LỜI CAM ĐOAN. i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.ii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU.vi
DANH MỤC CÁC HÌNH.vii
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU . 3
1.1. Tổng quan về polysaccharide.3
1.1.1. Giới thiệu chung về polysaccharide.3
1.1.2. Ứng dụng của polysaccharide .4
1.2. Tổng quan về Lactobacillus fermentum.5
1.3. Tổng quan về exopolysaccharide từ vi khuẩn lactic .6
1.3.1. Khái niệm.6
1.3.2. Đặc điểm phân loại và một số đặc tính lý hóa .6
1.3.3. Tính chất chức năng và ứng dụng.14
1.4. Tình hình nghiên cứu về exopolysaccharide từ LAB .20
1.4.1. Về điều kiện nuôi cấy thu nhận EPS.20
1.4.2. Về quá trình tách chiết và tinh chế EPS.23
1.4.3. Về đặc tính hóa lý: khối lượng phân tử, thành phần, liên kết và cấu trúc .
.24
1.4.4. Về tính chất công nghệ và các tác dụng về sức khỏe .34
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .37
3.1. Đối tượng nghiên cứu.37
3.2. Hóa chất, thiết bị và dụng cụ .37
2.2.1. Hóa chất.37
2.2.2. Thiết bị và dụng cụ.37
3.3. Phương pháp nghiên cứu .38
2.3.1. Phương pháp xác định mật độ tế bào vi khuẩn bằng phương pháp đo mật
độ quang (OD).38
2.3.2. Phương pháp nuôi cấy thu nhận sinh khối [6] .38
2.3.3. Phương pháp thu nhận và tách EPS .39
2.3.4. Sơ đồ tổng thể về phương pháp nghiên cứu cải thiện hiệu suất thu nhận
EPS từ một số chủng Lb. fermentum.40
2.3.5. Xác định hàm lượng EPS bằng phương pháp phenol-sulfuric [37].43
2.3.6. Xác định hàm lượng nitơ tổng số bằng phương pháp Kjeldahl [5] .44v
2.3.7. Phương pháp khảo sát một số tính chất có tiềm năng ứng dụng trong công
nghệ thực phẩm .45
2.3.8. Phương pháp xác định khối lượng phân tử và đặc điểm cấu trúc của EPS
.47
2.3.9. Phương pháp xử lý số liệu.50
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN.52
3.1. Kết quả nghiên cứu cải thiện hiệu suất thu nhận EPS từ một số chủng Lb.
fermentum.52
3.1.1. Kết quả tuyển chọn một số chủng Lb. fermentum sinh tổng hợp EPS cao .
.52
3.1.2. Kết quả khảo sát ảnh hưởng của thành phần môi trường lên quá trình sinh
tổng hợp EPS từ các chủng Lb. fermentum tuyển chọn .54
3.1.3. Ảnh hưởng của điều kiện nuôi cấy đến quá trình sinh tổng hợp EPS của
các chủng Lb. fermentum TC13, TC16, TC21, MC3.66
3.1.4. Kết quả khảo sát điều kiện tách EPS từ dịch lên men .82
3.2.1. Khả năng hòa tan trong nước .89
3.2.2. Khảo sát khả năng giữ nước và giữ dầu.91
3.2.3. Khả năng chống oxy hóa.95
3.3. Kết quả phân tích khối lượng phân tử và một số đặc điểm về cấu trúc của các
EPS sinh tổng hợp từ Lb. fermentum MC3 .99
3.3.1. Khối lượng phân tử .99
3.3.2. Đặc điểm về cấu trúc của EPS-MC3.103
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.128
1. Kết luận .128
2. Kiến nghị.130
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ
.131
TÀI LIỆU THAM KHẢO .133
PHỤ LỤ
193 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 542 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu thu nhận, khảo sát cấu trúc và tính chất của Exopolysaccharide sinh tổng hợp từ Lactobacillus Fermentum - Trần Thị Ái Luyến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các nguồn dinh dưỡng vào môi trường chứa 10% sữa tách béo gồm 2%
suc, 0,5% dịch whey protein thì lượng EPS tạo thành tăng mạnh, đạt 135,80 mg/l
[140].
Với các chủng Lb. fermentum TC16, TC21, MC3, ở nhiệt độ 40oC lượng EPS
tạo thành đã giảm nhiều so với mức nhiệt cực đại (35oC), sau đó tiếp tục giảm khi
tăng nhiệt độ lên 45oC. Lượng EPS chỉ còn lại tương ứng đối với các chủng Lb.
fermentum TC16, TC21 và MC3 là 90,19%, 78,22% và 71,45% so với giá trị cực đại.
Sự sai khác về lượng EPS thu được phần lớn đã không xảy ra ở hai mức nhiệt 30 và
45oC khi phân tích phương sai (p < 0,05) (Phụ lục 4.5). Đối với chủng MC3, tại mức
nhiệt 30oC, lượng EPS đạt được là thấp nhất, giảm trên 50% so với mức nhiệt cực đại
(khoảng 236,134 µg/ml). Đối với chủng TC13, lượng EPS tạo thành tăng dần khi
nhiệt độ tăng sau đó giảm mạnh ở mức nhiệt 45oC. Hàm lượng EPS tại mức nhiệt độ
74
này chỉ đạt 360,362 µg/ml (đã giảm 14,03% so với mức cao nhất ở 40 OC). Từ kết
quả phân tích thống kê cho thấy, giá trị EPS thu được ở hai mức nhiệt độ 30 và 45 oC
đối với chủng này là không có sự sai khác (p < 0,05) (Phụ lục 4.5). Ở các mức nhiệt
độ thấp (30oC) và nhiệt độ cao 45oC, khả năng sinh tổng hợp EPS của các chủng đều
ở mức thấp. Điều đó cho thấy rằng, các chủng vi khuẩn này là những chủng vi khuẩn
ưa ấm; do đó, với khoảng nhiệt độ trung bình sẽ kích thích cho quá trình tổng hợp các
hợp chất thứ cấp như EPS tốt hơn.
Quá trình sinh tổng hợp HoPS và HePS đều có liên quan đến các enzyme đặc
hiệu có ở bên trong hoặc ngoài tế bào vi khuẩn. Vi sinh vật thường rất mẫn cảm với
sự thay đổi của nhiệt độ. Tính mẫn cảm này được thể hiện qua sự tác động lên các phản
ứng xúc tác của enzyme. Khi các cơ chất được vận chuyển vào tế bào, dưới tác dụng
của các enzyme đặc hiệu, các sản phẩm lần lượt của quá trình xúc tác này được tạo
thành – đây cũng chính là tiền thân của các đơn vị lặp lại trong phân tử EPS. Chính vì
thế, lí do liên quan đến lượng sản phẩm tạo thành thấp trong các điều kiện này có lẽ
liên quan đến tác động của nhiệt độ lên các phản ứng do enzyme xúc tác. Với phản ứng
có sự xúc tác của enzyme, khi nhiệt độ tăng sẽ làm tăng tốc độ phát triển của vi sinh
vật do đó hoạt động trao đổi chất của chúng cũng tăng lên. Tuy nhiên, khi nhiệt độ tăng
lên đến một mức độ nhất định thì tốc độ sinh trưởng của vi khuẩn lại có xu hướng
ngược lại với sự tăng nhiệt độ và khi nhiệt độ tăng quá cao vi sinh vật sẽ chết. Nhiệt độ
tăng quá cao có thể gây ra sự biến tính của enzyme và các protein khác trong môi
trường do đó làm giảm khả năng xúc tác sự chuyển hóa các chất dinh dưỡng hoặc các
hệ enzyme tham gia tổng hợp PS có thể không hoạt động được. Ngoài ra, nhiệt độ tăng
cao có thể làm tổn thương màng tế bào vi sinh vật đến mức khó phục hồi và dẫn đến
ức chế sự sinh tổng hợp EPS của vi khuẩn [6].
Khả năng tạo thành EPS thấp hơn ở mức nhiệt thấp có thể giải thích rằng, ở mức
nhiệt này, vi khuẩn vẫn tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, khả năng phát triển thường
rất yếu do đó khả năng chuyển hóa các chất dinh dưỡng trong quá trình trao đổi chất
cũng chậm lại. Kết quả của quá trình này là gây nên sự ức chế hoạt động của các hệ
enzyme, làm thay đổi khả năng trao đổi chất của chúng dần dần khiến khả năng sinh
trưởng và phát triển của vi khuẩn mất dần.
75
Như vậy, ảnh hưởng của nhiệt độ đối với sinh trưởng của vi sinh vật phụ thuộc
vào từng loài vi sinh vật. Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng của cùng một loài vi
sinh vật không phải là cố định mà có thể phụ thuộc vào pH, nguồn dinh dưỡng và các
nhân tố khác.
3.1.3.4. Đường cong sinh trưởng và ảnh hưởng của thời gian lên men lên khả năng
sinh tổng hợp EPS của các chủng Lb. fermentum
Quá trình sinh trưởng và phát triển là đặc tính của vi sinh vật sống. Quá trình
sinh trưởng và phát triển này thường xảy ra qua bốn giai đoạn khác nhau. Giai đoạn
đầu tiên là giai đoạn vi sinh vật chưa sinh sản mà chỉ xảy ra quá trình thích nghi với
môi trường mới (pha lag – pha tiền phát); giai đoạn thứ hai (pha log), giai đoạn này
tế bào bắt đầu phát triển mạnh, chất dinh dưỡng giảm nhanh do sự đồng hóa của vi
sinh vật để tạo thành các sản phẩm thứ cấp. Vì thế, để tận thu được tốt lượng sản
phẩm tạo thành từ quá trình trao đổi chất của chúng thì việc kết thúc quá trình nuôi
cấy ở cuối giai đoạn này là phù hợp nhất. Giai đoạn thứ ba (pha ổn định) là giai đoạn
mà quần thể vi sinh vật ở trạng thái cân bằng động. Tổng số tế bào mới sinh ra bao
giờ cũng gần bằng tổng số tế bào chết đi. Và giai đoạn cuối cùng được coi là giai
đoạn suy vong, số lượng tế bào chết sẽ tăng lên. Chính vì vậy, trong quá trình nuôi
cấy thu các sản phẩm thứ cấp, chúng ta cần xác định thời gian tương ứng với các pha
sinh trưởng của vi khuẩn để thu được lượng sản phẩm một cách tối đa. Quá trình phát
triển và sinh tổng hợp các hợp chất thứ cấp có thể xảy ra sớm hoặc muộn hơn tùy loại
vi khuẩn và điều kiện nuôi cấy của chúng (như thành phần dinh dưỡng, nhiệt độ, pH,
). Chính vì thế, để khảo sát quá trình thu nhận EPS hiệu quả từ các chủng Lb.
fermentum TC13, TC16, TC21 và MC3, bốn chủng này được nuôi cấy ở các khoảng
thời gian khác nhau trong môi trường đã được xác định về nguồn C, N, mật độ tế bào,
pH và nhiệt độ thích hợp đối với mỗi chủng để xác định ảnh hưởng của yếu tố thời
gian lên quá trình sinh tổng hợp EPS của chúng. Thực hiện lấy mẫu tại các thời điểm
0, 12, 24, 36, 48, 60 và 72 giờ để xác định thời điểm kết thúc quá trình lên men nhằm
tận thu lượng sản phẩm cao nhất trong môi trường.
Kết quả Hình 3.7a, Hình 3.7b, Hình 3.7d cho thấy rằng, sau 48 giờ lên men, quá
trình sinh tổng hợp EPS của các chủng Lb. fermentum TC13, TC16 và MC3 đều đạt
76
được là cao nhất với hàm lượng thu được lần lượt là 421,378 µg/ml; 406,703 µg/ml;
422,638 µg/ml. Lượng EPS thu được cực đại sau 48 giờ lên men các chủng Lb.
fermentum TC13, TC16 và MC3 cũng là điều kiện mà rất nhiều nghiên cứu đã sử
dụng như một điều kiện tối ưu để nghiên cứu các khía cạnh liên quan đến EPS tiết ra
từ các chủng thuộc LAB [52], [54], [118]. Từ 12 đến 36 giờ lên men, lượng EPS tạo
ra có tăng nhưng tăng chậm. Sau khi đạt cực đại tại 48 giờ, lượng EPS đo được trong
các môi trường giảm mạnh ở 60 và 72 giờ. Lượng EPS của cả ba chủng tại thời điểm
60 giờ nuôi cấy chỉ còn khoảng 85 – 88% và tại 72 giờ khoảng 64 – 88% so với thời
điểm cực đại. Kết quả phân tích thống kê cho thấy lượng EPS thu được từ quá trình
sinh tổng hợp bởi chủng TC13 không có sự sai khác ở thời điểm 12 và 24 giờ; giữa
36 và 60 giờ (p<0,05) (Phụ lục 4.6). Trong khi sự sai khác lại không xảy ra với lượng
EPS tạo thành bởi chủng TC16 giữa các thời điểm 12, 24, 36 giờ và giữa 60 và 72
giờ.
a) pH
0 12 24 36 48 60 72
Thời gian (giờ)
pH b)
0 12 24 36 48 60 72
Thời gian (giờ)
77
So với các chủng Lb. fermentum TC13, TC16, MC3, quá trình tổng hợp của Lb.
fermentum TC21 xảy ra sớm hơn. Lượng EPS đạt cực đại chỉ sau 36 giờ lên men
(405,728 µg/ml), sau đó giảm dần theo thời gian với các giá trị lần lượt là 382,395
µg/ml ở 48 giờ, 382,760 µg/ml ở 60 giờ và 341,175 µg/ml ở 72 giờ (Hình 3.7c).
Nguyên nhân của sự tăng giảm trong quá trình lên men các chủng vi khuẩn này
có lẽ liên quan đến các giai đoạn trong quy luật phát triển của các vi sinh vật. Sau khi
được nuôi cấy vào môi trường, các chủng vi khuẩn thích nghi dần và bắt đầu phát
triển (từ 12 giờ đến 36 giờ). Tốc độ sinh sản của vi sinh vật được tăng lên cực đại,
chỉ số OD trong các môi trường tương ứng tăng mạnh cùng với lượng chất dinh dưỡng
giảm (từ 36 giờ đến 48 giờ). Từ sau 48 giờ, lượng sản phẩm tạo thành sẽ không tăng
pH d)
0 12 24 36 48 60 72
Thời gian (giờ)
c) pH
0 12 24 36 48 60 72
Thời gian (giờ)
Hình 3.7. Ảnh hưởng của thời gian lên men đến quá trình sinh tổng hợp
EPS bởi các chủng Lb. fermentum
Kết quả số liệu nghiên cứu cụ thể được trình bày ở phụ lục 4.6
78
nữa mà bắt đầu có xu hướng giảm. Sự giảm sản phẩm trao đổi chất của vi sinh vật
trong môi trường có thể là do lượng chất dinh dưỡng trong môi trường giảm, một số
enzyme có thể phân giải chính sản phẩm tạo thành của chúng để làm nguồn thức ăn.
Mặt khác, trong quá trình sinh trưởng của vi sinh vật, bên cạnh việc sử dụng các chất
dinh dưỡng trong môi trường thì đồng thời chúng cũng thải ra một số chất gây ức chế
quá trình hấp thụ chất dinh dưỡng của chính bản thân nó, hoặc có thể ức chế hoạt
động của enzyme tổng hợp do đó vi sinh vật phát triển chậm lại và sẽ chuyển sang
trạng thái cân bằng và dần dần sẽ suy vong. Những nguyên nhân này sẽ làm cho lượng
EPS thu được cũng giảm xuống khi thời gian nuôi cấy kéo dài.
Bên cạnh đó, quá trình sử dụng các hợp chất thuộc nhóm carbohydrate của vi
khuẩn sẽ tạo thành các sản phẩm khác nhau trong đó có các acid hữu cơ. Theo thời
gian nuôi cấy, lượng acid tạo thành càng nhiều do đó giá trị pH có xu hướng giảm
dần. Sự biến đổi của pH môi trường có thể đã làm thay đổi trạng thái điện li của các
chất dinh dưỡng chính vì thế làm giảm khả năng sử dụng của chúng. Đây cũng có thể
là nguyên nhân làm giảm quá trình sinh tổng hợp EPS của các chủng LAB. Một lý
do nữa khiến lượng EPS tổng hợp được bị giảm khi kéo dài quá trình nuôi cấy có thể
do enzyme glycohydrolase có sẵn trong môi trường xúc tác quá trình phân hủy các
PS vừa tạo thành [126], [139].
Từ những kết quả thể hiện trên các Hình 3.7 (a, b, c, d) cũng cho thấy có những
mối liên quan nhất định giữa lượng EPS tạo thành với giá trị OD và sự thay đổi của
pH trong suốt thời gian nuôi cấy. Cụ thể chúng tôi nhận thấy rằng, lượng EPS tạo
thành của cả bốn chủng này đều có xu hướng tăng nhanh ở các thời điểm có giá trị
pH môi trường nằm trong khoảng 4,2-4,7. Đây có lẽ cũng là khoảng pH thích hợp
cho các vi khuẩn lactic hoạt động. Ở các giá trị pH khác tương ứng với các thời gian
nuôi cấy khác nhau, lượng EPS tạo thành không cao. Như vậy, sự thay đổi giá trị pH
trong môi trường theo thời gian có thể là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến sự sinh
trưởng và phát triển của vi khuẩn. Và ở các giá trị pH môi trường thấp hoặc cao có
thể là nguyên nhân gây nên sự tổn thương đến tế bào của vi khuẩn; do đó, quá trình
sinh tổng hợp các sản phẩm thứ cấp của nó bị giảm.
79
Đối với giá trị OD, nó có sự liên quan tương đối cao đối với sự sinh tổng hợp
EPS. Đa số các kết quả nghiên cứu đều thể hiện rằng, thời điểm mà EPS tổng hợp
được đạt cực đại cũng chính là thời điểm mà giá trị OD đo được từ môi trường cao
nhất. Cụ thể, đối với chủng Lb. fermentum MC3, lượng EPS đạt được cao nhất vào
thời điểm 48 giờ, đây cũng chính là thời điểm mà OD thu được đạt cao nhất (1,193).
Tương tự, quá trình sinh tổng hợp EPS và giá trị OD đo được từ môi trường đều đạt
cao nhất sau 48 giờ nuôi cấy chủng Lb. fermentum TC16. Như vậy, đối với hai chủng
Lb. fermentum TC16, MC3 thời điểm vi khuẩn phát triển mạnh nhất cũng chính là
thời điểm mà lượng sản phẩm trao đổi chất tạo ra nhiều nhất. Đối với chủng Lb.
fermentum TC13 và TC21, quá trình sinh tổng hợp EPS đạt cực đại không trùng khớp
với thời điểm vi khuẩn phát triển mạnh nhất (OD cao nhất). OD đo được từ môi
trường nuôi cấy chủng Lb. fermentum TC21 theo thời gian đạt cao nhất sau 48 giờ
nuôi cấy, trong lúc đó lượng EPS đạt được tốt nhất ở 36 giờ. Với chủng Lb. fermentum
TC13, giá trị OD đo được đạt cao nhất sau 36 giờ nuôi cấy, trong khi đó lượng EPS
lại thu được cao nhất ở 48 giờ. Như vậy, đối với chủng TC21, có thể nói rằng quá
trình sinh tổng hợp các sản phẩm thứ cấp đạt cực đại xảy ra sớm hơn so với sự phát
triển của vi khuẩn. Ngược lại, quá trình tổng hợp EPS cực đại của chủng Lb.
fermentum TC13 lại xảy ra chậm hơn so với sự phát triển của vi khuẩn. Từ kết quả
nghiên cứu thu được, chúng tôi nhận thấy rằng, quá trình phát triển và sinh tổng hợp
các sản phẩm thứ cấp của mỗi loại vi khuẩn khác nhau còn phụ thuộc vào thành phần
môi trường cũng như điều kiện nuôi cấy. Giá trị OD trong các môi trường chúng tôi
đo được có thể thể hiện sự phát triển của vi khuẩn cũng như những sản phẩm thứ cấp
được tạo thành trong quá trình sinh trưởng của chúng. Những sản phẩm tạo thành này
có thể bao gồm những chất độc và có thể cản trở sự phát triển của vi sinh vật gây
giảm khả năng tổng hợp EPS. Chính vì vậy, dựa vào sự biến đổi của đường cong sinh
trưởng và sản phẩm cần thu để chọn thời điểm kết thúc quá trình nuôi cấy phù hợp
nhất.
Thời gian sinh trưởng và tổng hợp các hợp chất thứ cấp của các loài vi sinh vật
khác nhau thường khác nhau, đặc biệt là khi được nuôi cấy với điều kiện và thành
phần môi trường không giống nhau. Quá trình sinh trưởng và tổng hợp EPS từ Lb.
80
confusus TISTR 1498 đạt được cao nhất (đạt 38,2g/l) xảy ra sau 24 giờ nuôi cấy trong
môi trường MRS chứa 100 g/l suc ở điều kiện pH 5,5, nhiệt độ 35oC [111]. Kết quả
nghiên cứu của Zhang và cộng sự (2011) cho thấy, chủng Lb. fermentum F6 sinh tổng
hợp EPS tăng dần từ khi bắt đầu nuôi cấy và đạt cực đại sau 32 giờ trong môi trường
chứa sữa tách béo, glc và dịch whey protein (WPC) [141]. Khả năng sinh tổng hợp
EPS của Lb. fermentum TDS030603 xảy ra ở các thời điểm khác nhau tùy vào thành
phần môi trường là kết luận của Fukuda và cộng sự (2010) khi nghiên cứu ảnh hưởng
của nguồn carbohydrate lên tính chất lý hóa của EPS sinh ra từ chủng này. Trong môi
trường MRS, lượng EPS thu được cao nhất chỉ sau khoảng 24 giờ nuôi cấy, trong khi
đó, với môi trường MRS có bổ sung thêm glc, lac, gal, quá trình tổng hợp EPS đạt
cực đại sau khoảng 48 giờ nuôi cấy, còn với môi trường MRS có bổ sung thêm suc
thì lượng EPS tạo thành tăng theo thời gian ủ đến khoảng 72 giờ [44]. Nghiên cứu
của Torino và cộng sự (2005) về quá trình sinh tổng hợp EPS của chủng Lb. helveticus
ATCC 15807 cho thấy, quá trình sinh EPS của chủng này xảy ra trong suốt pha phát
triển ở cả hai giá trị pH và đạt cực đại ở pha cân bằng. Lượng EPS tổng hợp được
trong điều kiện môi trường có pH 4,5 đạt cực đại sau 24 giờ nuôi cấy và có giá trị cao
hơn gấp 2,9 lần so với môi trường có pH 6,2. Sau 24 giờ nuôi cấy, quá trình tổng hợp
EPS giảm nhẹ ở pH 6,2 nhưng lại tiếp tục tăng ở pH 4,5 đến 30 giờ mới có chiều
hướng giảm [118]. Quá trình tổng hợp EPS bởi chủng S. salivarius ssp. thermophilus
đã không xảy ra pha phát triển (0-6 giờ) hoặc trước pha cân bằng (6-10 giờ) khi thực
hiện nuôi cấy ở 42 oC. Lượng EPS chỉ thu được với giá trị cực đại giữa thời điểm 14
và 18 giờ ủ [46]. Chủng Lb. delbrueckii subsp. bulgaricus HP1 phân lập từ các hạt
kefir khi được ủ riêng biệt có khả năng sinh tổng hợp EPS đạt cực đại (472,6 mg/L)
sau 28 giờ nuôi cấy. Trong khi đó, hỗn hợp các chủng (gồm Lb. bulgaricus HP1 + S.
thermophilus T15 + Lb. lactis C15 + Lb. helveticus MP12 + S. cerevisiae A13) được
ủ cùng nhau lại sinh tổng hợp EPS đạt cao nhất sau 22 giờ nuôi cấy với lượng EPS
thu được khoảng 824,3 mg/L [43]. Công bố của Zhang và cộng sự (2011) về sự khác
nhau của quá trình sinh tổng hợp EPS bởi S. thermophilus ST1 khi được nuôi cấy ở
các mức nhiệt độ khác nhau (gồm 30, 37 và 42 oC). Theo đó, ở 42oC, lượng EPS thu
được tốt nhất với 59,06 mg/l sau 32 giờ nuôi cấy. Chủng này sinh EPS ít hơn ở 30 và
81
37oC với các giá trị tương ứng ở mức nhiệt độ này là 21,47 mg/l sau 24 giờ và 34,35
mg/l sau 16 giờ nuôi cấy. Trong môi trường sữa tách béo và môi trường sữa tách béo
có bổ sung thêm 0,5% WPC, chủng S. thermophilus ST1 có khả năng tổng hợp EPS
đạt cực đại tương ứng sau 16 giờ (41,10 mg/l) và 24 giờ (82,70 mg/l) ở 42 oC [140].
Tóm lại, quá trình sinh trưởng và phát triển chỉ xảy ra trong một khoảng thời
gian nhất định phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chất dinh dưỡng, điều kiện nuôi cấy
và chất lượng của tế bào nuôi cấy. Khả năng phát triển của vi sinh vật trong môi
trường sẽ xảy ra chậm khi các chất dinh dưỡng trong môi trường giảm và đến hết
khiến vi sinh vật không đủ chất dinh dưỡng để duy trì quá trình trao đổi chất. Mặt
khác, khi tế bào đã đến giai đoạn già hóa hoặc các sản phẩm trao đổi chất trong môi
trường quá nhiều đã gây ức chế quá trình trao đổi chất của tế bào. Chính vì vậy, với
mục đích thu các sản phẩm trao đổi chất thì quá trình nuôi cấy nên kết thúc vào thời
điểm cuối pha log là phù hợp nhất.
Kết luận 1:
Bảng 3.1. Điều kiện thu nhận EPS cao của các chủng Lb. fermentum nghiên cứu
trong luận án
Các
chủng vi
khuẩn Lb.
fermentu
m
Điều kiện thu nhận
Hiệu suất thu
nhận EPS ở
các điều kiện
đã khảo sát so
với môi
trường đối
chứng MRS
(%)
Thành phần môi
trường
Mật độ
tế bào
nuôi
cấy
ban
đầu
(cfu/ml
)
pH
ban
đầu
Nhiệt
độ
nuôi
cấy
(oC)
Thời
gian
lên
men
(giờ)
Nguồn
C
Nguồn
N
TC13 4% glc 0,4%
cao nấm
107 5,5 40 48 353,56
TC16 3% suc 0,8%
cao thịt
106 6,0 35 48 356,95
TC21 4% lac 0,8%
cao thịt
106 6,0 35 36 414,51
MC3 4% glc 0,3%
cao nấm
106 6,0 35 48 479,14
* Số liệu tính hiệu suất thu nhận EPS được trình bày chi tiết ở phụ lục 4.7
82
Như vậy, mỗi chủng vi khuẩn khác nhau sẽ có những điều kiện sinh trưởng của
riêng chúng. Tổng lượng EPS tổng hợp bởi LAB phụ thuộc vào thành phần của môi
trường (nguồn C và N) và điều kiện mà các chủng đó phát triển, như nhiệt độ, pH ban
đầu và thời gian nuôi cấy. Điều kiện thu nhận EPS cao của các chủng Lb. fermentum
nghiên cứu được tổng hợp ở Bảng 3.1.
Từ kết luận này và kết hợp đối chiếu kết quả thu nhận EPS từ các chủng Lb.
fermentum đã được công bố trước đây (Lb. fermentum TDS030603 [44]; Lb.
fermentum F6 [141]; Lb. fermentum CFR 2195 [136]) khi nuôi cấy chúng trong môi
trường chứa nguồn C, N khác nhau ở các điều kiện không giống nhau, chúng tôi nhận
thấy rằng cùng một loài vi khuẩn là fermentum khi được nuôi cấy trong những điều
kiện lên men khác nhau cũng thể hiện khả năng sinh trưởng, phát triển và sinh tổng
hợp EPS khác nhau nhất định. Sự khác biệt về hàm lượng EPS tạo thành này liên
quan đến sự tác động không nhỏ của nhiều yếu tố như nguồn phân lập của các vi
khuẩn, thành phần dinh dưỡng, điều kiện nuôi cấy.
3.1.4. Kết quả khảo sát điều kiện tách EPS từ dịch lên men
3.1.4.1. Ảnh hưởng của nồng độ acid trichloroacetic (TCA) lên khả năng loại bỏ
protein
Để thực hiện khảo sát ảnh hưởng của nồng độ TCA lên khả năng loại bỏ protein
có trong dịch nuôi cấy các chủng vi khuẩn Lb. fermentum, chúng tôi đã tiến hành bổ
sung TCA vào các môi trường lên men ở các nồng độ khác nhau (10, 15, 20, 25, 30,
35, 40%). Thực hiện khuấy trong 24 giờ sau đó thu mẫu và tiến hành xác định hàm
lượng protein còn lại theo phương pháp Kjeldahl và hàm lượng EPS trong dịch nổi
được xác định theo phương pháp phenol – sulfuric.
Kết quả khảo sát thể hiện ở Hình 3.8, 3.9, 3.10, 3.11. Kết quả các số liệu nghiên
cứu cụ thể được trình bày ở phụ lục 5.1.
Kết quả trên các Hình 3.8, 3.9, 3.10, 3.11 cho thấy, khi nồng độ TCA bổ sung
vào tăng lên, lượng protein còn lại trong dịch nuôi cấy đều có xu hướng giảm dần.
Khả năng loại bỏ protein bởi nồng độ TCA bổ sung vào trong dịch lên men của các
chủng khác nhau là không giống nhau.
83
491,053
289,680
0
100
200
300
400
0
100
200
300
400
500
600
10 15 20 25 30 35 40
H
àm
l
ư
ợ
n
g
p
ro
te
in
cò
n
l
ại
(
µ
g
/m
l)
E
P
S
(
µ
g
/m
l)
Nồng độ TCA (%)
Lb. fermentum TC21
EPS Protein
432,110
289,207
287,550
275
280
285
290
295
300
0
100
200
300
400
500
10 15 20 25 30 35 40 H
àm
l
ư
ợ
n
g
p
ro
te
in
cò
n
l
ại
(
µ
g
/m
l)
E
P
S
(
µ
g
/m
l)
Nồng độ TCA (%)
Lb. fermentum TC16
EPS Protein
473,004
261,280
0
100
200
300
400
360
380
400
420
440
460
480
10 15 20 25 30 35 40 H
àm
l
ư
ợ
n
g
p
ro
te
in
cò
n
l
ại
(
µ
g
/m
l)
E
P
S
(
µ
g
/m
l)
Nồng độ TCA (%)
Lb. fermentum TC13
EPS Protein
Hình 3.8. Ảnh hưởng của nồng độ TCA bổ sung lên khả năng loại bỏ protein
và lượng EPS tách từ dịch lên men Lb. fermentum TC21
Hình 3.9. Ảnh hưởng của nồng độ TCA bổ sung lên khả năng loại bỏ protein
và lượng EPS tách từ dịch lên men Lb. fermentum TC16
Hình 3.10. Ảnh hưởng của nồng độ TCA bổ sung lên khả năng loại bỏ protein
và lượng EPS tách từ dịch lên men Lb. fermentum TC13
84
Đối với chủng Lb. fermentum TC13, khả năng loại bỏ protein hiệu quả nhất khi
nồng độ TCA bổ sung vào là 40%. Lượng protein còn lại trong dịch nổi trong trường
hợp này chỉ còn 231,933 µg/ml. Ở nồng độ TCA 40%, lượng EPS thu được tương
ứng rất thấp, chỉ đạt 407,72 µg/ml. Hàm lượng EPS quan sát được là cao nhất với
473,004 µg EPS /ml khi nồng độ TCA bổ sung vào là 15%. Ở nồng độ TCA bổ sung
này, lượng protein còn lại trong dịch nổi cũng tương đối thấp, còn khoảng 261,28
µg/ml. Hàm lượng protein còn lại trong dịch nổi là 261,28 µg/ml cũng là hàm lượng
protein đo được khi nồng độ TCA bổ sung vào là 20%. Tuy nhiên, lượng EPS ở nồng
độ TCA 20% thu được cũng thấp hơn so với EPS tại nồng độ 15% (Hình 3.8). Ở các
nồng độ TCA bổ sung vào cao hơn (25, 30, 35%), lượng EPS có sự khác nhau với
mức ý nghĩa p<0,05 nhưng lượng protein bị loại bỏ lại hầu như không có sự sai khác
khi xử lý thống kê (phụ lục 5.1). Như vậy, mặc dù ở nồng độ TCA là 40%, lượng
protein được loại bỏ tốt hơn so với ở nồng độ 15% nhưng hàm lượng EPS thu được
ở hai nồng độ này thì ngược lại. Do đó, với mục đích là thu nhận EPS hiệu quả chúng
tôi chọn nồng độ TCA bổ sung vào là 15%.
Với chủng Lb. fermentum TC16, lượng protein còn lại trong dịch lên men thấp
và lượng EPS thu được đạt cực đại khi quá trình tủa bằng TCA được thực hiện với
nồng độ bổ sung là 35%. Ở điều kiện này, lượng EPS đạt được khoảng 432,11 µg/ml
và lượng protein còn lại là 287,55 µg/ml. Ở các nồng độ TCA bổ sung vào dịch nuôi
498,817
244,240
0
50
100
150
200
250
300
350
380
400
420
440
460
480
500
520
10 15 20 25 30 35 40
H
àm
l
ư
ợ
n
g
p
ro
te
in
cò
n
l
ại
(
µ
g
/m
l)
E
P
S
(
µ
g
/m
l)
Nồng độ TCA (%)
Lb. fermentum MC3
EPS Protein
Hình 3.11. Ảnh hưởng của nồng độ TCA bổ sung lên khả năng loại bỏ protein
và lượng EPS tách từ dịch lên men Lb. fermentum MC3
85
cấy là 10, 15, 20, 25, 30 và 40%, EPS thu được thấp và lượng protein còn lại có giảm
theo chiều tăng của nồng độ TCA. Tuy nhiên, kết quả phân tích thống kê cho thấy,
hàm lượng EPS thay đổi và có sự khác nhau giữa các nồng độ nhưng khả năng loại
bỏ protein ở các nồng độ TCA bổ sung vào lại không có sự sai khác (p<0,05) (phụ
lục 5.1).
Khả năng loại bỏ protein trong dịch lên men của chủng Lb. fermentum TC21 đạt
hiệu quả cao hơn khi nồng độ TCA bổ sung vào tăng dần từ 10% đến 40% (Hình
3.10). Trong khi đó, khả năng thu EPS lại đạt được cao hơn với nồng độ TCA bổ
sung ở mức thấp là 10, 15, 20%. Đặc biệt, EPS đạt cao nhất với hàm lượng là 491,703
µg/ml khi nồng độ TCA bổ sung vào môi trường là 15%. Ở nồng độ TCA bổ sung
vào là 20%, lượng EPS thu được cũng tương đối cao, đạt 491,053 µg/ml (chiếm
99,87% so với EPS cực đại).
Kết quả phân tích thống kê cho thấy, hàm lượng protein còn lại trong dịch nổi
sau khi ly tâm chỉ có sự sai khác ở hai khoảng nồng độ TCA bổ sung là 10%, 15% và
từ 20 - 40%. Như vậy, mặc dù lượng EPS thu được ở dịch nổi có bổ sung 15% TCA
cao hơn so với EPS trong dịch nổi bổ sung 20% TCA. Tuy nhiên, xét về mối tương
quan để thu nhận EPS hiệu quả, chúng tôi nhận thấy rằng nồng độ TCA bổ sung vào
dịch nuôi cấy vừa có hiệu quả cho cả việc loại bỏ protein và việc thu nhận EPS là
20%.
Ở dịch lên men của Lb. fermentum MC3, lượng protein bị loại bỏ xảy ra theo
chiều hướng tăng dần khi tăng nồng độ TCA bổ sung vào. Khả năng loại bỏ protein
trong dịch lên men đạt cao nhất ở nồng độ TCA bổ sung vào là 40%. Lượng protein
còn lại trong dịch nổi chỉ còn 185,547 µg/ml. Tương ứng với khả năng loại bỏ protein
tốt nhất thì lượng EPS còn lại trong dịch nổi lại được xác định là giảm khá nhiều so
với lượng EPS ở các nồng độ khác. Lượng EPS thu được tốt nhất sau khi ly tâm dịch
nuôi cấy có bổ sung thêm 20% TCA, đạt khoảng 498,817 µg/ml. Kết quả phân tích
thống kê cho thấy, khả năng tách bỏ protein hầu như không có sự sai khác ở các nồng
độ 10% và 15%; 20%, 25% và 30%; 30% và 35%; 35% và 40%. Trong khi đó, sự sai
khác đã xảy ra đối với lượng EPS thu được khi xử lý thống kê (phụ lục 5.1). Cụ thể
là, lượng EPS thu được có sự sai khác rõ rệt với mức ý nghĩa p < 0,05 ở ba nồng độ
86
TCA là 15%, 20% và 25%. Ở các nồng độ 30%, 35%, 40% lượng EPS thu được
không có sự sai khác. Kết hợp các kết quả ở trên, chúng tôi chọn nồng độ TCA bổ
sung phù hợp nhất để loại bỏ protein trong dịch lên men của chủng Lb. fermentum
MC3 là 20%.
Nồng độ TCA sử dụng để loại bỏ protein ra khỏi dịch lên men trong nhiều
nghiên cứu thu nhận EPS từ LAB không cố định và thay đổi khác nhau tùy nhóm tác
giả. Chẳng hạn, nồng độ TCA sử dụng trong quá trình tách chiết EPS từ dịch lên men
của các chủng thuộc LAB trong các nghiên c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_nghien_cuu_thu_nhan_khao_sat_cau_truc_va_tinh_chat_c.pdf