MỤC LỤC 
DẪN LUẬN 
1. LÝ DO CHỌN ĐỀTÀI . 1 
2. LỊCH SỬNGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ. 2 
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU. 5 
4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 6 
5. ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN . 8 
6. BỐCỤC CỦA LUẬN ÁN. 9 
CHƯƠNG 1 
MỘT SỐĐẶC ĐIỂM VỀTỰNHIÊN, KINH TẾ- XÃ HỘI VÀ ĐỊA 
LÝ HÀNH CHÍNH CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG 
1.1. ĐẶC ĐIỂM TỰNHIÊN . 11 
1.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ- XÃ HỘI . 15 
1.2.1. Đặc điểm kinh tế. 15 
1.2.2. Đặc điểm xã hội. 18 
1.3. ĐẶC ĐIỂM HÀNH CHÍNH. 23 
CHƯƠNG 2 
NHỮNG CHUYỂN BIẾN KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG TỪ1945 ĐẾN 1975 
2.1. NHỮNG CHUYỂN BIẾN KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA TỈNH 
THỦDẦU MỘT GIAI ĐOẠN 1945 - 1954. 29 
2.1.1. Những yếu tốtác động đến sựchuyển biến kinh tế- xã hội của tỉnh 
ThủDầu Một giai đoạn 1945-1954. 29 
2.1.2. Chuyển biến kinh tế- xã hội trong vùng tạm chiếm. 31 
Chuyển biến vềkinh tế. 31 
Chuyển biến xã hội . 39
2.1.3. Chuyển biến vềkinh tế- xã hội ởvùng kháng chiến. 46 
Chuyển biến kinh tế. 47 
Chuyển biến xã hội . 55 
2.2. NHỮNG CHUYỂN BIẾN KINH TẾ- XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1954 - 1975. 63 
2.2.1. Chuyển biến kinh tế- xã hội của tỉnh ThủDầu Một trong vùng tạm chiếm. 64 
Chuyển biến kinh tế. 64 
Chuyển biến xã hội . 81 
2.2.2. Chuyển biến kinh tế- xã hội ởchiến khu, vùng giải phóng. 92 
Chuyển biến kinh tế. 92 
Chuyển biến xã hội . 99 
CHƯƠNG 3 
NHỮNG CHUYỂN BIẾN KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA TỈNH BÌNH DƯƠNG 
GIAI ĐOẠN 1975 - 2005 
3.1. NHỮNG CHUYỂN BIẾN KINH TẾ- XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1975 - 1986. 108 
3.1.1. Tình hình Bình Dương sau ngày giải phóng và những định 
hướng phát triển kinh tế- xã hội . 108 
3.1.2. Chuyển biến kinh tế. 111 
3.1.3. Chuyển biến xã hội . 117 
3.2. NHỮNG CHUYỂN BIẾN KINH TẾ- XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1986 - 1996.122
3.2.1. Định hướng phát triển . 122
3.2.2. Chuyển biến kinh tế. 124 
3.2.3. Chuyển biến xã hội. 132 
3.3. NHỮNG CHUYỂN BIẾN KINH TẾ- XÃ HỘI CỦA TỈNH 
BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 1997 - 2005. 137 
3.3.1. Tình hình Bình Dương sau khi tái thành lập và những định 
hướng phát triển kinh tế- xã hội . 137 
3.3.2. Chuyển biến kinh tế. 140 
3.3.3. Chuyển biến xã hội . 165 
KẾT LUẬN. 184 
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 200 
PHỤLỤC . 223 
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 274 trang
274 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2977 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Những chuyển biến kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Dương từ 1945 đến 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
át triển phong trào hợp tác hóa. 
Đối với nông nghiệp, từ một hợp tác xã thí điểm đầu tiên trong năm 1978, 
đến năm 1980, toàn tỉnh đã tổ chức được 152 hợp tác xã và 565 tập đoàn sản 
xuất, chiếm 47% số hộ và 56,3% diện tích đất canh tác. Đến năm 1985, toàn 
tỉnh đã có 82% số hộ nông dân và 80% diện tích được đưa vào làm ăn tập thể; 
trong đó, 50% số hợp tác xã và và tập đoàn sản xuất có cách thức tổ chức, quản 
lý và cơ sở vật chất khá tốt. 
Đối với công, thương nghiệp, từ sau hội nghị lần thứ 6 của Trung ương 
đến cuối năm 1985, tỉnh đã đưa được 1.657 hộ đi vào làm ăn tập thể [62, tr.9], 
phát triển rộng rãi mô hình hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng. Đặc 
biệt, tỉnh đã chú trọng kết hợp hoạt động của một số hợp tác xã công, thương 
nghiệp với hoạt động của hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp nhằm 
vừa phục vụ tốt sản xuất và bao tiêu sản phẩm sản xuất. 
Dịch vụ 
Để tạo điều kiện cho công tác phát triển kinh tế - xã hội, một trong những 
nhiệm vụ đầu tiên sau ngày giải phóng mà các cấp lãnh đạo tỉnh quan tâm là 
phát triển mạng lưới giao thông. 
Từ năm 1976, tỉnh bắt đầu khởi động làm mới gần 1.000 km đường, đặc 
biệt, là những con đường vào các vùng kinh tế mới, các khu định canh, định cư 
và duy tu bảo dưỡng trên 2.000 km đường khác. Cùng với việc phát triển mạng 
lưới giao thông, từ sau ngày giải phóng và trong quá trình cải tạo công thương 
115
nghiệp, tỉnh đã quản lý hơn 300 xe tải, 200 xe khách loại lớn, 1.500 xe khách 
loại nhỏ và xe vận tải hạng nhẹ. Trên cơ sở đó, tỉnh đã thành lập được 15 hợp 
tác xã vận tải tại 8 huyện, thị. Nhờ vậy, giai đoạn từ 1976 đến năm 1985, khối 
lượng vận tải hàng hóa và hành khách tăng lên; tăng hệ số vòng quay đầu xe từ 
15 đến 20% [7, tr.6], đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vận chuyển, đi lại của 
nhân dân trong và ngoài tỉnh. 
Về điện, tỉnh đã đầu tư xây dựng mới và sửa chữa một số công trình điện 
do chính quyền cũ để lại, từng bước cải thiện nguồn điện phục vụ sản xuất và 
phục vụ đời sống của nhân dân. Điển hình là xây dựng được mạng lưới điện 
cho huyện Tân Uyên; cung cấp thêm điện cho 23 cơ sở sản xuất mới. 
Cùng với hệ thống điện năng, tỉnh đã lắp đặt đường điện thoại tự 
động trong khu vực thị xã, xây dựng thêm đường điện thoại từ thị xã đến 
huyện Tân Uyên, lắp đặt vô tuyến đến huyện Đồng Phú và Phước Long. 
Ngoài ra, tỉnh đã củng cố và hoàn thiện việc phát triển hệ thống bưu chính 
trong toàn tỉnh, đảm bảo sự thông suốt trong việc cung cấp thông tin từ cấp 
tỉnh xuống tận các thôn, ấp. 
Đối với thương nghiệp và lưu thông phân phối, sau công tác cải tạo công 
thương nghiệp, tỉnh đã mở rộng được mạng lưới thương nghiệp, thành lập các 
công ty kinh doanh tổng hợp và hợp tác xã mua bán từ cấp tỉnh đến hầu khắp 
các xã, phường kể cả ở vùng sâu, vùng xa. 
Việc ký kết hợp đồng thu mua các nguồn hàng được thực hiện tốt hơn, 
nhất là các nguồn hàng nông sản, thực phẩm và tiểu thủ công nghiệp, nên 
tỉnh đã huy động và điều phối được lượng lương thực, thực phẩm, bảo đảm 
cung cấp đủ cho nhân dân. Nổi bật nhất là huyện Bến Cát, do có sự đầu tư 
vào sản xuất và có phương thức mua bán hợp lý, nên lực lượng thương 
nghiệp xã hội chủ nghĩa ở đây phát triển khá mạnh. Một số nơi, các hợp tác 
116
xã sản xuất, hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng bước đầu chủ động 
liên kết hoạt động cho thấy khả năng đầu tư cho sản xuất, tạo điều kiện 
thuận lợi thu mua nguồn hàng, làm chủ phân phối lưu thông tại địa bàn xã. 
Do vậy, đến năm 1985 quỹ hàng hóa luân chuyển trong xã hội tăng lên 8 lần 
so với năm 1981[62, tr.6]. Giá trị hàng hóa bán ra ngày càng tăng: năm 
1980, tổng mức bán lẻ thương nghiệp đạt 235 triệu đồng, tăng gấp 2,5 lần so 
với năm 1976; năm 1985 đạt 575 triệu đồng, tăng gấp 6,2 lần so với năm 
1976. Xuất nhập khẩu từng năm đều có tiến bộ. Kim ngạch xuất khẩu năm 
1981 đạt 348 ngàn USD; năm 1985 đạt 5,7 triệu rúp đô la, tăng 16,4 lần so 
với năm 1981 [7, tr.7]. Tuy nhiên kết quả xuất nhập khẩu còn thấp so với 
tiềm năng của tỉnh . 
Bảo đảm cho mọi hoạt động của nền kinh tế - xã hội, ngành Tài chính 
tỉnh trong giai đoạn từ 1975 đến 1985 hoạt động khá hiệu quả. Các nguồn thu 
từ thuế nông nghiệp và từ các ngành kinh tế quốc doanh tăng dần lên qua các 
năm. Tuy cũng gặp nhiều khó khăn, nhưng ngành Tài chính tỉnh đã cố gắng 
bảo đảm cân đối ngân sách nhằm tăng cường đầu tư cho sản xuất. Bên cạnh đó, 
tỉnh cũng đã thực hiện phân cấp ngân sách cho huyện, thị và bước đầu xây 
dựng ngân sách cho xã, phường, mở ra điều kiện thuận lợi cho huyện, xã chủ 
động dần về tài chính. Do vậy, thu ngân sách giai đoạn 1975 đến 1985 tăng 
liên tục hàng năm: năm 1980 đạt 65 triệu đồng, tăng gần gấp rưỡi so với năm 
1976; năm 1985 đạt 273 triệu đồng, tăng gấp 4,2 lần so với năm 1976 [62, 
tr.10]2. 
2 . Chi ngân sách tương đối ổn định từ 1976 đến 1983, nhưng đã tăng mạnh từ năm 1984, nhất là năm 1985. 
Chi để xây dưng cơ bản chiếm tỷ lệ thấp trong tổng chi ngân sách tỉnh, nhưng đã có dấu hiệu tăng mạnh từ 
năm 1985, với mức chi là 38 triệu đồng, tăng gấp 4,3 lần so với năm 1976. Trong đó, tập trung chi cho khu vực 
sản xuất vật chất chiếm 32 triệu 559 ; còn lại chi cho công nghiệp, nông lâm nghiệp, giao thông vận tải, thương 
nghiệp, cung ứng vật tư và thu mua hàng hoá .Ngân hàng có cố gắng cân đối thu chi tiền mặt, có chú ý đến các 
đợt thu mua, tăng cường sản xuất và giải quyết tiền lương khá kịp thời cho cán bộ công nhân viên chức tại địa 
117
Giai đoạn 1975 đến 1985, kinh tế của tỉnh đã có những chuyển biến tích 
cực, góp phần từng bước ổn định đời sống của nhân dân. Tổng sản phẩm trong 
tỉnh (theo giá so sánh) đạt được trong giai đoạn 1975-1980 không ổn định 
nhưng sang giai đoạn 1981-1985 có bước tăng trưởng khá cao. Tính cả giai 
đoạn 10 năm từ 1975-1985 tổng sản phẩm chuyển biến khá thuận lợi: năm 
1976 đạt 365 triệu 300 ngàn đồng; năm 1980 đạt 433 triệu đồng; năm 1985 đạt 
4 tỷ 579 triệu đồng, so với năm 1976 tăng gấp 12,5 lần. Chia theo thành phần 
kinh tế: quốc doanh không đóng vai trò chủ đạo của nền kinh tế mà có xu 
hướng giảm dần, với 30,3% năm 1976 xuống còn 24,5% năm 1980 và chỉ còn 
14,5% năm 1985; kinh tế ngoài quốc doanh thì tăng trưởng qua hàng năm, năm 
1985 giá trị sản xuất khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 3 tỷ 915 triệu đồng, 
so với năm 1976 tăng gấp 15,4 lần [7, tr.2]. 
3.1.3. Chuyển biến xã hội 
 Từ sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước 
30/4/1975 đến năm 1986, sau những năm khó khăn, cuộc sống của nhân dân 
bắt đầu đã có sự cải thiện. Bộ mặt của tỉnh nhà cũng có những chuyển biến 
nhất định. Văn hoá, giáo dục, y tế, xã hội có tiến bộ, trình độ chính trị và văn 
hóa của nhân dân được nâng lên. Mạng lưới vệ sinh phòng dịch, chữa bệnh 
trong nhân dân được phát triển, việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân ngày 
được quan tâm. Giải quyết tốt công tác thương binh liệt sĩ. Phong trào thể dục, 
thể thao,văn hoá, văn nghệ đã trở thành phong trào quần chúng, vừa đáp ứng 
nhu cầu sinh hoạt tinh thần cho nhân dân, vừa nâng cao sức khỏe để phục vụ 
phương, phát triển Hợp tác xã tín dụng, một số nơi bắt đầu hoạt động có hiệu quả. Song bị gò bó trong cơ chế 
tập trung quan liêu bao cấp cho nên luôn bị căng thẳng về tiền mặt. 
118
sản xuất và chiến đấu [61, tr.4]. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng văn hoá - xã 
hội ngày càng tăng lên. Nếu những năm trước đây chủ yếu là sử dụng nguồn 
vốn cấp phát của Nhà nước, thì trong những năm sau này, ngoài việc thực hiện 
nguồn vốn đầu tư của Trung ương, tỉnh đã huy động thêm nguồn vốn của địa 
phương, nguồn phi chính phủ (NGO) và đóng góp của nhân dân, để xây dựng 
hoặc tu bổ lại trường học, nhà trẻ, trạm y tế. 
Giáo dục, ngay từ sau ngày giải phóng, tỉnh đã rất quan tâm khắc phục 
những khó khăn để khôi phục và phát triển hệ thống trường lớp phổ thông từ 
thị xã, thị trấn, vùng nông thôn, miền núi và kinh tế mới. Trường lớp được sắp 
xếp lại với quy mô hợp lý, thuận tiện cho việc quản lý, nâng cao chất lượng 
giáo dục; do vậy, số trường không tăng nhiều, nhưng lớp học và số học sinh 
tăng lên đáng kể hàng năm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập, nâng 
cao dân trí. Đến năm 1985, toàn tỉnh có 198 trường học phổ thông, với 4.789 
lớp, tăng hơn 1,8 lần số lớp năm 1976; số giáo viên phổ thông là 4.535 người, 
tăng gần 1.000 giáo viên so với năm 1976. Chất lượng dạy và học phát triển rõ 
rệt, kết quả tốt nghiệp các cấp phổ thông năm học 1985-1986 đạt khá: phổ 
thông cơ sở 92,5%; phổ thông trung học 97% [62, tr.16]. 
Sự nghiệp giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông tiếp tục phát triển, đã 
thu hút được hầu hết các cháu đến tuổi đi học. Phong trào bổ túc văn hoá được 
duy trì có kết quả tốt ở nhiều nơi, công tác xoá mù chữ được thực hiện ở tất cả 
các xã trong tỉnh. Ngoài đội ngũ giáo viên kháng chiến, tỉnh chú trọng đào tạo 
thêm giáo viên mới, đã đáp ứng được một phần yêu cầu phát triển của sự 
nghiệp giáo dục trong tỉnh. Việc phát triển xây dựng các trường do tổ chức 
UNICEF tài trợ cũng góp phần giải quyết những khó khăn của ngành Giáo dục 
trong những năm đầu sau giải phóng. 
119
Đến năm 1986, tỉnh đã thực hiện cải cách giáo dục đến lớp 6. Việc đào tạo 
nghề cho công nhân và giáo dục trung học chuyên nghiệp đã được quan tâm và 
có chuyển biến tích cực về số và chất lượng; tuy nhiên, so với yêu cầu phát 
triển thì vẫn còn tình trạng thiếu trường, lớp và thiếu giáo viên. Đối với hoạt 
động khoa học, tính đến năm 1885, tỉnh đã thực hiện nghiên cứu được gần 500 
đề tài khoa học áp dụng cho nông nghiệp, lâm nghiệp, quản lý rừng, công 
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, y tế và nghiên cứu một số đề tài cải cách giáo 
dục… 
Trên lĩnh vực y tế, từ sau ngày giải phóng, công tác chăm sóc sức khoẻ 
cho nhân dân luôn là vấn đề được tỉnh quan tâm đầu tư để phát triển. Do vậy, 
tính đến năm 1986, toàn tỉnh đã có 150 cơ sở khám chữa bệnh, tăng gấp 1,5 
lần so với năm 1976; trong đó, bao gồm 132 trạm y tế xã, 150 bệnh viện, 
phòng khám khu vực, với 2.190 giường bệnh. Làm việc tại các cơ sở trên, có 
tất cả 1.463 cán bộ ngành y và 193 cán bộ ngành dược, với nhiều y, bác sĩ, 
dược sĩ có tay nghề cao [62, tr.17]. 
Hoạt động y tế từ 1976-1985 có nhiều tiến bộ, các đội vệ sinh phòng dịch, 
chống sốt rét, đội chống lao, đội da liễu, đội sinh đẻ có kế hoạch đã đẩy mạnh 
công tác vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch, bảo vệ sức khỏe của nhân dân, góp 
phần hạn chế được bệnh sốt rét, chận đứng được các ổ dịch, sốt xuất huyết, 
dịch hạch kịp thời. Ngoài công tác khám chữa bệnh cho nhân dân, ngành y tế 
đã vận động nhân dân đào giếng nước, hố tiêu hợp vệ sinh, góp phần vận động 
thực hiện phong trào ăn ở sạch trong nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc 
thiểu số. Công tác bảo vệ bà mẹ, trẻ em, sinh đẻ có kế hoạch cũng được tổ chức 
tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân, đã có tác dụng vận động chị em tham gia 
thực hiện, góp phần nâng cao sức khỏe và giải phóng sức lao động cho phụ nữ. 
Công tác dược được chú ý đẩy mạnh, đã xây dựng được Công ty dược phẩm 
120
tỉnh, các cửa hàng bán thuốc các huyện, thị, xây dựng cơ sở trồng dược liệu và 
sản xuất bào chế Đông, Tây dược, góp phần vào việc điều trị và bồi dưỡng sức 
khỏe cho cán bộ và nhân dân. 
Lĩnh vực văn hóa - thông tin, từ năm 1976 đến năm 1985 cũng đạt được 
những thành tựu đáng kể. Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 1985, toàn 
tỉnh có 9 thư viện, với 63.394 bản sách; 1 Đài phát thanh cấp tỉnh3 ; 1 Đoàn 
văn công tỉnh cấp tỉnh4; 21 đơn vị chiếu bóng5; phát hành hàng chục ngàn bản 
sách các loại phục vụ cho nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của nhân dân 
[7,tr.10]. 
Hoạt động thông tin, văn hoá đã phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị ở địa 
phương, nhất là đã mở nhiều đợt vận động chính trị để tuyên truyền giáo dục 
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; phát động bài trừ văn hóa phản 
động; mê tín dị đoan; phát triển văn hóa, văn nghệ vận động thực hiện nghĩa vụ 
quân sự, nộp thuế v.v… Hàng năm tỉnh đều có tổ chức hội diễn văn nghệ quần 
chúng, phát triển các đội văn nghệ quần chúng thuộc các vùng dân tộc thiểu số, 
các công ty cao su, xí nghiệp. Tủ sách, nhà văn hóa, nhà truyền thống được đầu 
tư xây dựng rộng khắp, đặc biệt là ở các vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa. Hội 
Văn học - Nghệ thuật đã được thành lập và đi vào hoạt động, với những đóng 
góp thiết thực của các hội viên trên nhiều lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật; nhờ đó, 
mức hưởng thụ về văn hoá, cụ thể là xem phim, văn nghệ, báo chí tăng hơn 
trước. 
3 .Với 15 hệ thống truyền thanh ở các huyện, thị, xã kinh tế mới, gồm 2.468 loa lớn, nhỏ và trên 333 km đường 
dây 
4 . Ngoài ra, còn có 3 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp, trong năm 1985 tổ chức được 806 buổi biểu diễn, với 
967.000 lượt người xem. 
5 . 7 rạp chiếu bóng; tổ chức chiếu 6.527 buổi chiếu bóng phục vụ cho 2.822.000 lượt người xem. 
121
Công tác thể dục, thể thao được củng cố phát triển, phong trào rèn luyện 
thân thể đã được các địa phương chú trọng, nhất là ở khu vực thị xã, trị trấn, cơ 
quan, xí nghiệp, công, nông, lâm trường. Phong trào tập thể dục buổi sáng hàng 
ngày có hàng chục ngàn cán bộ, nhân viên, học sinh và nhân dân tham gia rèn 
luyện thường xuyên. Đã xây dựng được 130 đội bóng đá, trong đó có 115 đội 
của các cơ quan, xí nghiệp, 15 đội của các trường học thường xuyên luyện tập, 
180 đội bóng chuyền, 40 đội bóng rổ, 100 vận động viên điền kinh và xây dựng 
xong sân vận động của tỉnh. 
 Ngành Thương binh xã hội cũng đã có nhiều cố gắng trong giải quyết các 
chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với người có công và chính sách đối với các 
đối tượng xã hội. Thực hiện tốt công tác quy tập mộ liệt sĩ; tổ chức trường nội 
trú để dạy cho đối tượng học sinh là con em gia đình cán bộ, thương binh, liệt 
sĩ; xây dựng nhà ở cho cán bộ, bộ đội và gia đình có công với cách mạng; cứu 
tế cho các gia đình kinh tế mới và Việt kiều hồi hương gặp khó khăn; cứu trợ 
thường xuyên cho người già cả, tàn tật [59,tr11]. Ngoài ra, ngành Thương binh 
xã hội còn giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn người đến tuổi lao động, 
chủ yếu là cung cấp lao động cho các nông trường cao su, các công, nông lâm 
trường của tỉnh. Thực hiện công tác định canh định cư cho đồng bào các dân 
tộc thiểu số; gắn đời sống của đồng bào với nghề rừng; kết hợp với các lâm 
trường, mở rộng trồng trọt cây lúa và các cây công nghiệp ngắn ngày và dài 
ngày, phát triển chăn nuôi để nâng cao mức sống của đồng bào. 
Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn 1975-1986, 
đã có những bước tiến dài so với thời kỳ trước giải phóng trên tất cả các lĩnh 
vực của đời sống kinh tế - xã hội. Ngoài việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự 
xã hội, khắc phục hậu quả chiến tranh, giải quyết công ăn việc làm, bố trí lại cơ 
cấu dân cư, tiến hành khai hoang phục hoá, phát triển sản xuất, tỉnh đã bước 
122
đầu xây dựng được cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, xóa được nạn đói, ổn định 
đời sống vật chất, xây dựng đời sống văn hóa mới theo đường lối xã hội chủ 
nghĩa. Tuy nhiên, các thành tựu đạt được còn hạn chế so với tiềm năng của 
tỉnh. 
Do nhiều nguyên nhân, khách quan và chủ quan, đã khiến cho hoạt động 
kinh tế - xã hội của tỉnh bộc lộ nhiều thiếu sót mà điển hình là cơ chế quan liêu 
bao cấp kìm hãm. Hơn nữa, kinh tế chủ yếu của tỉnh thời gian này là tập trung 
cho sản xuất nông nghiệp, mặc dù nông nghiệp có sản lượng và tỷ trọng thấp. 
Trong khi Sông Bé vốn là vùng đất lâm nghiệp, có khả năng phát triển kinh tế 
lâm nghiệp, khai thác thế mạnh từ các loại cây công nghiệp, nhất là cây cao su 
nhưng không được các cấp lãnh đạo tỉnh chú ý. Chính vì xác định chưa đúng 
hướng phát triển và cũng do chú trọng đến việc phát triển nông nghiệp (chủ 
yếu là cây lương thực), mở rộng đất canh tác nên đã dẫn đến tình trạng phá 
rừng làm rẫy tràn lan, gây tổn hại nặng về rừng mà hậu quả của nó còn ảnh 
hưởng đến tận ngày nay. 
3.2. NHỮNG CHUYỂN BIẾN KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 1986 
- 1996 
 3.2.1. Định hướng phát triển 
Bước sang năm 1986, trong điều kiện nền kinh tế đất nước vẫn còn nhiều 
khó khăn, mất cân đối, kẻ địch vẫn tiếp tục phá hoại ta trên nhiều mặt, trong 
bối cảnh lịch sử đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI được tổ chức, đề ra chủ 
trương, xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, chuyển nền kinh tế đất nước sang nền 
kinh tế thị trường, nhiều thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị 
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ra đời đã tạo nên sự chuyển biến 
123
mạnh mẽ về nhận thức cho cán bộ lãnh đạo ở các cấp các ngành trong tỉnh, 
nhằm thực hiện những nhiệm vụ phát triển nhanh nền kinh tế - xã hội. 
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, các cấp lãnh 
đạo tỉnh đã nhanh chóng tiếp cận với những nhận thức mới về tư duy kinh tế, 
tiến hành đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện linh hoạt 
các chính sách kinh tế nhằm tập hợp và phát huy các thành phần kinh tế, tích 
cực khai thác tốt nhất các thế mạnh về tài nguyên của tỉnh. Cụ thể là : 
 - Đẩy mạnh xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển hướng 
hẳn nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, chấm dứt bù lỗ, 
áp dụng cơ chế một giá, thực hiện quản lý kinh tế bằng kích thích lợi ích vật 
chất thay cho mệnh lệnh hành chánh. Gắn kế hoạch với thị trường, sản xuất 
phải gắn với tiêu thụ, từ đầu ra để tính toán quyết định sản xuất, giải quyết tốt 
tình trạng ứ đọng sản phẩm làm ra. Hạn chế tối đa việc giao chỉ tiêu pháp lệnh 
cho cơ sở, mở rộng sản xuất kinh doanh, thông qua các hợp đồng kinh tế, gọi 
đấu thầu, giao quyền chủ động cho các đơn vị sản xuất - kinh doanh. Khuyến 
khích cạnh tranh xã hội chủ nghĩa trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, tạo 
điều kiện thuận lợi cho các đơn vị quốc doanh tập thể tiếp tục vươn lên hoạt 
động có hiệu quả. 
Tiếp tục thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, lấy hiệu quả kinh tế làm 
thước đo theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi. Quy hoạch bố trí lại sản xuất 
dựa trên cơ sở hiệu quả kinh tế và thu nhập của xã viên. 
 - Từng bước cải thiện đời sống cho nhân dân, đặc biệt là những người ăn 
lương; thực hiện các chính sách xã hội, ưu tiên các đối tượng hưởng chính 
sách; giải quyết việc làm cho người lao động, chú trọng phát huy lao động chất 
xám. Phát triển mạnh sản xuất, dịch vụ, kinh doanh của các thành phần kinh tế. 
124
Từng bước nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần của nhân dân, gắn việc thực 
hiện chính sách xã hội với các mục tiêu kinh tế, xây dựng chiến lược phát triển 
kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc. Thực hiện phong trào xây dựng nếp 
sống văn hóa mới trong các tầng lớp nhân dân; giữ gìn an ninh trật tự xã hội; 
chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch; xây dựng lực lượng dân quân, 
tự vệ, tăng cường phòng thủ tuyến biên giới trên cơ sở dựa vào dân để xây 
dựng và phát triển lực lượng. 
 - Tiếp tục đổi mới phong cách lãnh đạo, từng bước cụ thể hóa và thực 
hiện đúng đắn cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước 
quản lý. Tiếp tục mở rộng và nâng hiệu lực của cơ quan Đảng, bộ máy Nhà 
nước các cấp từ tỉnh đến cơ sở, trước hết bằng việc xây dựng nội quy, quy chế 
và quy trình làm việc theo hướng coi trọng chất lượng, giảm bỏ thời gian vô 
ích. Tiếp tục sắp xếp tổ chức, tinh gọn bộ máy, tăng cường năng lực hoạt động, 
kiên quyết loại bỏ tầng nấc trung gian; chấn chỉnh và phát triển các hoạt động 
tài chính, ngân hàng, các ngành kinh tế tổng hợp và các ngành kinh tế mũi 
nhọn của tỉnh [63, tr.19]. 
3.2.2. Chuyển biến kinh tế 
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, từ năm 1986, 
công cuộc đổi mới bắt đầu. Cơ chế quản lý kinh tế tập trung, quan liêu, bao 
cấp, từng bước được xóa bỏ, cơ chế quản lý mới cũng từng bước hình thành. 
Trong một thời gian ngắn, tỉnh đã huy động được mọi thành phần kinh tế tham 
gia sản xuất kinh doanh và đã tận dụng, phát huy được các tiềm năng, thế mạnh 
của từng ngành, từng vùng. Do vậy, kinh tế của tỉnh dần dần ổn định, từng 
lĩnh vực của ngành kinh tế đều đạt được những thành tựu và tiến bộ quan 
125
trọng. Từ đó, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ 
trọng công nghiệp - dịch vụ. 
Số liệu thống kê cho thấy, trong giai đoạn 1986 - 1996, kinh tế của tỉnh 
phát triển đều và liên tục với tốc độ tăng trưởng nhanh. Tổng sản phẩm trong 
tỉnh (GDP) các năm từ 1986 đến 1990 tăng không cao, chỉ đạt bình quân hàng 
năm tăng 5%, nhưng đến cuối năm 1991 thì mức tăng trưởng đã trở thành một 
bước nhảy vọt, từ 5 tỷ 714 triệu năm 1991 vượt lên 390 tỷ 252 triệu đồng, tức 
tăng gấp 68,3 lần so với năm 1990. Đặc biệt giai đoạn 1991-1996, tổng sản 
phẩm trong tỉnh tăng mạnh; năm 1996 đạt 2.324 tỷ 642 triệu đồng, tăng gấp 
gần 6 lần so với năm 1991[13,tr.28]. Bình quân thu nhập đầu người đạt 
3.312.000 đồng, hơn gấp 7 lần so với năm 19906. Đối với ngân sách của tỉnh, 
từ năm 1986 đến năm 1996 số thu hàng năm tăng nhanh, năm 1996 đạt 693 tỷ 
814 triệu đồng, tăng gấp 13,9 lần năm 1990 [64, tr.10] và gấp 623,3 lần so với 
năm 1986. 
 Nông nghiệp 
Từ năm 1986, thực hiện công cuộc đổi mới theo tinh thần Nghị quyết 
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, tỉnh đã tiến hành chuyển đổi cơ cấu nông 
nghiệp, phát huy thế mạnh cây, con ở từng vùng, phát triển sản xuất hàng hóa 
với nhiều thành phần kinh tế, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, nhờ đó đã 
thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, tạo ra nguồn hàng tương 
6 . Cơ cấu tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) đến năm 1996 chia theo thành kinh tế là: quốc doanh 36,1%, ngoài 
quốc doanh 49,3%, đầu tư nước ngoài 14,6%. Chia theo ngành kinh tế: tỷ trọng công nghiệp chiếm 45,8%; 
nông lâm nghiệp chiếm 26,5% và dịch vụ chiếm 27,7% [13,tr.28]. Trong từng ngành sản xuất kinh doanh có sự 
chuyển dịch cơ cấu theo hướng tận dụng và phát huy các thế mạnh, tiềm năng của ngành, vùng sản xuất. 
126
đối lớn có giá trị xuất khẩu. Tiếp đó, theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ 
Chính trị về đổi mới quản lý trong nông nghiệp, tỉnh kịp thời sửa sai trong cải 
tạo nông nghiệp, đề ra một số chủ trương, chính sách phù hợp, khuyến khích 
phát triển kinh tế hộ gia đình, bước đầu giải phóng năng lực sản xuất trong 
nông thôn, nông dân mạnh dạn đầu tư thâm canh, tăng năng suất, tăng diện 
tích. Do vậy, trong giai đoạn 1986 - 1996, cơ cấu cây trồng, vật nuôi có sự 
chuyển dịch lớn, theo hướng tạo nguồn nguyên liệu tại chỗ cho công nghiệp 
chế biến và sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Lâm nghiệp, về cơ bản đã chuyển từ 
khai thác sang trồng và bảo dưỡng rừng. Điển hình như tận thu lâm sản các 
vùng ngập lòng hồ thủy điện, xây dựng và bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng phòng 
hộ, gắn với định canh định cư, giao đất giao rừng, phủ xanh đất trống, đồi trọc. 
Đến năm 1995, tỉnh đã xây dựng được vùng cây cao su tập trung với 
129.341 ha; 1/3 diện tích trồng mới đã được khai thác [63, tr.13]. Các loại cây 
trồng như thuốc lá, điều, tiêu, mía phát triển đều đặn, nhất là cây điều, với 
308.719 ha. Diện tích lúa nước ổn định và đi vào thâm canh, tăng vụ; năm 
1995, có 54.585 ha. Dù trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, giá cả 
liên tục biến động, tiền vốn, vật tư không đáp ứng đủ và kịp thời, nhưng sản 
lượng nông nghiệp hàng năm đều tăng. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp các 
năm từ 1986 đến năm 1990 tăng bình quân hàng năm khoảng 4%. Đặc biệt, 
đến năm 1991, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng mạnh, đạt 278 tỷ 131 triệu 
đồng, gấp 148 lần so với năm 1990. Giá trị sản xuất nông nghiệp các năm từ 
1991-1996 tăng bình quân hàng năm 30,5 %; riêng năm 1996, đạt 856 tỷ 517 
triệu đồng, tăng 114% so với năm 1995 và tăng gấp 3,1 lần so với năm 1991. 
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 
Công cuộc đổi mới đối với sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp 
diễn ra chậm chạp hơn nông nghiệp. Dù cũng được khởi động từ năm 1986 
127
nhưng cho đến năm 1988, sản xuất công nghiệp quốc doanh và hợp tác xã tiểu 
thủ công nghiệp vẫn dựa vào nguồn vốn, vật tư bao cấp là chính. Do cơ chế 
quan liêu bao cấp đè nặng, nên khi chuyển sang cơ chế mới, nhiều xí nghiệp 
quốc doanh và hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp đã làm ăn thua lỗ, phải chuyển 
hình thức sở hữu, hoặc chờ đợi giải thể. 
Trước tình hình đó, Nghị quyết 16/BCT của Bộ Chính trị ra đời (1988) 
đã khơi mở hướng đi cho các ngành sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công 
nghiệp. Trên cơ sở đó, nhiều xí nghiệp quốc doanh được đầu tư, cải tiến trang 
thiết bị, nên chất lượng sản phẩm từng bước được nâng lên và bước đầu tiếp 
cận được với thị trường. Trên cơ sở đó, đến những năm 1990, nhiều công ty, xí 
nghiệp đã dần thích ứng với có chế mới, phát huy được nguồn vốn, kỹ thuật, 
năng lực quản lý và từng bước phát triển, mở rộng sản xuất. Đặc biệt, một số 
cơ sở sản xuất quốc doanh đã “ăn nên, làm ra” với hiệu quả kinh tế cao như: xí 
nghiệp quốc doanh sơn mài, đũa tre xuất khẩu, may mặc, chế biến hạt điều, chế 
biến lâm sản... 
Đến năm 1993, trong lúc chưa có chủ trương và các quy định của Chính 
phủ về đầu tư Khu công nghiệp, tỉnh đã mạnh dạn giao cho Công ty Xuất nhập 
khẩu Thanh Lễ đầu tư Khu công
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LaTiensiLichsu_nguyenvanhiep.pdf LaTiensiLichsu_nguyenvanhiep.pdf