiệu quả kinh tế. Mặt khác, còn gây khó khăn kiểm soát dịch bệnh và ô nhiễm môi trường, do vấn đề liên kết giữa khâu chăn nuôi với giết mổ còn mang tính tự phát. Chăn nuôi trang trại ở tỉnh Đồng Nai chủ yếu là chăn nuôi lợn và gia cầm (gia cầm chiếm 43,01%, lợn chiếm 35,37%), nhưng lại cho hiệu quả kinh tế cao rõ rệt (năm 2010 đạt 4.127.732,189 triệu đồng chiếm 47,23% tổng GTSX của ngành chăn nuôi tính theo giá thực tế) [15], [16]. Đến năm 2010 toàn tỉnh có số lượng trang trại chăn nuôi là 1581 trang trại chiếm 48,93% về tổng số lượng trang trại hiện có của tỉnh Đồng Nai. Nhưng đây là loại hình trang trại có thu nhập trung bình cao hơn mức trung bình của các loại hình trang trại và chỉ đứng sau trang trại tổng hợp. Năm 2010 trung bình 1 trang trại chăn nuôi của tỉnh có thu nhập là 155,78 triệu đồng và 1 lao động trong trang trại chăn nuôi có mức thu nhập là 3,08 triệu đồng/1 tháng. Tuy nhiên giữa các địa phương có sự chênh lệch tương đối lớn về thu nhập, thể hiện qua biểu đồ 2.4 và phụ bảng 2.9. 80 9,687 12,537 5,145 7,817 38,765 22,860 43,561 31,500 42,396 27,338 3,100 1.55 2.55 3 2.11 1.64 5.86 5.06 6.25 2.62 5.96 3.08 0 1 2 3 4 5 6 7 0 5,000 10,000 15,000 20,000 25,000 30,000 35,000 40,000 45,000 50,000 Biên Hòa Vĩnh Cửu Tân Phú Định Quán Xuân Lộc Long Khánh Trảng Bom Cẩm Mỹ Thống Nhất Long Thành Nhơn Trạch T ri ệu đ ồn g/ th án g T ri ệu đ ồn g Tổng thu nhập Thu nhập của 1 lao động trung bình trong 1 tháng Biểu đồ 2.4 : Thu nhập bình quân 1 tháng của 1 lao động làm việc tại trang trại chăn nuôi theo huyện, (TX, TP) ở tỉnh Đồng Nai năm 2010 Sự hình thành và phát triển loại hình trang trại chăn nuôi có ở các địa phương trong tỉnh. Song, tập trung nhiều nhất ở huyện Thống Nhất, Trảng Bom và Xuân Lộc. Tuy nhiên, các địa phương có mức thu nhập trung bình của 1 lao động trang trại cao đó là Cẩm Mỹ, Trảng Bom và Long Khánh. Vì đây là những địa phương có quy mô trang trại lớn hơn (kể cả trang trại trồng trọt và chăn nuôi) nên thu nhập của người lao động cao hơn. Các trang trại chăn nuôi được đầu tư khá lớn về cơ cở vật chất như: chuồng trại theo mô hình công nghiệp hoặc bán công nghiệp. Đối với chăn nuôi lợn đa số các trang trại đều sử dụng chuồng nuôi lồng sắt. Một số trang trại xây dựng chuồng kín (có máy lạnh để duy trì nhiệt độ), tránh được dịch bệnh từ bên ngoài. Quy mô đầu tư vốn bình quân 1 trang trại chăn nuôi năm 2010 là 707,58 triệu đồng/trang trại, đây là mức đầu tư đứng thứ 2 so với các loại hình trang trại. Phần lớn trang trại chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, nên sử dụng ít lao động. Lao động thường xuyên bình quân của 1 trang trại chăn nuôi là 3,4 người, có kinh nghiệm trong lĩnh vực chăn nuôi, biết xử lí những bệnh thông thường khi vật nuôi mắc phải. Nhiều trang trại đã thực hiện tiêm phòng vác xin cho gia súc, gia cầm nên hạn chế được dịch bệnh. Mặt khác, do tính chất của ngành chăn nuôi không bị tác động bởi thời vụ, nên việc thuê mướn lao động của 81 các trang trại chăn nuôi là không đáng kể (bình quân 1 trang trại thuê 2 lao động thời vụ). Việc tăng số lượng trang trại chăn nuôi đã làm tăng nhu cầu sử dụng đất. Đến năm 2010 các trang trại chăn nuôi trên toàn tỉnh đã sử dụng 1542 ha đất, bình quân một trang trại sử dụng 0,97 ha. Với vị trí địa lí ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nơi có TP. Hồ Chí Minh là thị trường tiêu thụ các sản phẩm chăn nuôi (thịt bò, lợn, gà) của địa phương. Trong những năm qua các trang trại chăn nuôi đã cung cấp phần lớn các sản phẩm của ngành cho Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh. Sự phát triển mạnh mô hình trang trại chăn nuôi đã tác động đến cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp theo hướng tích cực, từng bước đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính. Đến năm 2010 tỷ trọng ngành chăn nuôi đã chiếm 33,6% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, trong đó giá trị sản xuất của trang trại chăn nuôi chiếm 47,23% tổng giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi, góp phần đưa Đồng Nai trở thành tỉnh dẫn đầu về tỷ trọng chăn nuôi trong cơ cấu ngành nông nghiệp so với các tỉnh thành khác ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Bảng 2.12 : Tỷ trọng GTSX của các trang trại chăn nuôi so với GTSX của ngành chăn nuôi ở tỉnh Đồng Nai năm 2010 Giá trị SX trang trại chăn nuôi (triệu đồng) GTSX ngành chăn nuôi (triệu đồng) Tỷ trọng GTSX trang Trại chăn nuôi so với GTSX của ngành chăn nuôi (%) Định Quán 32.541,51 674.194 4,83 Nhơn Trạch 16.047,40 250.813 6,40 Vĩnh Cữu 38.366,60 266.684 14,39 Long Thành 183.934,05 745.164 24,68 Tân Phú 181.489,51 483.798 37,51 Xuân Lộc 728.425,31 1.679.062 43,38 Cẩm mỹ 505.671,72 1.083.464 46,67 Biên Hòa 420.549,36 701.359 59,96 Thống Nhất 496.221,98 754.164 65,80 Trảng Bom 1.184.573,90 1.641.162 72,18 Long Khánh 339.910,83 459.336 74,00 Tổng số 4.127.732,19 8.739.200 47,23 Nguồn : Tác giả xử lí từ nguồn [8] và [15], [16] 82 Các trang trại chăn nuôi nói riêng và ngành chăn nuôi của tỉnh nói chung trong thời gian qua gặp phải những khó khăn cần phải giải quyết trong thời gian tới, đó là: sự hình thành một số cơ sở giết mổ tự phát gây ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người; Giá thức ăn cho chăn nuôi tăng cao lại không ổn định, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất và mở rộng quy mô của trang trại.  Trang trại tổng hợp Năm 2010 tại tỉnh Đồng Nai có 95 trang trại tổng hợp. Số lượng trang trại tổng hợp phần lớn tập trung ở 3 huyện: Long Khánh, Xuân Lộc và Định Quán. Đó là những trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp như: trồng trọt kết hợp với chăn nuôi; trồng nấm, nuôi ong, cây cảnh; một số trang trại sản xuất kinh doanh giống cây – con và dịch vụ nông nghiệp. Trang trại tổng hợp chủ yếu là sản xuất kinh doanh đa lĩnh vực trong nông nghiệp, nên có mức đầu tư vốn cao nhất trong các loại hình trang trại. Đồng thời sử dụng số lao động tương đối lớn, trong đó lao động thường xuyên là 7 người và lao động thuê mướn là 3 người. Quy mô sử dụng đất đối với trang trại tổng hợp khá cao, chỉ xếp sau trang trại lâm nghiệp. Phần lớn chủ trang trại tổng hợp là những người có kinh nghiệm, có kiến thức trong việc tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh. Một bộ phận lao động làm việc thường xuyên có tay nghề được huấn luyện phù hợp như: kỹ thuật trồng nấm, nuôi ong, chiết –ghép, lai tạo cây giống, kỹ thuật phối tinh gia súc Nhờ vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh của loại hình trang trại này đứng đầu về giá trị sản xuất. Bình quân GTSX của trang trại tổng hợp năm 2010 là 1021,93 triệu đồng/trang trại. Đây cũng là loại hình trang trại có mức thu nhập cao nhất của tỉnh Đồng Nai (bình quân đạt 231,32 triệu đồng/trang trại). 83 Đánh giá những kết quả và hạn chế của trang trại Sự hình thành và phát triển trang trại ở tỉnh Đồng Nai đã góp phần giải quyết việc làm cho 11.292 lao động nông nghiệp (7158 lao động chủ trang trại và 4134 lao động thuê thường xuyên) cùng với 6769 lao động thời vụ (lực lượng lao động ở nông thôn trong thời kì nông nhàn) [16], chiếm 4,3% tổng số lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp và đóng góp 21,87% giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp cho địa phương. Bảng 2.13. So sánh giá trị sản xuất của ngành trồng trọt/ diện tích đất trồng trọt của địa phương với GTSX của các trang trại trồng trọt/ diện tích đất trồng trọt của trang trại năm 2010 STT Đơn vị hành chính GTSX ngành TT/DT đất trồng trọt (Triệu đồng/ha) GTSX trang trại trồng trọng/diện tích đất trồng trọt của trang trại (triệu đồng/ha) So sánh GTSX thu được của trang trại với GTSX trồng trọt/ 1 ha đất canh tác (triệu đồng/ha) 1 Long Thành 32,74 40,31 +7,57 2 Tân Phú 56,29 65,41 +9,12 3 Biên Hòa 23,81 35,65 +11,84 4 Nhơn Trạch 24,81 37,56 +12,75 5 Vĩnh Cữu 40,30 55,41 +15,11 6 Định Quán 47,52 68,46 +20,94 7 Thống Nhất 41,79 83,47 +41,68 8 Xuân Lộc 45,58 106,27 +60,69 9 Trảng Bom 39,97 122,47 +82,50 10 Long Khánh 42,51 161,51 +119 11 Cẩm mỹ 44,15 177,11 +132,96 Toàn tỉnh 42,48 108,79 +66,31 Nguồn : Tác giả xử lí từ nguồn [8] và [16] Từ bảng 2.13 cho ta thấy GTXS nông nghiệp thu được trên 1 hecta đất canh tác nông nghiệp của các trang trại của tỉnh Đồng Nai đều cao hơn GTSX nông nghiệp của ngành trồng trọt thu được trên 1 héc ta đất trồng trọt. Mặc dù quy mô của các trang trại của tỉnh Đồng Nai nhìn chung vẫn nhỏ, nhưng với những kết 84 quả mang lại của các trang trại đã chứng tỏ ưu thế của hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp này hơn hẳn nông hộ. Những loại hình trang trại đang hoạt động có hiệu quả và chiếm ưu thế hiện nay ở Đồng Nai phải kể đến: - Loại hình trang trại chăn nuôi: ưu thế thuộc về trang trại chăn nuôi lợn thịt có quy mô từ 100 đến trên 200 con (tập trung chủ yếu ở TP. Biên Hòa và các huyện Trảng Bom, Long Thành, Nhơn Trạch; trang trại chăn nuôi gia cầm (chủ yếu là gà thịt và gà đẻ trứng) tập trung ở huyện Thống Nhất. - Loại hình trang trại trồng cây lâu năm: ưu thế là các trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm (trong đó điển hình là trang trại điều, tiêu, cao su và cà phê) - Loại hình trang trại trồng cây hàng năm: ưu thế thuộc về trang trại trồng cây lúa, ngô. Mặc dù đạt được những kết quả trên, nhưng các chủ trang trại vẫn gặp phải khó khăn đó là vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Các trang trại sản xuất với qui mô tương đối lớn, nhưng đầu ra của thị trường không ổn định và bị tư thương ép giá, gây khó khăn cho các trang trại. Hơn nữa, trong thời gian gần đây thường bùng phát dịch bệnh trên gia súc (bệnh lợn tai xanh, cúm, lở mồm long móng trên lợn, bò); dịch cúm ở gia cầm; bệnh vàng lùn xoắn lá xuất hiện ở lúa Mặt khác, giá vật tư phục vụ nông nghiệp ngày càng tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc đầu tư sản xuất của các trang trại trên địa bàn toàn tỉnh. Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất của các trang trại vẫn còn rất hạn chế do trình độ chuyên môn chưa cao, thiếu hiểu biết về nhu cầu thị trường, thường lúng túng và chịu thua thiệt khi giá nông sản xuống thấp. Sự liên kết giữa các trang trại với nhau và liên kết giao dịch với các tổ chức kinh tế khác còn ở mức thấp nên dễ bị thiệt thòi. Sự ra đời của một số loại hình trang trại chăn nuôi còn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch, gây ô nhiễm môi trường (chẳng hạn như các trang trại chăn nuôi lợn ở phường Trảng Dài của TP. Biên Hòa). Do đó, cần phải tăng cường quản lý và quy hoạch đối với các loại hình trang trại này trong thời gian tới. 85 Tuy còn có những khó khăn hạn chế, nhưng với những thành quả mà các trang trại mang lại đã góp phần hình thành ở Đồng Nai các vùng chuyên canh: cà phê, điều, cao su và tiêu. Ngoài ra còn hình thành vùng nguyên liệu gắn với các cơ sở chế biến và cung cấp giống cây trồng, vật nuôi như: công ty Donafood Đồng Nai (liên kết giữa trồng với chế biến hạt điều); Tổng công ty cao su Đồng Nai (gắn kết gữa trồng với chế biến và cung cấp giống cao su); công ty Nông súc sản Đồng Nai (gắn liền giữa chế biến với giết mổ gia súc, gia cầm) Tất cả những mối liên kết này nhằm góp phần nâng cao giá thành nông sản và giúp người nông dân (các chủ trang trại) yên tâm đẩy mạnh sản xuất cũng như chủ động, hạn chế tối đa mức độ ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất và đưa họ trở thành những người nông dân triệu phú. c) Vùng chuyên canh Vùng chuyên canh cây công nghiệp lâu năm (cao su, cà phê, điều và hồ tiêu); vùng chuyên canh cây ăn trái (xoài, chôm chôm và sầu riêng); vùng chuyên canh cây lương thực (lúa và ngô), được tỉnh xác định là những cây trồng chính của tỉnh Đồng Nai. - Vùng chuyên canh cây công nghiệp lâu năm + Vùng chuyên canh cao su Đồng Nai là địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng cây cao su, là tỉnh có diện tích và sản lượng cao su đứng thứ 5 so với các tỉnh, thành trồng cao su của cả nước. Diện tích trồng cao su của tỉnh Đồng Nai đạt 44.722 ha, chiếm 36,7% diện tích trồng cây công nghiệp lâu năm của tỉnh. Tuy nhiên, cao su của tỉnh Đồng Nai chủ yếu được trồng trong các nông trường do Tổng công ty cao su Đồng Nai quản lý và khai thác, chiếm 89% diện tích cao su toàn tỉnh. Cao su được trồng tập trung ở các huyện: Cẩm Mỹ, Long Thành, Thống Nhất và TX. Long Khánh. Đây là những huyện nằm ở phía Nam của tỉnh, nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển cây cao su. Tổng diện tích thu hoạch của 4 huyện, thị này chiếm 84,5% diện tích thu hoạch cao su của tỉnh (năm 2005) và đến năm 2010 chiếm 82,74% diện tích thu hoạch và chiếm 83,67% tổng sản lượng cao su trên địa bàn toàn tỉnh. Trong đó, huyện Cẩm Mỹ và Long Thành chiếm gần 60% diện tích trồng và sản lượng cao su của tỉnh. 86 + Vùng chuyên canh cà phê Tỉnh Đồng Nai có điều kiện tự nhiên thích hợp cho trồng cà phê vối, nhưng so với các tỉnh ở khu vực Tây Nguyên thì diện tích cà phê của tỉnh Đồng Nai không nhiều, chỉ chiếm 3,34% diện tích cà phê của cả nước. Đây là một trong những cây trồng chủ lực của tỉnh Đồng Nai, được trồng chủ yếu ở huyện Cẩm Mỹ, Tân Phú, Định Quán và Trảng Bom. Bốn địa phương này chiếm 73,13% diện tích trồng cà phê của toàn tỉnh. + Vùng chuyên canh điều Cây điều vừa là cây lấy hạt cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm bổ dưỡng, vừa là loại cây trồng có tác dụng phủ xanh, bảo vệ môi trường, đồng thời là nguồn nguyên liệu cung cấp cho các cơ sở chế biến gỗ. Mặc dù thu nhập đem lại từ cây điều thấp hơn so với các cây trồng khác (như tiêu), nhưng cây điều có khả năng thích nghi tốt trên vùng đất xấu, không chủ động được nước tưới. Trong những năm qua, cùng với việc ứng dụng thành tựu khoa học kĩ thuật và sự ra đời các cơ sở chế biến trên địa bàn tỉnh, nên việc tăng lên diện tích và năng suất điều của tỉnh Đồng Nai không ngừng tăng lên. Tổng diện tích điều của tỉnh đạt 50.366 ha (năm 2010) [8] chiếm 40,9% diện tích cây công nghiệp lâu năm của tỉnh và được trồng chủ yếu ở những vùng đất xấu không chủ động được nước tưới về mùa khô ở các huyện Định Quán và Xuân Lộc. - Vùng chuyên canh cây ăn trái: Năm 2010 cây ăn trái chiếm 34,76% giá trị sản xuất ngành trồng trọt và 54% giá trị sản xuất cây lâu năm. Trong đó Xoài, sầu riêng và chôm chôm là những cây ăn trái chủ lực của tỉnh Đồng Nai, chiếm 70,4% giá trị sản xuất của tất cả các loại cây ăn trái của tỉnh và được trồng thành những vùng tập chung cụ thể như sau: + Vùng chuyên canh xoài: Xoài là ăn trái chủ lực của tỉnh Đồng Nai. Năm 2010 giá trị sản xuất xoài chiếm 21,3% giá trị sản xuất và 19,1% diện tích trồng của cây ăn trái. Xoài được trồng chủ yếu ở huyện Vĩnh Cửu và Xuân Lộc. + Vùng chuyên canh chôm chôm: Đây là cây ăn trái đặc sản, nổi tiếng của tỉnh Đồng Nai. Năm 2010 giá trị sản xuất chôm chôm chiếm 40,1% giá trị sản 87 xuất và 22,6% diện tích trồng của cây ăn trái, được trồng chủ yếu ở TX.Long Khánh, huyện Xuân Lộc và Thống Nhất. - Vùng chuyên canh cây lương thực: Lương thực là cây trồng chính trong nhóm cây hàng năm của tỉnh Đồng Nai, chiếm 61,5% giá trị xủa xuất của cây hàng năm và chiếm 21,7% giá trị sản xuất ngành trồng trọt. + Vùng chuyên canh lúa: Lúa là cây lương thực chính của địa phương với diện tích gieo trồng lúa năm 2010 là 69430ha, chiếm 59,28% diện tích đất trồng cây hàng năm [8]. Đất trồng lúa nước phân bố chủ yếu ở các khu vực Đồng Bằng ven sông Đồng Nai, sông Thị Vải, sông La Ngà chiếm nhiều nhất thuộc các huyện: Tân Phú (13064 ha), Xuân Lộc (12748ha), Định Quán (10453ha), Vĩnh Cửu (7623ha) và Nhơn Trạch (7464ha).Các địa phương này chiếm 73,69% diện tích trồng lúa và 73,13% sản lượng lúa cả năm của tỉnh. Tuy nhiên trong những năm gần đây diện tích lúa của các địa phương này bị giảm đi đáng kể (từ năm 2006 đến 2010 diện tích trồng lúa giảm 3035ha). Sở dĩ diện tích trồng lúa giảm là do một số vùng trồng lúa năng suất kém của huyện Nhơn trạch và Long Thành bị nhiễm mặn và một phần chuyển đổi sang các mục đích khác như: xây dựng khu công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, đất ở và sử dụng vào các mục đích khác. + Vùng chuyên canh ngô: Ngô là cây lương thực có hạt chính đứng thứ 2 sau cây lúa và chiếm 40,72% diện tích cây lương thực có hạt của tỉnh. Năm 2010 tổng diện tích ngô của tỉnh đạt 47.697ha và sản lượng đạt 282.400 tấn. Đứng đầu vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và xếp thứ 5 cả nước sau tỉnh Sơn La, Đăklăk, Nghệ An và Thanh Hóa cả về diện tích và sản lượng. Trong đó vùng trồng ngô lớn tập trung của tỉnh là huyện Xuân Lộc và Cẩm Mỹ (chiếm xấp xỉ 50% diện tích và sản lượng ngô của cả tỉnh). 88 2.3.1.2. Công nghiệp a) Cụm công nghiệp Căn cứ vào khoản 1 điều 2 của quyết định số 06 ngày 10/01/2007 của Chủ tịch UBDN tỉnh Đồng Nai ban hành qui định tạm thời về tổ chức quản lí cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp của tỉnh có qui định: Cụm công nghiệp là tên gọi chung cho các cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp do Chủ tịch UBND tỉnh quyết định thành lập. Theo quy hoạch phát triển cụm công nghiệp của tỉnh nhằm bố trí các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống trong diện di dời khỏi nội thành, nội thị hoặc các khu dân cư tập trung và thu hút các dự án đầu tư mới với quy mô vừa và nhỏ. Cụm công nghiệp có ranh giới xác định và không có dân cư sinh sống. Năm 2010 tỉnh Đồng Nai có 8 CCN trên tổng số 43 CCN được phê duyệt thành lập đã đi vào hoạt động (bảng 2.14). Bảng 2.14: Quy mô và tỷ lệ diện tích doanh nghiệp thuê của các cụm công nghiệp tỉnh Đồng Nai năm 2010 Đơn vị hành chính Số lượng Cụm công nghiệp Diện tích quy hoạch (ha) Diện tích đã cho thuê (ha) Tỷ lệ diện tích đất cho thuê (%) TP. Biên Hòa 3 227,33 73,63 32,39 H. Vĩnh Cửu 3 405 11,29 2,79 H. Nhơn Trạch 1 94 14 14,89 Tổng số 8 726,33 98,92 13,62 Nguồn: tổng hợp số liệu từ báo cáo danh mục các cụm CN trên địa bàn tỉnh Đồng Nai của Sở Công thương năm 2010 Mục đích ra đời của các cụm công nghiệp chính là nhằm di dời các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề truyền thống, tồn tại phân tán ở các huyện, thị xã, thành phố, nhất là khu vực trung tâm TP. Biên Hòa và các khu vực nội thị, các khu dân cư, đang hoạt chưa kiểm soát hết được

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2013_01_28_4157675956_9462_1869351.pdf
Tài liệu liên quan