MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT NGHIÊN CỨU.10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .10
1.2. Cơ sở lý thuyết và câu hỏi nghiên cứu.31
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1.35
Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÃN HIỆU VÀ GÓP VỐN
BẰNG NHÃN HIỆU .38
2.1. Khái niệm về nhãn hiệu và góp vốn bằng nhãn hiệu .38
2.2. Quyền góp vốn bằng nhãn hiệu và vấn đề đảm bảo quyền góp vốn
bằng nhãn hiệu vào hoạt động kinh doanh.53
2.3. Các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động góp vốn bằng nhãn hiệu.55
2.4. Định giá nhãn hiệu khi thực hiện hoạt động góp vốn .59
2.5. Hình thức góp vốn bằng nhãn hiệu .69
2.6. Thủ tục góp vốn bằng nhãn hiệu .74
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN BẰNG NHÃN
HIỆU TẠI VIỆT NAM .81
3.1. Thực trạng pháp luật quy định về khái niệm về góp vốn bằng nhãn hiệu.81
3.2. Thực trạng pháp luật quy định về thời điểm góp vốn trong hoạt động
góp vốn bằng nhãn hiệu .82
3.3. Thực trạng pháp luật quy định về nhãn hiệu khi đem góp vốn.85
3.4. Thực trạng pháp luật quy định về định giá tài sản góp vốn là nhãn hiệu .87
3.5. Thực trạng pháp luật quy định về việc cấp giấy chứng nhận tài sản
góp vốn bằng nhãn hiệu .92
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.94
CHƢƠNG 4: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ GIẢI PHÁP THỰC THI
PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN BẰNG NHÃN HIỆU TẠI VIỆT NAM .964.1. Thực tiễn của hoạt động góp vốn bằng nhãn hiệu ở Việt Nam.96
4.2. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về góp
vốn bằng nhãn hiệu .107
KẾT LUẬN CHƢƠNG 4.127
KẾT LUẬN .129
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ.131
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.132
147 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 390 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật về góp vốn bằng nhãn hiệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài sản góp vốn, việc các thành viên góp vốn thống nhất thuê một tổ
chức độc lập định giá tài sản góp vốn là hoàn toàn hợp lý.
Việc định giá tài sản góp vốn không những ảnh hưởng đến quyền lợi
của các thành viên tham gia góp vốn mà còn ảnh hưởng đến chủ nợ, khách
hàng và Nhà nước. Một khi các tài sản góp vốn không đúng giá trị thực của
nó, ví như khai tăng một cách bất hợp lý giá trị của tài sản góp vốn sẽ có lợi
cho các thành viên công ty nhưng phương hại đến khách hàng, chủ nợ và Nhà
nước. Do đó đối với một số tài sản cơ quan quản lý nhà nước có quyền trưng
cầu định giá lại nếu thấy giá cao một cách bất hợp lý, các thành viên tham gia
góp vốn chịu trách nhiệm về tính chính xác trung thực của việc định giá tài
sản góp vốn nếu việc định giá được thực hiện bởi chính họ, trường hợp các
63
thành viên tham gia góp vốn thuê tổ chức độc lập định giá, thì tổ chức đó chịu
trách nhiệm về tính chính xác và trung thực.
Cụ thể hơn, khi thành lập doanh nghiệp, thông thường người có quyền
định giá là tất cả các thành viên, cổ đông sáng lập và định giá theo nguyên tắc
nhất trí. Trong trường hợp công ty đang hoạt động, khi có yêu cầu thành viên
mới góp vốn vào công ty hoặc khi có yêu cầu định giá lại tài sản góp vốn,
người định giá phải là Hội đồng thành viên công ty TNHH hoặc là Hội đồng
quản trị công ty cổ phần. Tức là việc định giá do doanh nghiệp và người góp
vốn thỏa thuận định giá hoặc do một tổ chức chuyên nghiệp định giá.
2.4.3. Phương pháp định giá
Vấn đề định giá nhãn hiệu có nhiều khó khăn và khác biệt hơn so với
các loại tài sản khác, đặc biệt là các loại tài sản hữu hình. Bởi lẽ đây là loại tài
sản đặc biệt, một loại tài sản vô hình, khi định giá phụ thuộc phần nhiều vào
các yếu tố như thời gian, địa điểm và tính sinh lời của tài sản đặc biệt này.
Khi tạo ra nhãn hiệu và được pháp luật bảo hộ thông qua các cơ chế cụ thể,
người sở hữu nhãn hiệu cũng không thể tính hết được tính hữu dụng và khả
năng sinh lời trong tương lai của nhãn hiệu mà mình được sở hữu, nó chỉ
được thể hiện giá trị qua thời gian và mức độ chấp nhận của xã hội. Trên thực
tế, để xác định được giá trị thực sự của nhãn hiệu thì vẫn chưa có một chuẩn
mực chung tại Việt Nam lẫn các quốc gia khác nhau trên thế giới.
Tại Việt Nam, theo Thông tư số 06/2014/TT-BTC, có 03 nhóm phương
pháp được áp dụng để thẩm định giá nói chung, trong đó có việc thẩm định
giá trị của nhãn hiệu: (i) Nhóm phương pháp định giá sử dụng cách tiếp cận
thu nhập; (ii) Nhóm phương pháp định giá sử dụng cách tiếp cận chi phí; (iii)
Nhóm phương pháp định giá sử dụng cách tiếp cận thị trường. Cụ thể:
64
a. Phương pháp định giá tiếp cận thu nhập
Phương pháp định giá tiếp cận thu nhập là phương pháp được sử dụng
phổ biến nhất trên thế giới và tại Việt Nam hiện nay. Đây là cách thức xác
định giá trị của tài sản thông qua việc quy đổi dòng tiền trong tương lai có
được từ tài sản về giá trị hiện tại [5]. Theo phương pháp này, việc tính toán
giá trị của nhãn hiệu dựa trên bản chất của nhãn hiệu và được đánh giá trên cơ
sở lợi ích kinh tế mà tài sản đó mang lại trong quá khứ, hiện tại hoặc dự kiến
tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai. Phương pháp này về cơ bản tập trung
vào nguồn thu nhập ước tính mà chủ thể quyền nhãn hiệu mong muốn nhận
được trong thời gian hiệu lực của văn bằng bảo hộ nhãn hiệu. Vì vậy, phương
pháp này sử dụng chiết khấu nguồn tiền mặt được tạo ra giá trị hiện tại cho
thu nhập tương lai, tức là xác định đến tính hiệu quả và khả năng sinh lời của
nhãn hiệu cho các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp.
Có hai phương pháp ứng dụng cách tiếp cận này là phương pháp vốn
hóa thu nhập và phương pháp phân tích dòng tiền chiết khấu (DCF). Cụ thể:
- Phương pháp vốn hóa trực tiếp là phương pháp thẩm định giá xác
định giá trị của quyền sử dụng nhãn hiệu dựa trên cơ sở quy đổi dòng thu
nhập thuần ổn định hàng năm dự kiến có được từ quyền sử dụng nhãn hiệu về
giá trị hiện tại thông qua việc sử dụng tỷ suất vốn hóa phù hợp. Phương pháp
vốn hóa trực tiếp thuộc cách tiếp cận từ thu nhập, là cách thức xác định giá trị
của tài sản thông qua việc qui đổi dòng tiền trong tương lai có được từ tài sản
về giá trị hiện tại [58]. Phương pháp vốn hóa trực tiếp được áp dụng trong
trường hợp thu nhập từ giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu là tương đối ổn định
(không đổi hoặc thay đổi theo một tỷ lệ nhất định) trong suốt thời gian sử
dụng hữu ích còn lại (được tính bằng tuổi đời kinh tế còn lại) của quyền sử
dụng nhãn hiệu hoặc vĩnh viễn. Như vậy, đối với những nhãn hiệu mà việc sử
65
dụng không ổn định, có sự thay đổi giá trị với một tỷ lệ lớn qua từng giai
đoạn nhất định thì phương pháp này sẽ không đảm bảo việc định giá được giá
trị thật của nhãn hiệu.
- Phương pháp dòng tiền chiết khấu là phương pháp thẩm định giá xác
định giá trị của quyền sử dụng nhãn hiệu dựa trên cơ sở quy đổi các dòng tiền
trong tương lai dự kiến có được từ quyền sử dụng nhãn hiệu về giá trị hiện tại
thông qua việc sử dụng tỷ suất chiết khấu phù hợp2. Phương pháp dòng tiền chiết
khấu thuộc cách tiếp cận từ thu nhập. Phương pháp dòng tiền chiết khấu được áp
dụng trong trường hợp thu nhập từ giá trị quyền sử dụng nhãn hiệu biến đổi qua
các giai đoạn khác nhau (không ổn định), ví dụ như trường hợp một doanh
nghiệp vừa bắt đầu hoạt động hoặc một công trình mới bắt đầu xây dựng.
Theo Bộ Tiêu chuẩn hướng dẫn định giá quốc tế đối với việc định giá
tài sản vô hình do Hội đồng tiêu chuẩn định giá quốc tế (IVSC) công bố năm
2009 thì phương pháp tiếp cận thu nhập được khuyến nghị áp dụng do cách
tiếp cận này cho kết quả đáng tin cậy hơn các cách tiếp cận khác3.
b. Phương pháp định giá tiếp cận chi phí
Phương pháp này dựa trên quan điểm đơn giản rằng một tài sản không
thể đánh giá nhiều hơn chi phí để thay thế một tài sản khác có công dụng
tương đương. Theo phương pháp định giá tiếp cận chi phí thì giá để có được
hoặc phát triển một tài sản mới cần tương xứng với những lợi ích kinh tế sẽ được
tạo ra từ nó. Phương pháp này được sử dụng để ước tính các lợi ích trong tương
lai bằng cách tính số chi phí cần thiết để thay thế nhãn hiệu. Tức là việc ước tính
2
Lâm Thị Thanh Huyền (2020), Hoàn thiện phương pháp chiết khấu dòng tiền trong thẩm định giá
doanh nghiệp ở Việt Nam, Tạp chí tài chính điện tử. Nguồn: https://tapchitaichinh.vn/co-che-chinh-
sach/hoan-thien-phuong-phap-chiet-khau-dong-tien-trong-tham-dinh-gia-doanh-nghiep-o-viet-
nam-330703.html (truy cập ngày 15/4/2021).
3
Tạ Thị Thanh Thuỷ (2012), Góp vốn kinh doanh bằng tài sản trí tuệ trong pháp luật Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ bảo vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.17-19.
66
giá trị dựa trên căn cứ là các tài liệu, số liệu phản ánh nguồn lực tài chính, nhân
lực, vật lực đầu tư để tạo ra tài sản đó hoặc tài sản tương đương.
Như vậy, có thể nhận thấy, phương pháp định giá dựa trên cách tiếp cận
từ chi phí là cách thức xác định giá trị của tài sản thẩm định giá thông qua chi
phí tạo ra một tài sản có chức năng, công dụng giống hệt hoặc tương tự với tài
sản thẩm định giá và hao mòn của tài sản thẩm định giá.
Trên thế giới, có 3 phương pháp định giá cơ bản dựa trên cách tiếp cận
chi phí:
Phương pháp dựa trên chi phí quá khứ: Giá trị tài sản vô hình được
tính toán dựa trên các chi phí đã phát sinh trong quá trình xây dựng tài
sản vô hình đó, tổng chi phí được coi như giá trị của tài sản.
Phương pháp dựa trên chi phí tái tạo: Định giá tài sản vô hình bằng
cách tính toán tất cả các chi phí cần thiết hiện nay để tạo dựng tài sản
vô hình như hiện tại.
Phương pháp dựa trên chi phí thay thế: Phương pháp này dựa trên việc
tính các chi phí thay thế là chi phí hiện hành để xây dựng, sản xuất hay
chế tạo tài sản thay thế tài sản cần thẩm định giá, có loại trừ các bộ
phận có chức năng lỗi thời, nhưng có tính đến tiến bộ khoa học, công
nghệ tại thời điểm cần thẩm định giá để tạo ra sản phẩm thay thế có
tính năng ưu việt hơn so với tài sản cần thẩm định giá. Chi phí thay thế
được tính căn cứ vào khối lượng nguyên vật liệu có thể thay thế nhân
(x) giá tại thời điểm thẩm định.
Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì hiện
nay, với cách tiếp cận từ chi phí, thẩm định viên có thể sử dụng phương pháp
chi phí tái tạo và phương pháp chi phí thay thế quy định tại Tiêu chuẩn thẩm
67
định giá Việt Nam số 09 ban hành kèm theo Thông tư số 126/2015/TT-BTC
ngày 20/8/2015 của Bộ Tài chính để thẩm định giá tài sản.
Theo đó, phương pháp chi phí tái tạo là phương pháp thẩm định giá xác
định giá trị của tài sản thẩm định giá dựa trên cơ sở chênh lệch giữa chi phí tái
tạo ra tài sản giống hệt với tài sản thẩm định giá theo giá thị trường hiện hành và
giá trị hao mòn của tài sản thẩm định giá. Phương pháp chi phí tái tạo thuộc cách
tiếp cận từ chi phí. Còn phương pháp chi phí thay thế là phương pháp thẩm định
giá xác định giá trị của tài sản thẩm định giá dựa trên cơ sở chênh lệch giữa chi
phí thay thế để tạo ra một tài sản tương tự tài sản thẩm định giá có cùng chức
năng, công dụng theo giá thị trường hiện hành và giá trị hao mòn của tài sản
thẩm định giá. Phương pháp chi phí thay thế thuộc cách tiếp cận từ chi phí4.
Phương pháp này có ưu điểm là số liệu phục vụ cho việc tính toán
tương đối rõ ràng, dễ thu thập vì thường được thống kê trong sổ sách kế toán
của doanh nghiệp, cách thức tính toán đơn giản, dễ thực hiện. Tuy nhiên,
nhược điểm lớn nhất của phương pháp định giá tiếp cận chi phí là giá trị xác
định được là nguyên giá chứ không phải là giá thị trường. Giá trị thu được từ
cách tiếp cận chi phí chưa phản ánh được tiềm năng phát triển, rủi ro và hiệu
quả kinh tế của nhãn hiệu; chưa phản ánh được rủi ro khi thực hiện việc
nghiên cứu và triển khai một nhãn hiệu mới.
Nói một cách khác, phương pháp chi phí bộc lộ khá nhiều nhược điểm
khiến cho phương pháp này không được áp dụng phổ biến trong thực tiễn
định giá nhãn hiệu. Nhược điểm lớn nhất là chỉ sử dụng một yếu tố (yếu tố chi
phí) để xác định giá trị của nhãn hiệu và hoàn toàn không xem xét tới lợi ích
4
Thu Trang (2018), Các cách tiếp cận, các phương pháp thẩm định giá tài sản đã kê biên trong thi
hành án dân sự, Cổng thông tin điện tử Tổng Cục thi hành án dân sự, Nguồn:
https://thads.moj.gov.vn/noidung/tintuc/lists/thongtinchung/view_detail.aspx?itemid=1157 (truy
cập ngày 11/4/2021).
68
kinh tế tương lai mà nhãn hiệu đó có khả năng mang lại. Do đó, việc định giá
nhãn hiệu chỉ dựa vào các chi phí trong quá khứ để tạo ra sự phát triển nhãn hiệu
là chưa thực sự đánh giá được tiềm năng kinh tế tương lai của nhãn hiệu đó.
Vì vậy, phương pháp này thường được sử dụng để bổ sung cho phương
pháp tiếp cận thu nhập, ứng dụng để tính toán hiệu quả kinh tế và hiệu quả
đầu tư đối với nhãn hiệu cho doanh nghiệp, phục vụ quá trình quản trị nội bộ
doanh nghiệp hoặc để định giá những nhãn hiệu mới hình thành trước khi nó
tạo dựng được chỗ đứng trên thị trường.
c. Phương pháp định giá tiếp cận thị trường
Phương pháp định giá tiếp cận thị trường dựa vào việc bên thứ ba sẵn
sàng bỏ chi phí để mua hoặc thuê nhãn hiệu của doanh nghiệp. Qua phân tích,
so sánh các giao dịch đối với loại nhãn hiệu tương tự để ước lượng giá trị.
Cách tiếp cận này được xây dựng chủ yếu dựa trên tuân thủ nguyên tắc thay
thế và phương pháp này cũng có thể được sử dụng bổ sung cho phương pháp
tiếp cận thu nhập.
Theo các nhà nghiên cứu và thực tiễn của hoạt động định giá nhãn hiệu
cho thấy Phương pháp định giá tiếp cận thị trường là một phương pháp định
giá khách quan và chính xác nhất. Điều này xuất phát từ việc, về nguyên tắc,
phương pháp thị trường đưa lại kết quả có tính thuyết phục cao vì khả năng sử
dụng thông tin thị trường, mà thị trường luôn là thước đo cuối cùng đối với
mọi quyết định kinh tế. Đây là phương pháp đơn giản, không đòi hỏi nhiều về
kỹ thuật vì không có công thức hay mô hình cố định mà chỉ dựa vào sự hiện
diện của các giao dịch trên thị trường để rút ra các bằng chứng về giá trị.
Nhưng trên thực tế không bao giờ có giao dịch về một loại nhãn hiệu hoàn
toàn tương đồng với nhãn hiệu cần định giá vì nhãn hiệu là loại tài sản đặc
thù, có tính độc quyền và đơn nhất.
69
Hơn nữa, còn có sự thiếu vắng các thông tin thị trường nhãn hiệu tương
đương hoặc không cung cấp được các thông tin về cách xử lý các đặc điểm
riêng biệt của từng giao dịch cụ thể. Chính vì thế mà phương pháp định giá
tiếp cận thị trường hiếm khi được sử dụng để định giá nhãn hiệu trên thực tế.
Ngoài ra, trên thế giới còn có một số phương pháp định giá nhãn hiệu khác
như: Phương pháp định giá ứng dụng mô hình kinh tế lượng hoặc phương
pháp ứng dụng kỹ thuật định giá quyền chọn.
Như vậy, việc định giá nhãn hiệu nhằm mục đích chủ yếu là nhằm xác
định chính xác, đầy đủ và khách quan giá trị của tài sản đó, từ đó giúp chủ sở
hữu đưa ra quyết định tối ưu, trong đó có các quyết định về phương thức kinh
tế hiệu quả nhất để sử dụng, bảo vệ hoặc trao đổi tài sản đó trên thị trường
nhằm tối đa hóa giá trị tài sản. Với trường hợp góp vốn đầu tư, tham gia hợp
đồng liên doanh bằng quyền sở hữu công nghiệp, việc xác định giá nhãn hiệu
giúp xác định chính xác giá trị tài sản góp vốn là nhãn hiệu của chủ sở hữu
nhãn hiệu trong dự án đầu tư hoặc liên doanh. Định giá nhãn hiệu hiển nhiên
là hết sức cần thiết và quan trọng. Tuy nhiên, qua việc tham khảo các phương
pháp định giá được chấp nhận phổ biến hiện nay, có thể thấy rõ rất khó để
thực hiện định giá một cách chính xác và hợp lý nhãn hiệu. Các phương pháp
định giá được đề xuất đều có những ưu điểm cũng như hạn chế nhất định, dẫn
đến ảnh hưởng tới kết quả định giá. Ở Việt Nam việc định giá nhãn hiệu lại
càng khó khăn hơn khi thị trường giao dịch các nhãn hiệu còn nghèo nàn, ít
có các giao dịch tương đương để so sánh, hoàn toàn thiếu các thông tin công
khai và minh bạch để làm cơ sở định giá.
2.5. Hình thức góp vốn bằng nhãn hiệu
2.5.1. Hình thức góp vốn bằng quyền sở hữu nhãn hiệu
Như đã phân tích ở trên, góp vốn bằng nhãn hiệu thực chất là hành vi
70
đưa quyền tài sản đối với nhãn hiệu vào công ty. Dưới góc độ là tài sản, chủ
sở hữu nhãn hiệu hoàn toàn có thể dùng quyền sở hữu của mình để tham gia
vào giao dịch góp vốn. Trên phương diện đó, việc góp vốn bằng nhãn hiệu
giống với việc góp vốn bằng quyền sở hữu tài sản, hay có thể gọi hình thức
góp vốn này là hình thức góp vốn bằng quyền sở hữu.
Hình thức góp vốn bằng quyền sở hữu là hình thức góp vốn được sử
dụng phổ biến nhất và được pháp luật của các nước trên thế giới công nhận.
Tại Việt Nam, hình thức góp vốn bằng quyền sở hữu được ghi nhận trong hệ
thống pháp luật về doanh nghiệp, cụ thể là quy định tại Điều 35 Luật Doanh
nghiệp năm 2020 về việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn. Việc chuyển
quyền sở hữu tài sản nói chung, chuyển quyền sở hữu đối với nhãn hiệu nói
riêng từ bên góp vốn sang bên nhận góp vốn chính là đặc trưng của hình thức
góp vốn này. Sau khi hoàn tất thủ tục góp vốn, giá trị quyền tài sản đối với
nhãn hiệu của bên góp vốn sẽ hình thành nên cổ phần hoặc phần vốn góp của
bên góp vốn trong công ty nhận góp vốn, tùy vào loại hình công ty. Bên góp
vốn sẽ được trao cho các quyền và có những nghĩa vụ với tư cách là đồng chủ
sở hữu (thành viên hoặc cổ đông) hoặc chủ sở hữu của công ty nhận vốn góp
và các quyền và nghĩa vụ này sẽ tồn tại kéo dài cho đến khi công ty đó chấm
dứt hoạt động hoặc khi bên góp vốn rút vốn ra khỏi công ty.
Khi thực hiện góp vốn bằng nhãn hiệu trên phương diện quyền sở hữu
tài sản, thì tương tự như hoạt động chuyển nhượng nhãn hiệu, bên góp vốn
được ví như người bán, và công ty nhận góp vốn được ví như người mua5, tức
là bên góp vốn sẽ đảm bảo với công ty nhận góp vốn dưới hình thức như sự
đảm bảo của bên bán đối với bên mua. Bên góp vốn sẽ mất quyền sở hữu
quyền tài sản đối với nhãn hiệu và công ty nhận góp vốn sẽ trở thành chủ sở
5
Điều 1843-3 Bộ luật dân sự Pháp.
71
hữu mới và nhận được toàn bộ các độc quyền mà pháp luật trao cho chủ sở
hữu nhãn hiệu đó. Tuy nhiên, hoạt động góp vốn bằng nhãn hiệu dưới hình
thức này vẫn có những điểm khác với hoạt động chuyển nhượng nhãn hiệu:
Một là, dù sau khi hoàn tất các thủ tục góp vốn, quyền tài sản đối với
nhãn hiệu sẽ thuộc về công ty nhận góp vốn, nhưng xét ở khía cạnh nào đó,
bên góp vốn bằng nhãn hiệu vẫn được xem như gián tiếp sở hữu nhãn hiệu mà
mình đã góp vào công ty bởi lúc này bên góp vốn đã trở thành chủ sở hữu
hoặc đồng chủ sở hữu của công ty. Họ vẫn có quyền sử dụng và định đoạt đối
với nhãn hiệu đó thông qua việc tham gia quản lý hoạt động sản xuất, kinh
doanh của công ty. Tuy nhiên các quyền này không còn là trọn vẹn như lúc
bên góp vốn còn là chủ sở hữu quyền vì việc quyết định sử dụng, khai thác
hay định đoạt nhãn hiệu này còn phải chịu sự chi phối và kiểm soát từ các
thành viên/cổ đông khác của công ty. Trong khi đó, đối với hoạt động chuyển
nhượng nhãn hiệu, bên chuyển nhượng sẽ nhận lại được một lợi ích nhất định
nào đó (có thể bằng tiền hoặc là lợi ích vật chất, tùy theo thỏa thuận của các
bên) từ bên nhận chuyển nhượng nhãn hiệu cho việc chuyển nhượng nhãn
hiệu đó, nghĩa là quyền sở hữu của bên chuyển nhượng sẽ biến thành lợi ích
(bằng tiền hoặc vật chất) và khi hoàn tất việc chuyển nhượng, bên chuyển
nhượng sẽ mất đi toàn bộ quyền của chủ sở hữu đối với quyền tài sản đối với
nhãn hiệu, không thể tiếp tục khai thác, sử dụng hay định đoạt các đối tượng này.
Hai là, đối với hoạt động chuyển nhượng, sau khi đã nhận đủ các lợi
ích theo cam kết trong hợp đồng từ bên nhận chuyển nhượng thì có thể coi
như bên chuyển nhượng đã khai thác một cách có hiệu quả nhãn hiệu, thể hiện
bằng khoản lợi nhận được. Còn đối với hoạt động góp vốn, việc khai thác có
hiệu quả nhãn hiệu hay không còn phụ thuộc vào việc công ty nhận góp vốn
khai thác, sử dụng nhãn hiệu như thế nào. Nếu công ty khai thác không hiệu
72
quả hay hoạt động kinh doanh không tốt, dẫn đến huề vốn hay trầm trọng hơn
là thua lỗ, bên góp vốn sẽ không thu được lợi ích nào từ công ty nhận góp vốn
mà vẫn mất đi quyền sở hữu tài sản của mình, trong khi đối với hoạt động
chuyển nhượng, dù mất đi quyền sở hữu tài sản nhưng bên chuyển nhượng
không bị xem là “mất trắng” như hoạt động góp vốn vì đã nắm chắc trong tay
khoản lợi từ việc chuyển nhượng nhãn hiệu.
2.5.2. Hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng nhãn hiệu
Như đã phân tích ở trên, với những lợi ích to lớn đem lại từ việc khai thác,
sử dụng nhãn hiệu đã làm cho quyền tài sản đối với nhãn hiệu trở thành một đối
tượng giá trị của các giao dịch, trong đó có góp vốn. Chủ sở hữu có thể tiến hành
việc góp vốn bằng nhãn hiệu trên phương diện quyền sử dụng tài sản. Với cách
tiếp cận này, hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng được hình thành.
Với hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng, thì bên góp vốn được ví
như bên cho thuê và doanh nghiệp nhận góp vốn được ví như bên thuê trong
quan hệ cho thuê tài sản6, bên góp vốn sẽ chỉ chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu
cho công ty nhận góp vốn để công ty sử dụng và khai thác nhãn hiệu thuộc
phạm vi quyền sử dụng của bên góp vốn trong một khoảng thời gian nhất
định. Quyền định đoạt đối với nhãn hiệu vẫn thuộc sở hữu của bên góp vốn
nên bên góp vốn vẫn có thể thực hiện các quyền khác của chủ sở hữu như thế
chấp, để lại thừa kế, tặng cho nhãn hiệu. Hết thời hạn góp vốn đã thỏa thuận,
bên góp vốn sẽ thu hồi lại quyền sử dụng nhãn hiệu đã góp vốn vào doanh
nghiệp. Thời hạn góp vốn cũng không được vượt quá thời hạn bảo hộ của
nhãn hiệu.
Mặc dù, góp vốn bằng quyền sử dụng nhãn hiệu và hoạt động cho thuê,
cụ thể là hoạt động chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu có điểm tương đồng,
6
Điều 1843-3 Bộ luật dân sự Pháp.
73
song hai hình thức này cũng có điểm khác biệt. Với hoạt động góp vốn, bên
góp vốn được hưởng lợi ích theo sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng
góp vốn và tỷ lệ tương ứng theo phần góp vốn mà không cố định bằng một
khoản tiền thuê như trong quan hệ cho thuê. Từ đó, quan hệ giữa bên góp vốn
và công ty nhận góp vốn cũng gắn bó chặt chẽ hơn so với quan hệ giữa bên
thuê và bên cho thuê.
Hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng là một hình thức góp vốn đặc
thù chỉ áp dụng cho tài sản vô hình như QSHTT hay quyền sử dụng đất. Bởi
lẽ đối với tài sản là các vật hữu hình, quyền sở hữu được xem là vật quyền
thống trị đối với vật7 nên khi góp vốn vào công ty bằng các tài sản hữu hình,
pháp luật quy định bên góp vốn phải chuyển giao quyền sở hữu của mình cho
công ty nhận góp vốn, để công ty có toàn quyền đối với vật đó trong việc loại
trừ những người khác chiếm hữu, sử dụng, thu lợi và định đoạt đối với vật.
Còn đối với nhãn hiệu, quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu là
quyền năng quan trọng nhất của chủ sở hữu. Chỉ cần nắm trong tay quyền
này, chủ sở hữu đã có thể độc quyền khai thác giá trị kinh tế của nhãn hiệu.
Do đó, đối với nhãn hiệu nới riêng, hình thức góp vốn bằng quyền sử dụng
dường như là phù hợp hơn so với các tài sản hữu hình.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, hình thức góp vốn bằng quyền sở
hữu đối với nhãn hiệu vẫn được áp dụng do nhu cầu của bên nhận góp vốn
muốn nắm trong tay trọn vẹn quyền tài sản đối với nhãn hiệu, đặc biệt là
quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu để có thể tự do sử dụng, khai
thác loại tài sản này một cách độc quyền, làm nguồn vốn đầu tư thu lợi nhuận.
Do đó, tùy từng trường hợp cụ thể và phụ thuộc vào nhu cầu của mình mà các
bên quyết định hình thức góp vốn bằng nhãn hiệu sao cho phù hợp.
7
Ngô Huy Cương (2004), “Một số nội dung của hợp đồng thành lập công ty”, Tạp chí Khoa học
Đại học Quốc gia Hà Nội, số 01, tr.12-23.
74
2.6. Thủ tục góp vốn bằng nhãn hiệu
2.6.1. Thời điểm góp vốn bằng nhãn hiệu
Khi chủ thể kinh doanh tiến hành thành lập doanh nghiệp sẽ phải thực
hiện việc góp vốn theo đúng trình tự và thời hạn luật định. Theo đó, thành
viên công ty phải tiến hành góp đủ vốn trong thời hạn nhất định kể từ ngày
doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Như vậy,
thời hạn được pháp luật dự liệu cho việc thực hiện góp vốn của các bên góp
vốn được hiểu là thời hạn góp vốn vào doanh nghiệp.
Tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn trong từng thời điểm, tùy thuộc vào
quy mô sản xuất, nhu cầu thị trường, tiến độ hoạt động kinh doanh của từng
doanh nghiệp, việc góp vốn không nhất thiết phải đóng đủ vốn ngay sau khi
đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, số vốn mà các thành viên cam kết góp trong
một thời hạn cụ thể đã được ghi vào Điều lệ công ty, các thành viên phải góp
đủ số vốn đã cam kết góp vào vốn điều lệ trong thời gian nhất định, kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận
đăng ký bổ sung, thay đổi thành viên.
Việc góp vốn của công ty không chỉ được giám sát bởi các thành viên
trong công ty mà còn nằm dưới sự quản lý của cơ quan đăng ký kinh doanh vì
góp vốn và cam kết góp vốn phải được ghi vào điều lệ công ty và người đại
diện theo pháp luật của công ty phải thông báo bằng văn bản tiến độ góp vốn
đăng ký đến cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày cam kết góp vốn và phải chịu trách nhiệm cá nhân về các thiệt hại cho
công ty và người khác do thông báo chậm trễ hoặc thông báo không chính
xác, không trung thực, không đầy đủ. Trường hợp có thành viên không góp
đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết thì số vốn chưa góp được coi là nợ của
thành viên đó đối với công ty; thành viên đó phải chịu trách nhiệm bồi thường
75
thiệt hại phát sinh do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết. Sau thời
hạn cam kết lần cuối mà vẫn có thành viên chưa góp đủ số vốn đã cam kết thì
số vốn chưa góp được xử lý theo một trong các cách: một là một hoặc một số
thành viên nhận góp đủ số vốn chưa góp; hai là huy động người khác cùng
góp vốn vào công ty; ba là các thành viên còn lại góp đủ số vốn chưa góp theo
tỷ lệ phần góp vốn của họ trong vốn điều lệ công ty. Sau khi số vốn còn lại
được góp đủ, thành viên chưa góp vốn theo cam kết đương nhiên không còn
là thành viên của công ty và công ty phải đăng ký thay đổi nội dung đăng ký
kinh doanh.
Tại thời điểm góp đủ giá trị phần góp vốn, thành viên góp vốn được
công ty cấp giấy chứng nhận phần góp vốn ghi nhận phần góp vốn và giá trị
góp vốn của thành viên. Giấy chứng nhận phần góp vốn là bằng chứng xác
nhận nghĩa vụ góp vốn của thành viên đã hoàn thành, thông qua đó cũng xác
nhận quyền lợi và trách nhiệm của thành viên đối với công ty cũng như đối
với bên thứ ba.
Tuy nhiên, việc góp vốn bằng nhãn hiệu là góp bằng quyền tài sản, thời
điểm quyền tài sản được chuyển dịch từ thành viên góp vốn sang công ty phải
thực hiện sau khi công ty được thành lập và phải theo thủ tục đặc biệt liên
quan đến sự điều chỉnh của pháp luật về SHTT. Cụ thể, đối với các nhãn hiệu
(không phải l