Luận án Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng tiểu vùng Tây Bắc

LỜI CAM KẾT . i

LỜI CẢM ƠN . ii

MỤC LỤC . iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT . vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU . vii

DANH MỤC HÌNH . ix

DANH MỤC BIỂU ĐỒ. x

LỜI MỞ ĐẦU . 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU . 8

1.1. Nghiên cứu về du lịch cộng đồng . 8

1.1.1. Cộng đồng. 8

1.1.2. Du lịch cộng đồng . 10

1.2. Nghiên cứu về phát triển du lịch cộng đồng . 13

1.2.1. Quan điểm về phát triển trong nghiên cứu . 13

1.2.2. Phát triển du lịch cộng đồng . 17

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng . 25

1.3.1. Sức hấp dẫn của điểm đến du lịch . 25

1.3.2. Khả năng tiếp cận điểm đến du lịch . 26

1.3.3. Tính tiện nghi của điểm đến du lịch . 28

1.3.4. Sự tham gia của người dân địa phương . 29

1.3.5. Kiến thức và kỹ năng về du lịch của người dân địa phương . 30

1.3.6. Lãnh đạo cộng đồng . 32

1.3.7. Sự hỗ trợ của các tổ chức trong cộng đồng . 33

1.3.8. Hợp tác và hỗ trợ từ bên ngoài cộng đồng . 34

1.4. Xác định khoảng trống nghiên cứu và định hướng nghiên cứu . 35

Tiểu kết chương 1 . 38

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU . 39

2.1. Cơ sở lý thuyết liên quan đến nghiên cứu . 39

2.1.1. Lý thuyết phát triển bền vững . 39

pdf232 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 406 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu một số nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch cộng đồng tiểu vùng Tây Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8 Giường/đệm ngủ cho khách đảm bảo sạch sẽ, thoáng mát Ni Made Ernawati (2015); CHD9 Có nhiều địa điểm thuận tiện cho hoạt động mua sắm quà lưu niệm, sản phẩm truyền thống địa phương Khánh Giao (2011); Baum (2013); CHD10 Các sản phẩm quà lưu niệm nhỏ gọn, thuận tiện để khách du lịch có thể vận chuyển mang về nhà Ni Made Ernawati (2015); Nguồn: Tổng hợp của tác giả +) Kiến thức và kỹ năng về du lịch của người dân địa phương Kiến thức và kỹ năng về du lịch của người dân địa phương (ký hiệu: KKT) trong nghiên cứu được hiểu là những hiểu biết về du lịch và cách thức mà người dân địa phương triển khai hoạt động CBT trong cộng đồng của mình. Tác giả tiếp cận đánh giá nhân tố kiến thức và kỹ năng về du lịch của người dân địa phương ảnh hưởng đến phát triển CBT tại khu vực nghiên cứu dựa trên 7 thước đo (bảng 3.12) được kế thừa và điều chỉnh từ các nghiên cứu của Davis và cộng sự (1988); Andereck và cộng sự (2005); Nopparat Satarat (2010); Moscardo (2010); Ni Made Ernawati (2015). 83 Bảng 3.12: Tổng hợp thước đo kiến thức và kỹ năng về du lịch của người dân Ký hiệu Mô tả thước đo Nguồn tham khảo KKT1 Người dân được đào tạo kỹ năng và kiến thức về CBT Ni Made Ernawati (2015); Moscardo (2011); KKT2 Hướng dẫn viên là người bản địa, có thể hướng dẫn và giải thích các chi tiết về tài nguyên thiên nhiên và văn hóa của bản mình cho du khách Nopparat Satarat (2010); Ni Made Ernawati (2015); KKT3 Hướng dẫn viên sẵn sàng hỗ trợ giúp khách và chủ nhà trao đổi thông tin một cách thuận tiện, rõ ràng Nopparat Satarat (2010); Andereck và cộng sự (2005); Davis và cộng sự (1988) KKT4 Các tour du lịch trong bản luôn gắn với cuộc sống hàng ngày của người dân Nopparat Satarat (2010); Ni Made Ernawati (2015); KKT5 Người dân sẵn sàng chia sẻ những bài học, kinh nghiệm lao động sản xuất để du khách học tập, trải nghiệm Ni Made Ernawati (2015); Andereck và cộng sự (2005); Davis và cộng sự (1988) KKT6 Khách du lịch luôn thấy thoải mái nói chuyện và trao đổi kiến thức với các thành viên trong cộng đồng Nopparat Satarat (2010); Andereck và cộng sự (2005); Davis và cộng sự (1988) KKT7 Các bộ phận và các thành viên trong cộng đồng được phân chia nhiệm vụ rõ ràng và có ý thức hợp tác/phối hợp với các bên liên quan trong quá trình hoạt động CBT Moscardo (2011); Andereck và cộng sự (2005); Davis và cộng sự (1988) Nguồn: Tổng hợp của tác giả +) Hợp tác và hỗ trợ từ bên ngoài cộng đồng Hợp tác và hỗ trợ từ bên ngoài cộng đồng trong nghiên cứu được hiểu là sự liên kết, phối hợp hợp cùng thực hiện CBT giữa cộng đồng địa phương với các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp khác bên ngoài cộng đồng. Từ tổng quan nghiên cứu đã chỉ ra Hợp tác và hỗ trợ từ bên ngoài cộng đồng có thể cung cấp, trợ giúp cho cộng đồng trong việc điều hành CBT, bao gồm cả hỗ trợ về kinh phí cho cho phát triển du lịch, cũng như cung cấp những tư vấn cho hoạt động kinh doanh CBT (Hiwasaki, L, 2006). Kế thừa kết quả nghiên cứu của các học giả trước đây, kết hợp tham vấn ý kiến chuyên gia, luận án đánh giá ảnh hưởng của nhân tố hợp tác và hỗ trợ từ bên ngoài cộng đồng đến phát triển CBT tại khu vực nghiên cứu trên ba đối tượng là hợp tác và hỗ trợ của chính quyền (ký hiệu: HCQ); doanh nghiệp (ký hiệu: HDN) và tổ chức phi chính phủ (ký hiệu: HPC) 84 với mục đích nhằm đánh giá xem đơn vị/tổ chức nào giữ vai trò quan trọng hơn trong tư vấn, hỗ trợ, quảng bá hoạt động CBT cũng như đào tạo tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng cho người dân địa phương phát triển CBT tại khu vực nghiên cứu. Bảng 3.13: Tổng hợp thước đo hợp tác và hỗ trợ từ bên ngoài cộng đồng Ký hiệu Mô tả thước đo Nguồn tham khảo HCQ1 Chính quyền địa phương giữ vai trò quan trọng trong tư vấn, hỗ trợ cho người dân cách làm du lịch Armstrong (2012); Hiwasaki, L (2006); Reid, M., và Gibb, K, (2004); Brennan và Allen (2001); Kibicho (2008); Lucchetti và Font (2013) HCQ2 Chính quyền địa phương hỗ trợ giúp cộng đồng trong việc tiếp thị và quảng bá các hoạt động CBT Armstrong (2012); Hiwasaki, L (2006); Reid, M., và Gibb, K, (2004); Brennan và Allen (2001); Kibicho (2008); Lucchetti và Font (2013) HCQ3 Chính quyền địa phương tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn cho người dân nâng cao kỹ năng và kiến thức về CBT Armstrong (2012); Hiwasaki, L (2006); Reid, M., và Gibb, K, (2004); Brennan và Allen (2001); Kibicho (2008); Lucchetti và Font (2013) HDN1 Doanh nghiệp kinh doanh CBT giữ vai trò quan trọng trong tư vấn, hỗ trợ cho người dân cách làm du lịch Armstrong (2012); Hiwasaki, L (2006); Reid, M., và Gibb, K, (2004); Brennan và Allen (2001); Kibicho (2008); Lucchetti và Font (2013) HDN2 Doanh nghiệp kinh doanh CBT hỗ trợ giúp cộng đồng trong việc tiếp thị và quảng bá các hoạt động CBT Armstrong (2012); Hiwasaki, L (2006); Reid, M., và Gibb, K, (2004); Brennan và Allen (2001); Kibicho (2008); Lucchetti và Font (2013) HDN3 Doanh nghiệp tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn cho người dân nâng cao kỹ năng và kiến thức về CBT Armstrong (2012); Hiwasaki, L (2006); Reid, M., và Gibb, K, (2004); Brennan và Allen (2001); Kibicho (2008); Lucchetti và Font (2013) HPC1 Tổ chức phi chính phủ giữ vai trò quan trọng trong tư vấn, hỗ trợ cho người dân cách làm du lịch Armstrong (2012); Hiwasaki, L (2006); Reid, M., và Gibb, K, (2004); Brennan và Allen (2001); Kibicho (2008); Lucchetti và Font (2013) HPC2 Tổ chức phi chính phủ hỗ trợ giúp cộng đồng trong việc tiếp thị và quảng bá các hoạt động CBT Armstrong (2012); Hiwasaki, L (2006); Reid, M., và Gibb, K, (2004); Brennan và Allen (2001); Kibicho (2008); Lucchetti và Font (2013) HPC3 Tổ chức phi chính phủ tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn cho người dân nâng cao kỹ năng và kiến thức về CBT Armstrong (2012); Hiwasaki, L (2006); Reid, M., và Gibb, K, (2004); Brennan và Allen (2001); Kibicho (2008); Lucchetti và Font (2013) Nguồn: Tổng hợp của tác giả 85 - Biến kiểm soát Ngoài các biến độc lập và biến phụ thuộc, mô hình nghiên cứu còn có các biến kiểm soát liên quan đến đối tượng khảo sát, gồm: Giới tính; Độ tuổi; Dân tộc; Trình độ học vấn; Tình trạng hôn nhân; Thời gian tham gia hoạt động CBT; Thu nhập trung bình/tháng. *) Đánh giá độ tin cậy của thước đo Jennings (2010) cho rằng, độ tin cậy giữ vai trò quan trọng trong nghiên cứu, các nhà nghiên cứu cần đảm bảo các công cụ thu thập số liệu - đó là các câu hỏi và các biện pháp được sử dụng đảm bảo mức độ tin cậy và hợp lệ. Có hai loại độ tin cậy là độ tin cậy bên trong và bên ngoài (Creswell, 2007). Độ tin cậy bên trong đề cập đến tính nhất quán của các câu trả lời của người trả lời hoặc sự giống nhau giữa các mẫu phản hồi ở các cuộc điều tra khác nhau trong một nghiên cứu. Độ tin cậy bên ngoài thể hiện tính tổng quát, mức độ mà các mẫu đại diện cho tổng thể (Miles & Huberman, 1994). Để đánh giá độ tin cậy của các thước đo cho các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển CBT như trình bày, tác giả đã tiến hành tham khảo ý kiến chuyên gia, tổng hợp các chỉ báo liên quan đến các nhân tố trong nghiên cứu. Sau đó, xây dựng bảng hỏi sơ bộ, tiến hành điều tra 100 đối tượng là người dân địa phương tại các điểm CBT thuộc tỉnh Sơn La và Điện Biên, các đơn vị mẫu được chọn theo phương pháp lấy mẫu tiện lợi, phi xác suất nhằm phát hiện những lỗi mắc phải trong điều tra và là căn cứ để tác giả điểu chỉnh bảng câu hỏi đảm bảo tính dễ hiểu và tính nhất quán, đồng bộ, phù hợp với điều kiện chung nhất của các đối tượng khảo sát. Tiếp tục điều chỉnh thước đo thông qua trao đổi, tham vấn ý kiến 9 chuyên gia, từ đó xây dựng được bảng hỏi chính thức cho nghiên cứu. *) Chọn mẫu nghiên cứu chính thức Thông thường có hai phương pháp chọn mẫu là chọn mẫu ngẫu nhiên (probability sampling) và chọn mẫu phi xác suất (non-probability sampling), tuy nhiên, chọn mẫu ngẫu nhiên là phương pháp thường được sử dụng hơn. Chọn mẫu ngẫu nhiên là tập hợp các phương pháp chọn mẫu, theo đó, mỗi phần tử mẫu đều có cơ hội được chọn và trở thành thành viên của mẫu (Nguyễn Đình Thọ, 2013). Trong nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Trong phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, thường có bốn phương pháp thực hiện là (1) chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản; (2) chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng; (3) chọn mẫu hệ thống và (4) chọn mẫu theo nhóm. Mỗi phương pháp đều có những ưu, nhược điểm riêng, trong phạm vi nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên 86 phân tầng, phương pháp này có ưu điểm là tính phân bố và đồng nhất cao, điều này giúp cho hiệu quả thống kê cao. Theo Nguyễn Đình Thọ (2013), chọn mẫu theo phương pháp phân tầng là việc phân chia tổng thể thành những nhóm nhỏ thỏa mãn tiêu chí các phần tử trong cùng một nhóm có tính đồng nhất cao và các phần tử giữa các nhóm có tính dị biệt cao. Cũng theo tác giả, việc chọn mẫu phân tầng có thể thực hiện theo tỷ lệ (proportionate stratified sampling) hoặc không theo tỷ lệ (disproportionate stratified sampling). Do đặc điểm của khu vực nghiên cứu có địa hình phức tạp, việc di chuyển giữa các điểm nghiên cứu mất khá nhiều thời gian, nhiều điểm đến giao thông đi lại không thuận tiện. Do vậy, tác giả lựa chọn phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng không theo tỷ lệ tại 11 điểm CBT thuộc 4 tỉnh tiểu vùng Tây Bắc, các điểm điều tra và số lượng phiếu điều tra không tỷ lệ với tổng thể mẫu. Liên quan đến mẫu nghiên cứu, có nhiều quan điểm khác nhau trong việc xác định kích thước mẫu. Tuy nhiên, Burns và Bush (1995) cho rằng, có 3 nhân tố cần được xem xét khi cân nhắc đến quy mô mẫu nghiên cứu là: (1) Số lượng các thay đổi của tổng thể; (2) Độ chính xác mong muốn; (3) Mức độ tin cậy cho phép trong ước lượng giá trị của tổng thể. Theo Mugenda (1999) cỡ mẫu cho một tổng thể là từ 10.000 trở lên hoặc tổng thể lớn và không biết chính xác quy mô của tổng thể thì tính theo công thức: Trong đó: - N là quy mô mẫu nghiên cứu; - Z là giá trị phân phối hai bên tương ứng với độ tin cậy lựa chọn, với độ tin cậy sử dụng là 95% thì giá trị Z = 1,96; - e là sai số chọn mẫu cho phép (mức sai lầm cho phép mắc phải), trong nghiên cứu sử dụng mức sai số cho phép +/- 5%; - p là tỷ lệ trong tổng thể của biến nghiên cứu, theo Burns và Bush (1995) thì số lượng các thay đổi của tổng thể 50% thường được chỉ ra trong các nghiên cứu xã hội. Do vậy, các nghiên cứu trong thực tiễn thường chọn mức p = 50% (hay 0,5), vì đây được coi là mức độ an toàn trong xác định quy mô mẫu nghiên cứu. Kích thước mẫu tổi thiểu cho quy mô từ 10.000 nhân khẩu trở lên, đối chiếu bảng thống kê thì kích cỡ mẫu tối thiểu là 384 phiếu. 2 2 2 )1( e ppZ N − = α 87 Trong trường hợp số lượng tổng thể ít hơn 10.000 thì được tính theo công thức Trong đó: - Nf: kích thước mẫu mong muốn khi tổng thể dưới 10.000 - n: cỡ mẫu (khi số lượng lớn hơn 10.000) = 384 - N: ước tính quy mô số lượng Theo số liệu thống kê của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, tại thời điểm nghiên cứu có khoảng 16 điểm CBT đang triển khai, số nhân khẩu khoảng 9.000. Tuy nhiên, còn khoảng 30 điểm CBT khác trên địa bàn đang hoạt động nhưng chưa có số liệu thống kê cụ thể. Do vậy, nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu cho quy mô từ 10.000 nhân khẩu trở lên. Nghiên cứu đã điều tra thử nghiệm 100 đối tượng là người dân địa phương tại các điểm CBT thuộc tỉnh Sơn La và Điện Biên trong khoảng thời gian từ tháng 3/2017 đến tháng 5/2017, tỷ lệ phiếu thu về đạt yêu cầu là 75%. Tỷ lệ không đạt yêu cầu là 25%, một số lỗi thường mắc là người được hỏi điền không đầy đủ các thông tin cần thiết hay trả lời một phương án, không hiểu câu hỏi hoặc không trả lời đủ các phương án. Do vậy, để có một cỡ mẫu khoảng 384 thì số lượng phiếu tối thiểu cần chuyển cho các đối tượng điều tra là: Tóm lại, để tăng tính đại diện của mẫu, tác giả đã phát đi 600 phiếu điều tra tại 11 điểm CBT tuộc 4 tỉnh nghiên cứu (tỉnh Hòa Bình 2 điểm; Sơn La 4 điểm; Điện Biên 3 điểm; Lai Châu 2 điểm). Tổng số phiếu thu về là 534 phiếu (đạt khoảng 89%), trong đó số phiếu hợp lệ sử dụng được cho phân tích là 518 phiếu, vượt yêu cầu mẫu tối thiểu cho nghiên cứu. Quá trình thu phát phiếu được tiến hành từ tháng 6/2017 đến tháng 12/2017, một nhóm sinh viên (gồm 7 người thuộc Bộ môn Quản trị Kinh doanh, Khoa Kinh tế, Trường Đại học Tây Bắc) có kinh nghiệm nghiên cứu đã được lựa chọn và hướng dẫn để hỗ trợ tác giả trong thu thập dữ liệu. 384 05,0 )5,01(5,0*96,1 2 2 = − =N Nn nN f /1 + = 512 75 100*384 ==fN 88 3.2.4.3. Phương pháp phân tích số liệu Để đảm bảo những mục tiêu nghiên cứu đề ra, luận án sử dụng phần mềm SPSS22 để hỗ trợ cho việc xử lý số liệu thu thập được trong giai đoạn nghiên cứu định lượng chính thức, cụ thể như sau: - Kiểm định độ tin cậy của thước đo thông qua hệ số Cronbach’s Alpha và và hệ số tương quan biến tổng. Các chỉ báo có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,6 trở lên được coi là chấp nhận được, các chỉ báo có hệ số Cronbach’s Alpha từ 0,7 trở lên được coi là chấp nhận cho việc nghiên cứu (Tavakol và Dennick, 2011). Ngoài ra, các biến quan sát dùng để đo cùng một nội dung nghiên cứu nên chúng phải có tương quan chặt chẽ với nhau. Nếu một biến quan sát có hệ số tương quan biến tổng (hiệu chỉnh) > 0,3 thì biến đó đạt yêu cầu và nếu < 0,3 thì được coi là biến rác cần loại bỏ. - Phân tích nhân tố khám phá EFA để thu gọn, rút trích các biến quan sát có ý nghĩa hội tụ và tách biệt. Các biến quan sát có trọng số (factor loading) nhỏ hơn 0,4 trong EFA sẽ tiếp tục bị loại bỏ (Gerbing & Anderson, 1988). Các biến còn lại sẽ được sử dụng cho phân tích tương quan pearson và hồi quy đa biến để kiểm định độ thích ứng của mô hình lý thuyết và các giả thuyết. - Phân tích tương quan: Với giả định các biến độc lập và biến phụ thuộc có tương quan với nhau, mối tương quan này sẽ được kiểm tra bằng hệ số Pearson. Nếu hệ số này khác 0 và có ý nghĩa thống kê, chứng tỏ biến độc lập và biến phụ thuộc có tương quan với nhau. - Hồi quy đa biến, được thực hiện nhằm xem xét mức độ, thứ tự tác động từng nhân tố ảnh hưởng đến phát triển CBT tiểu vùng Tây Bắc Việt Nam bằng phương pháp ước lượng tổng bình phương nhỏ nhất (OLS). Tiêu chuẩn kiểm định lấy theo mức ý nghĩa 5% để đưa ra kết luận chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết; giá trị R bình phương hiệu chỉnh (Adjusted Square) được sử dụng để xem xét mức độ biến động của biến phát triển CBT do các nhân tố tác động đến. - Kiểm tra các khuyết tật trong mô hình hồi quy như hiện tượng đa cộng tuyến (hệ số VIF); hiện tượng tự tương quan (thống kê Durbin-Watson); sự phù hợp của mô hình nghiên cứu với tập dữ liệu khảo sát (thống kê Fisher). Ngoài ra, để kiểm tra sự khác biệt trung bình những tác động của biến nhân khẩu, kiểm định T-test cho 2 biến giới tính và tình trạng hôn nhân; kiểm định ANOVA cho các biến nhân khẩu còn lại cũng được sử dụng để kiểm soát mức độ giải thích của biến nhân khẩu này đối với phát triển CBT tại tiểu vùng Tây Bắc Việt Nam. 89 Tiểu kết chương 3 Trong chương này, luận án đã giải quyết một số vấn đề sau: Thứ nhất, trình bày khái quát một số chỉ tiêu về đặc điểm kinh tế - xã hội của khu vực nghiên cứu, một số đặc điểm về cơ sở vật chất, kỹ thuật và nguồn nhân lực trong phát triển CBT tại tiểu vùng Tây Bắc; Thứ hai, trình bày chi tiết việc thiết kế nghiên cứu, trong đó tập trung vào xây dựng quy trình nghiên cứu của luận án gồm cả nghiên cứu định tính và định lượng. Tổng hợp thành 4 bước từ xây dựng thước đo đến nghiên cứu định tính; nghiên cứu định lượng sơ bộ; nghiên cứu định lượng chính thức. Thứ ba, trình bày mục tiêu, đối tượng nghiên cứu định tính; phương pháp thực hiện; cách thức chọn mẫu cũng như phương pháp phân tích số liệu; Thứ tư, trình bày mục tiêu, đối tượng nghiên cứu định lượng; phương pháp thực hiện; cách chọn mẫu nghiên cứu cũng như phương pháp phân tích số liệu. Xác định phương pháp chủ đạo giúp xử lý thông tin, số liệu trong nghiên cứu, gồm phân tích thống kê, tổng hợp so sánh, phân tích định lượng. Luận án đã sử dụng phần mềm SPSS22 để hỗ trợ cho phân tích đánh giá số liệu trong nghiên cứu định lượng. 90 CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. Kết quả nghiên cứu định tính Căn cứ mục tiêu và các công việc cụ thể phải thực hiện của nghiên cứu định tính trong mục 3.2.3.1, một số nội dung cụ thể về kết quả nghiên cứu định tính được tác giả tổng hợp như sau: 4.1.1. Đánh giá phát triển CBT tiểu vùng Tây Bắc Sau khi tham khảo ý kiến chuyên gia, mười hai thước đo được sử dụng để đánh giá sự phát triển CBT tại tiểu vùng Tây Bắc (bảng 3.8) được sử dụng trong nghiên cứu định tính, tác giả đã tiến hành các cuộc thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu hai đối tượng là người dân địa phương và khách du lịch (bảng 3.5), kết quả như sau: Đối với người dân địa phương, tác giả đã hỏi những người dân địa phương tại các điểm nghiên cứu câu hỏi CBT có giúp gì cho cuộc sống của ông/bà? Ông/bà có cảm nhận được hoạt động du lịch của bản mình phát triển hay không? Kết quả phỏng vấn chỉ ra có 20/20 người dân được hỏi cho rằng hoạt động CBT tại bản của họ phát triển vì đã tạo thêm việc làm và thu nhập cho họ: “ Khách du lịch đã góp phần tích cực vào sự phát triển của bản chúng tôi, nó tạo thêm thu nhập và việc làm cho nhiều hộ gia đình trong bản, hiện tại gia đình chúng tôi đang triển khai dịch vụ nhà nghỉ, bán hàng tạp hóa, các thành viên trong gia đình tôi vừa phục vụ nhà nghỉ, vừa chạy xe ôm/xe điện và hướng dẫn du khách” (phỏng vấn người dân địa phương 3). Chất lượng cuộc sống của người dân trong thôn bản cũng được cải thiện, khoảng 2/3 số người được hỏi cho rằng hệ thống giao thông đi lại trong bản đã được bê tông hóa hoặc dải sỏi nên đi lại thuân tiện, hàng quán mọc lên nhiều hơn. Đồng thời, một số điểm trường học trong bản được các tổ chức, đoàn khách du lịch tình nguyện trao tặng tủ sách, tủ thuốc. Bên cạnh đó, họ còn được hưởng lợi ích gián tiếp từ việc trích lập các quỹ chung cho cộng từ nguồn thu của hoạt động kinh doanh CBT để phát triển thôn bản: “ nếu tham gia biểu diễn văn nghệ mỗi buổi tôi được từ 50.000 đến 250.000 đồng. Nếu khách ngủ qua đêm thì giao động khoảng 50.000 đến 70.000 đồng/khách/đêm, ngoài ra còn nhiều khoản thu khác mà khách phải trả như mua hàng, ăn uống. Các khoản này người dân phải trích lại 10% vào quỹ chung của cộng đồng” (phỏng vấn người dân địa phương 6). Một số ít (4/20) người được phỏng vấn cho rằng hoạt động du lịch tại bản đã thúc đẩy việc khôi phục, duy trì và phát triển các nghề thủ công truyền thống như dệt thổ cẩm, đan lát cũng như một số phong tục tập quán truyền thống trước đây: “Trong bản đang khôi phục lại nghề thêu, dệt thổ cẩm. Trước kia chúng tôi đều biết làm nhưng do 91 mất thời gian nên đã bỏ, tuy nhiên bây giờ nhiều gia đình trong bản có một khung cửi trong nhà và dệt khi nào có khách quan tâm” (phỏng vấn người dân địa phương 12). Có 2/20 người được phỏng vấn cho biết ngoài việc tăng thu nhập cho người dân, phát triển CBT trong bản còn được thể hiện qua ý thức của họ đối với giữ gìn vệ sinh môi trường thôn bản như công tác vệ sinh đường làng, nhiều bản có khu để rác và nhà vệ sinh công cộng, nhiều gia đình không còn thói quen chăn thả gia súc, gia cầm dưới gầm sàn. Việc tham quan các khu di tích, hang động cũng tác động đến người dân và du khách trong công tác bảo vệ môi trường tốt hơn: “Tôi nhận thấy có sự thay đổi đáng kể từ khi triển khai du lịch cộng đồng tại bản, mọi người cũng chú ý hơn trong việc dọn dẹp đường trong bản hay các khu công cộng và nhà cửa. Công tác vệ sinh xung quanh cũng được quan tâm nhiều hơn, không vứt rác bừa bãi” (phỏng vấn người dân địa phương 4). Tuy nhiên, vẫn còn 18/20 người được hỏi cho rằng vấn đề liên quan đến cảnh quan tự nhiên, suy thoái môi trường sống cũng được người dân phản ánh như “hệ thống thoát nước trong bản chưa được quan tâm, vẫn còn hiện tượng phóng uế, vứt rác bừa bãi gây mùi hôi thối” (phỏng vấn người dân địa phương 17); hay hiện tượng chặt cây, san lấp ao hồ để làm bãi đậu xe ở Mai Châu, Hòa Bình, Bản Áng, Mộc Châu. Bằng kỹ thuật quan sát trong quá trình phỏng vấn tác giả nhận thấy thực tế vẫn còn một số hạn chế như việc chăn thả gia súc, gia cầm bừa bãi gây mất vệ sinh trong thôn bản vẫn còn; nhiều gia đình vẫn chăn thả gia súc, gia cầm và để đồ dùng dưới gầm sàn nhà. Nhiều bản đã có thùng đựng rác công cộng nhưng ý thức vứt rác bừa bãi vẫn còn, hệ thống nước thải vẫn chảy ra đường đi. Một số nghề thủ công truyền thống (dệt vải, đan lát) được cho là có phục hồi, tuy nhiên vẫn còn rất khiêm tốn và chưa thực sự được chú trọng. Văn hóa, phong tục tập quán truyền thống cũng có phần bị giao thoa, không còn giữ được những nét đặc trưng riêng có. Khi được hỏi quan điểm đánh giá của ông/bà về sự hài lòng của khách du lịch đến thăm làng bản mình, các thành viên trong nhóm thảo luận 2, tại bản Bon, Mường Chiên, Quỳnh Nhai cho rằng: “khách du lịch rất gần gũi và thân thiện, họ hòa nhập rất nhanh vào các hoạt động lao động giao lưu, nhất là giao lưu văn nghệ, lửa trại”. Ngoài ra, khách du lịch cũng rất thích đi ngắm cảnh và chụp ảnh quanh làng bản, “họ tỏ ra thích thú khi được xem và chụp những tấm hình về những công cụ lao động của người dân như coọng nước; khung cửi, lò rèn” (thảo luận nhóm 1, Bản Mển, Điện Biên). Các thành viên cả 2 nhóm thảo luận đều cho rằng hoạt động CBT góp phần quan trọng đối với quảng bá hình ảnh địa phương. “Chúng tôi cho rằng qua những hoạt động CBT như thế này, nếu làm tốt sẽ góp phần quảng bá hình ảnh của bản làng chúng tôi, đặc biệt là vấn đề ẩm thực và văn hóa truyền thống của địa phương”. 92 Đối với khách du lịch, 14/17 khách được hỏi cho biết họ nhận thấy có sự khác biệt rất rõ rệt giữa những người dân tham gia kinh doanh CBT và không tham gia trong cùng một bản, “Tôi thấy những người dân làm CBT họ nhanh nhẹn, cởi mở hơn và cách thức sắp xếp bố trí công việc cũng khác so với những người dân không tham gia hoạt động CBT” (Khách du lịch 14). Điều này đồng nghĩa với những người dân tham gia kinh doanh CBT đã hiểu biết hơn về kỹ năng kinh doanh, kiến thức và kinh nghiệm mới từ việc giao tiếp với khách du lịch. 8/17 người được hỏi cho rằng đánh giá phát triển CBT không chỉ dừng ở việc xem xét các khía cạnh về kinh tế, văn hóa - xã hội và môi trường, mà cần xem xét đến sự tương tác qua lại giữa người dân địa phương và khách du lịch, phát triển những kỹ năng nghề truyền thống “CBT sẽ thực sự phát triển khi có sự tương tác, trao đổi thông tin giữa khách du lịch và người dân địa phương, thêm vào đó những ngành nghề truyền thống, phong tục tập quán cũng được phát triển để đa dạng hóa các sản phẩm du lịch (Khách du lịch 11). Hầu hết khách du lịch được phỏng vấn và thảo luận nhóm đều đồng ý với quan điểm phát triển CBT góp phần quảng bá hình ảnh của địa phương, họ sẵn sàng giới thiệu với người thân/bạn bè của mình đến tham quan du lịch. Tuy nhiên, rất ít khách du lịch (4/17) có mong muốn quay trở lại điểm CBT đã tham quan, “các điểm CBT của Tây Bắc rất đặc trưng cả về cảnh quan và văn hóa, tuy nhiên tôi chỉ cần đi 3 đến 4 điểm là có thể thấy được toàn bộ bức tranh CBT của vùng và không muốn quay lại hay đi tiếp, bởi vì các hoạt động CBT ở các điểm na ná giống nhau, nào là ăn các món dân tộc, múa xòe, uống rượu cần Nếu các điểm CBT không tạo được tính đặc trưng riêng thì sẽ rất khó tồn tại lâu dài và cạnh tranh với các loại hình du lịch khác” (Khách du lịch 8). Liên quan đến vấn đề vệ sinh môi trường, nhiều khách du lịch bày tỏ mối quan ngại về rác thải, đặc biệt là rác thải không thể phân hủy như chai, lọ nhựa, túi nilon còn vứt bừa bãi khắp nơi trong bản. Thêm vào đó là hệ thống thoát nước cũng được đề cập, “chúng tôi cho rằng cần có biện pháp xỷ lý triệt để vấn đề nước thải chảy qua đường gây mùi, ô nhiễm và tắc đọng rác thải, mất vệ sinh và mỹ quan” (Khách du lịch 13). Một số người cho rằng cần trú trọng đến công tác vệ sinh cỏ hai bên đường đi “tôi thấy vấn đề vệ sinh sạch sẽ trong bản cần được quan tâm hơn, hệ thống nước thải ra đường và cây cỏ hai bên đường vẫn còn nhiều, có khi cả phân trâu/bò nữa, nói chung không đẹp lắm” (Khách du lịch 15). Tổng hợp quan điểm đánh giá của người dân địa phương và khách du lịch cho thấy có bốn nội dung được đề cập đến là: (1) phát triển CBT gắn với phát triển kinh tế, tạo thêm sinh kế và thu nhập cho người dân địa phương; (2) góp phần bảo tồn phục hồi giá trị văn hóa, phong tục tập quán truyền thống bản địa; (3) nâng cao ý thức của người 93 dân và khách du lịch trong giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ tài nguyên tự nhiên; (4) đáp ứng nhu cầu của khách khi được tương tác, trải nghiệm với người dân địa phương. Đối với khách du lịch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_mot_so_nhan_to_anh_huong_den_phat_trien_d.pdf
Tài liệu liên quan