Luận án Pháp nhân tôn giáo ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra hiện nay

MỤ LỤ

MỞ ĐẦU . 1

 Chương 1: TỔN QUAN TÌN HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG

LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐỀN LUẬN ÁN. 9

1.1. Tình hình nghiên cứu và những vấn đề cơ bản liên quan đến luận án . 9

1.2. Các vấn đề đã được nghiên cứu và các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. 29

1.3. Khung lý thuyết nghiên cứu và một số khái niệm cơ bản được sử

dụng trong luận án. 32

 Chương 2: PHÁP NHÂN TÔN GIÁO - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VÀ THỰC T ỄN . 41

2.1. Tôn giáo và sự cần thiết của pháp nhân tôn giáo. 41

2.2. Pháp nhân tôn giáo cụ thể của một số nước trên thế giới . 52

2.3. Tôn giáo và tổ chức tôn giáo ở Việt Nam. 63

 Chương 3: CÔN NHẬN PHÁP NHÂN TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM. 74

3.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề pháp nhân tôn giáo . 74

3.2. Pháp nhân tôn giáo ở Việt Nam trước thời kỳ đổi mới. 83

3.3. Pháp nhân tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - trước pháp lệnh tín

ngưỡng, tôn giáo (1990-2004) . 91

3.4. Pháp nhân tôn giáo ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - sau pháp lệnh tín

ngưỡng, tôn giáo (2004-2020) . 107

 Chương 4: CHUYỂN BIẾN ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO, NHỮN VẤN

ĐỀ ĐẶT RA VÀ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN

TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM. 117

4.1. Những chuyến biến đời sống tôn giáo và công tác quản lý nhà nước

sau công nhận pháp nhân tôn giáo . 117

4.2. Những vấn đề đặt ra liên quan đến pháp nhân tôn giáo ở Việt Nam. 126

4.3. Những khuyến nghị liên quan đến pháp nhân tôn giáo ở Việt Nam. 133iii

KẾT LUẬN . 142

 

pdf168 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 411 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp nhân tôn giáo ở Việt Nam - Những vấn đề đặt ra hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n của nước ta” (Điều 1) [8]. Nghị định 258-TTg quy định hai bước trong quá trình lập hội: trù bị và chính thức. Cụ thể bước một: Muốn lập hội trước hết phải xin phép trù bị việc lập hội. Đơn xin phép phải ghi rõ: ý kiến trù bị về tên, tôn chỉ, mục đích của hội; ý kiến trù bị về phạm vi hoạt động của hội; nơi tạm thời dùng làm chỗ hội họp; ước lượng thời gian trù bị. Đồng thời: “Phải gửi kèm theo đơn ba bản dự thảo điều lệ của hội, danh sách và lý lịch sơ lược của những người sáng lập và những giấy chứng nhận các người ấy có đủ quyền công dân và không đương bị truy tố trước pháp luật” (Điều 3) [8]. Bước hai chính thức là: Đơn xin phép chính thức thành lập hội phải kê rõ: tên hội; tôn chỉ mục đích; phạm vi hoạt động; nơi đặt trụ sở; nơi đặt các chi nhánh; số lượng hội viên đã tập hợp được; nguồn gốc tài sản, kinh phí; chương trình hoạt động. Đồng thời: “Phải gửi kèm theo đơn ba bản điều lệ của hội danh sách và lý lịch sơ lược của những người sáng lập và những người được đề cử vào Ban chấp hành” (Điều 6) [8]. Luật Lập hội cũng quy 75 định chi tiết nội dung điều lệ của các hội muốn thành lập. Và tất nhiên, sau khi các hội thành lập phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận mới được phép hoạt động. Luật lập hội và Nghị định hướng dẫn có hiệu lực đến khi Luật Dân sự ban hành năm 2003. Quy định về việc lập hội như trên là khá rõ ràng, nhưng vì nhiều lý do, ở miền Bắc trước năm 1975 và cả nước sau năm 1975, việc thành lập hội cũng dè dặt. Riêng với vấn đề tôn giáo, việc lập và công nhận tổ chức tôn giáo tùy theo yêu cầu cụ thể. Đặc biệt, ở Việt Nam dưới chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa thời kỳ trước đổi mới không dùng khái niệm pháp nhân. Mãi đến năm 2003, việc công nhận tư cách pháp nhân mới chính thức được luật hóa qua Luật Dân sự năm 2003. Sau 12 năm thực hiện, năm 2015, Quốc hội khóa XII đã điều chỉnh bổ sung gọi là Luật Dân sự năm 2015. Luật Dân sự 2003 có hai điều nói về pháp nhân. Cụ thể: Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ ba điều kiện sau đây: (1) Được thành lập hợp pháp; Có sơ cấu tổ chức chặt chẽ; (2) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; (3) Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập (Điều 84) [32]. Sau khi đưa ra điều kiện được công nhận pháp nhân, Luật Dân sự 2003 chỉ ra các loại pháp nhân. Cụ thể: (1) Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân; (2) Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; (3) Tổ chức kinh tế; (4) Tổ chức chính trị nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; (5) Quỹ xã hội, quỹ xã hội nghề nghiệp; (6) Các tổ chức khác có đủ điều kiện tại điều 84 của bộ luật này (Điều 100) [32]. Như vậy, từ năm 2003, ở Việt Nam mới chính thức đưa vào pháp luật việc công nhận pháp nhân với những điều kiện pháp nhân cụ thể và với các pháp nhân cụ thể. Tôn giáo là một trong những tồn tại cần thiết có sự công nhận của pháp luật về tổ chức, nhưng không được trở thành một loại pháp nhân cụ thể. Mặc dù có để mở: “Các tổ chức khác có đủ điều kiện tại điều 84 của bộ luật này” nhưng đối với tôn giáo là vấn đề nhạy cảm nên trên thực tế hầu như không nằm trong sự điều chỉnh của Luật Dân sự 2003. 76 Sau một thời gian thực hiện, Luật Dân sự sửa đổi năm 2015 (gọi chung là Luật Dân sự năm 2015), quy định rõ hơn về pháp nhân. Luật Dân sự năm 2015 quy định điều kiện để được công nhận pháp nhân: (1) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, các luật khác có liên quan; (2) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này; (3) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; (4) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập. Luật Dân sự năm 2015 đinh rõ pháp nhân gồm hai loại: pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Cụ thể về pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên; Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác; Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan. Cụ thể về pháp nhân phi thương mại là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên; pháp nhân phi thương mại bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác; việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân phi thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan [33]. Luật Dân sự năm 2015 là quy định về của Điều lệ (hiến chương) của pháp nhân - một yếu tố của việc công nhận pháp nhân; về trụ sở và việc thay đổi trụ sở; về tài sản của pháp nhân; về chi nhánh, văn phòng đại diện của pháp nhân, về đại diện của pháp nhân; về năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân, về hợp nhất pháp nhân, về sáp nhập pháp nhân, về tách pháp nhân, về chuyển đổi hình thức của pháp nhân, về giải thể pháp nhân, về thanh toán tài sản của pháp nhân bị giải thể; về trách nhiệm dân sự của pháp nhân, [33]. 77 Như vậy, Luật Dân sự năm 2015 đã quy định rất cụ thể về pháp nhân, công nhận pháp nhân, theo đó, tạo điều kiện cho công nhân pháp nhân tôn giáo qua hai bước: đăng ký và công nhận tổ chức tôn giáo ở Việt Nam. 3.1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về pháp nhân tôn giáo qua việc đăng ký, công nhận tổ chức tôn giáo Vì nhiều lý do, trước đổi mới và cả sau khi đổi mới một thời gian dài, pháp luật Việt Nam không đề cập đến vấn đề pháp nhân tôn giáo. Cùng với đổi mới về kinh tế, văn hóa, xã hội, là đổi mới về chính sách tôn giáo, một trong những vấn đề quan trọng và cấp bách và việc xem xét bình thường hóa hoạt động về tổ chức của các tôn giáo, tức là công nhận địa vị pháp lý về mặt tổ chức của tôn giáo. Phải đến pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 mới chính thức quy định công nhận tổ chức tôn giáo với hai giai đoạn: đăng ký và công nhận tổ chức tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 chính thức sử dụng mệnh đề: Pháp nhân tôn giáo và việc công nhận pháp nhân tôn giáo thuộc pháp nhân phi thương mại vẫn qua hai quá trình: đăng ký hoạt động và công nhận tổ chức tôn giáo. Sau đây là việc đăng ký và công nhận tổ chức tổ chức tôn giáo theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016). - Việc đăng ký hoạt động tôn giáo. Theo Luật lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (2016), pháp nhân tôn giáo ở Việt Nam trải qua hai giai đoạn: đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận tổ chức tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định cụ thể điều kiện đăng ký hoạt động tôn giáo của một tổ chức tôn giáo. Cụ thể: (1) có giáo lý, giáo luật, lễ nghi; (2) có tôn chỉ, mục đích, quy chế hoạt động không trái với quy định của pháp luật; (3) Tên của tổ chức không trùng với tên các tổ chức tôn giáo đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, tên tổ chức chính trị - xã hội hoặc tên các danh nhân, anh hùng dân tộc; (4) người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo 78 quy định của pháp luật về tố tụng hình sự; nội dung hoạt động tôn giáo không thuộc các hành vi bị nghiêm cấm (theo Điều 18) [117, tr.19]. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016) quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký của tổ chức tôn giáo gồm: (1) văn bản đăng ký nêu rõ tên tổ chức, tên tôn giáo, tôn chỉ, mục đích, nội dung, địa bàn hoạt động, nguồn gốc hình thành, quá trình phát triển ở Việt Nam, họ và tên người đại diện tổ chức, số lượng người tin theo, địa điểm dự kiến đặt trụ sở; (2) danh sách, sơ yếu lý lịch, phiếu lý lịch tư pháp, bản tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo cua người đại diện và những người dự kiến lãnh đạo tổ chức; (3) bản tóm tắt giáo lý, giáo luật, lễ nghi; (3) quy chế hoạt động của tổ chức; (4) giấy tờ chứng minh có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở (theo Điều 19). Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016) quy định thẩm quyền và thời hạn cấp giấy chứng nhận hoạt động tôn giáo. Cụ thể: Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đối với tổ chức có địa bàn hoạt động ở một tỉnh trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp từ chối cấp chứng nhận đăng ký phải nêu rõ lý do. Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo đối với tổ chức có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp từ chối cấp chứng nhận đăng ký phải nêu rõ lý do (theo Điều 19) [117, tr.20]. Theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016), khi được cấp đăng ký hoạt động, tổ chức tôn giáo được triển khai các hoạt động cụ thể: (1) Tổ chức các cuộc lễ tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo, giảng đạo, bồi dưỡng giáo lý; (2) Bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức việc; (3) Sửa chữa, cải tạo trụ sở; d) Tham gia hoạt động từ thiện, nhân đạo; (4) Tổ chức đại hội thông qua hiến chương. Và mặc dù mới ở mức đăng ký hoạt động tôn giáo nhưng các tổ chức tôn giáo tuân thủ quy định của Luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan (theo Điều 20) [117, tr.20]. 79 - Việc công nhận tổ chức tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016) đã quy định về việc công nhận tổ chức tôn giáo. Cụ thể về điều kiện công nhận tổ chức tôn giáo: 1. Hoạt động ổn định, liên tục từ đủ 05 năm trở lên kể từ ngày được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo; 2. Có hiến chương theo quy định tại Điều 23 của Luật này; 3. Người đại diện, người lãnh đạo tổ chức là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự; 4. Có cơ cấu tổ chức theo hiến chương; 5. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; 6. Nhân danh tổ chức tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập (Điều 21) [117, tr.21]. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016) đã quy định rõ trình tự, thủ tục công nhận tổ chức tôn giáo. Cụ thể: Tổ chức nếu đủ điều kiện theo quy định gửi hồ sơ đề nghị công nhận tổ chức tôn giáo đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hồ sơ đề nghị gồm: (1) Văn bản đề nghị nêu rõ tên tổ chức đề nghị công nhận, tên giao dịch quốc tế (nếu có); tên tôn giáo; họ và tên người đại diện tổ chức; số lượng tín đồ, địa bàn hoạt động của tổ chức tại thời điểm đề nghị; cơ cấu tổ chức, trụ sở của tổ chức; (2) Văn bản tóm tắt quá trình hoạt động của tổ chức từ khi được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo; (3) Danh sách, sơ yếu lý lịch, phiếu lý lịch tư pháp, bản tóm tắt quá trình hoạt động tôn giáo của người đại diện và những người dự kiến lãnh đạo tổ chức; (4) Bản tóm tắt giáo lý, giáo luật, lễ nghi; (5) Hiến chương của tổ chức; (6) Bản kê khai tài sản hợp pháp của tổ chức; (7) Giấy tờ chứng minh có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở. Về thẩm 80 quyền công nhận tổ chức tôn giáo được chi thành hai cấp: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định công nhận tổ chức tôn giáo đối với tổ chức có địa bàn hoạt động ở một tỉnh trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không công nhận phải nêu rõ lý do. Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương quyết định công nhận tổ chức tôn giáo đối với tổ chức có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không công nhận phải nêu rõ lý do [117]. Các nội dung về công nhận tổ chức tôn giáo của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016), về cơ bản giống với Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (2004), chỉ có một số nội dung bổ xung thêm là: xác định thời gian từ khi tổ chức tôn giáo đăng ký cho đến khi công nhận là 05 năm, trước đây Nghị định 92/NĐ-CP (2012) quy định là 20 năm; hồ sơ đề nghị có thêm phần kê khai tài sản; đặc biệt Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016) quy định cụ thể về hiến chương (điều lệ), những nội dung hiến chương phải thể hiện và việc sửa đổi hiến chương của tổ chức tôn giáo (theo Điều 23, Điều 24), tên của tổ chức tôn giáo, việc thay đổi trụ sở của tổ chức tôn giáo, Về cơ quan có thẩm quyền công nhận, trước đây theo Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (2004) là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh đối với tổ chức tôn giáo trong phạm vi một tỉnh, Thủ tướng Chính phủ đối với tổ chức tôn giáo trong phạm vi nhiều tỉnh, đến nay, theo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016), Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo công nhận đối với chức tôn giáo trong phạm vi nhiều tỉnh, và thời gian ở cả hai cấp ở đều sau 60 ngày sau khi nhận đủ hồ sơ. Có hai điều đặc biệt cần quan tâm giữa Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (2004) và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016: một là, khi công nhận tổ chức tôn giáo không dùng cụm từ pháp nhân, nay Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016), công nhận tổ chức tôn giáo thuộc “pháp nhân phi thương mại”; hai là, việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung của cộng đồng tôn giáo mới sẽ hình thành những tổ chức tôn giáo mới có tư cách pháp nhân nếu đủ điều kiện theo pháp luật (theo Điều 30) [117, tr.28]. 81 - Việc thành lập, chia, tách sát nhập, hợp nhất các tổ chức trực thuộc. Đây là nội dung Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016) quy định rất chi tiết. Cụ thể: Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc được thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; chia, tách tổ chức tôn giáo trực thuộc thành nhiều tổ chức tôn giáo trực thuộc mới; sáp nhập tổ chức tôn giáo trực thuộc vào một tổ chức tôn giáo trực thuộc khác; hợp nhất các tổ chức tôn giáo trực thuộc thành một tổ chức tôn giáo trực thuộc mới. Điều kiện thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc, gồm: hiến chương của tổ chức tôn giáo có quy định về việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc; hoạt động của tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi chia, tách, sáp nhập, hợp nhất không thuộc trường hợp quy định tại Điều 5 của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016); có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở [117]. Năm 2017, Chính phủ ban hành Nghị định 162/2017/NĐ-CP, ngày 30 tháng 12 năm 2017, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã quy định trình tự, thủ tục, thẩm quyền chấp thuận thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc. Về hồ sơ, gồm: văn bản đề nghị nêu rõ lý do; văn bản tóm tắt quá trình hoạt; danh sách, sơ yếu lý lịch, phiếu lý lịch tư pháp của người đại diện và những người dự kiến lãnh đạo tổ chức tôn giáo trực thuộc; hiến chương của tổ chức tôn giáo trực thuộc (nếu có); bản kê khai tài sản hợp pháp của tổ chức tôn giáo trực thuộc; giấy tờ chứng minh có địa điểm hợp pháp để đặt trụ sở [117, tr.68- 69]. Nghị định 162/2017/NĐ-CP quy định thẩm quyền chấp thuận việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc. Cụ thể: + Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở một tỉnh trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do. + Cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp 82 nhất đối với tổ chức tôn giáo trực thuộc có địa bàn hoạt động ở nhiều tỉnh trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do (Điều 29) [117, tr.27-28]. Nghị định 162/2017/NĐ-CP cũng quy định về việc giải thể tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc theo quy định của hiến chương, trước hết là tổ chức tôn giáo tự quyết định giải thể, sau đó là sự chấp thuận giải thể của chính quyền. Nghị định 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết về hồ sơ đề nghị, gồm: văn bản đề nghị, bản kê khai tài sản, tài chính, phương thức xử lý tài sản, [117, tr. 69-70]. Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (2004) có quy định việc đăng ký hội đoàn tôn giáo và các hình thức tu hành tập thể - dòng tu, nhưng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (2016) không quy định việc đăng ký hội đoàn tôn giáo, các hình thức tu hành tập thể mà giải quyết việc đăng ký, công nhận hội đoàn, dòng tu theo quy định của tổ chức tôn giáo trực thuộc. Như vậy, về mặt luật pháp pháp nhân tôn giáo ở Việt Nam dưới tên gọi khác nhau, có sự khác nhau giữa các thời kỳ. Thời kỳ trước đổi mới liên quan đến Luật số 102-SL/L-004, ngày 20-5-1957 Quy định quyền lập hội (gọi là Luật Lập hội). Tuy nhiên, thời kỳ này không phải tất cả các tổ chức tôn giáo được áp dụng theo, mà tuỳ từng trường hợp cụ thể. Luật Dân sự 2003 quy định công nhận pháp nhân đối với các tổ chức kinh tế văn hoá, xã hội nhưng không cụ thể hoá cho pháp nhân tôn giáo. Luật Dân sự sửa đổi năm 2015 chia thành hai loại pháp nhân: Pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại, cũng không đề cập cụ thể đối với pháp nhân tôn giáo. Quy định pháp luật cụ thể về hoạt động tôn giáo thời kỳ đầu đổi mới qua Nghị định 69/1991/NĐ-CP (1991) và sau đó thay bằng Nghị định 26/1999/NĐ-CP (1999) cũng không quy định pháp nhân tôn giáo. Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2004 chính thức quy định về việc công nhận tổ chức tôn giáo qua việc đăng ký và công nhận, nhưng vẫn chưa gọi là pháp nhân tôn giáo. Luật Tínn ngưỡng, tôn giáo năm 2016 chính 83 thức công nhận pháp nhân tôn giáo thuộc pháp nhân phi thương mại cũng qua hai bước đăng ký và công nhận. 3.2. PHÁP NHÂN TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM TRƢỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI 3.2.1. Pháp nhân tôn giáo ở Việt Nam dƣới thời Pháp thuộc (1858-1945) và chế độ Việt Nam Cộng hoà trƣớc năm 1975 Trong ứng xử với tôn giáo, các triều đại phong kiến trước đây, trong mối quan hệ giữa chính quyền với tôn giáo, không đặt ra việc công nhận tổ chức tôn giáo - trừ trường hợp Nhà Nguyễn thời kỳ đầu bài trừ Công giáo. Đến khi Pháp xâm lược Việt Nam (1858), nhất là sau Hiệp định Pa-tơ-nốt năm 1884, Pháp triển khai nền hành chính theo mô hình nước Cộng hòa Pháp trên cả ba miền (ba kỳ), nhất là Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa. Do vậy, trong mối quan hệ giữa chính quyền với tôn giáo có việc chính quyền công nhận sự tổ chức tôn giáo, nhất là đối với những tôn giáo mới hình thành. Thời gian từ năm 1920 đến năm 1945, kể cả trước năm 1954, Phật giáo Việt Nam trong quá trình chấn hưng. Một trong những hoạt động chấn hưng của Phật giáo là hình thành tổ chức, như việc xuất hiện một tổ chức tiêu biểu: Hội Nghiên cứu Phật học Nam Kỳ (1931), Hội Phật học An Nam (1932), Hội Phật giáo Bắc Kỳ (1934), [57, tr.150-151]. Từ các tổ chức này, năm 1951, thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam, năm 1952 thành lập Tổng hội Tăng già Việt Nam - nền móng cho việc thống nhất Phật giáo thành lập một giáo hội chung về sau. Có lẽ dưới con mắt của Pháp, Phật giáo ở Việt Nam là tôn giáo truyền thống có từ lâu đời gắn với người dân Việt Nam nên không đặt ra việc công nhận các tổ chức Phật giáo ra đời trong phong trào chấn hưng như những tổ chức tôn giáo mới. Riêng với Phật giáo có trường hợp Tịnh độ Cư sỹ Phật hội. Khi mới xuất hiện, Tịnh độ Cư sỹ Phật hội được coi là một pháp môn của Phật giáo, nhưng do tính đặc thù mặt tu hành nên đứng độc lập về tổ chức và trở thành một tổ chức tôn giáo có liên quan đến Phật giáo được chính quyền Pháp cấp phép hoạt động (Giấy phép số 619 ngày 20 tháng 02 năm 1934) [170, tr.491]. 84 Đạo Tin lành truyền vào Việt Nam cuối thế kỷ XIX từ tổ chức Hội Truyền giáo CMA (The Christian and Missonnary of Alliance) - một tổ chức truyền giáo đến từ Tin lành Mỹ. Sau khi đặt cơ sở ở Đà Nẵng năm 1911 đến khi chính quyền Pháp công nhận hoạt động về tổ chức (1941) là thời kỳ Tin lành hoạt động gặp khá nhiều khó khăn vì nhiều lý do. Mặc dù môi trường truyền giáo không thuận lợi nhưng Hội Truyền giáo CMA cũng đã xây dựng một số cơ sở ở cả ba miền và đến năm 1930 chính thức ra đời tổ chức Hội thánh Tin lành Đông Pháp. Sau khi thành lập, tổ chức Hội Tin lành Đông Pháp đã có văn bản xin công nhận. Nhưng mãi đến ngày 19 tháng 01 năm 1941, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương gửi văn thư chấp thuận nhân sự lãnh đạo Hội thánh, được hoạt động như là một tổ chức đoàn thể tôn giáo với tên gọi: Hội thánh Tin lành Việt Nam cho đến ngày nay [173, tr.373]. Đạo Cao Đài chính ra đời ở Nam Kỳ năm 1926. Những người sáng lập đạo Cao Đài là trí thức, công chức hiểu nền hành chính của Pháp ở Nam Kỳ nên những người sáng lập Cao Đài đã có một văn bản chính thức đề nghị đề ngày 07 tháng 10 năm 1926 viết bằng tiếng Pháp gửi cho Thống đốc Nam Kỳ. Bản đề nghị có danh sách và chữ ký của 28 người đại diện, trong đó 17 người là công chức, 04 người là nghiệp chủ, kỳ hào, 03 nhà tu hành. Những người sáng lập còn gửi kèm bản Thánh ngôn và bản Kinh cầu nói lên tôn chỉ, mục đích và cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài [10, tr.126]. Chính quyền Pháp đang xem xét chưa trả lời nhưng vì yếu tố tâm linh nên những người sáng lập đạo Cao Đài đã tổ chức Lễ Khai đạo chính thức cho ra đời một tôn giáo mới - đạo Cao Đài vào ngày 19 tháng 11 năm 1926 tại Tây Ninh. Về sau chính quyền Pháp ở Nam Kỳ cho người đi thẩm tra và theo dõi hoạt động của Cao Đài thấy thuần túy tôn giáo nên bỏ qua sự kiện này, coi như đạo Cao đài là hợp pháp [168, tr.112-113]. Phật giáo Hòa Hảo ra đời ở Nam Bộ dưới chế độ thuộc địa của Pháp nhưng là trường hợp riêng trong thời kỳ này không có sự chấp thuận của chính quyền. Phật giáo Hòa Hảo ra đời được coi là pháp môn của Phật giáo, một lối tu phù hợp với “căn cơ của chúng sinh” vùng đồng bằng sông nước 85 Cửu Long, một lối tu khắc phục sự “suy vi” của Phật giáo đương thời, “tu tại tâm cúng lễ tại nhà”, không xuất gia tu hành. Lúc mới ra đời, Phật giáo Hòa Hảo chủ trương không xuất gia, không có tăng sỹ, và không xây dựng tổ chức. Cũng chính vì điều này, chính quyền đương thời không đặt ra, thậm chí bỏ qua vấn đề việc phép tắc và công nhận Phật giáo Hòa Hảo [170, tr.383-384]. Theo quy định pháp luật của chính quyền Việt Nam Cộng hoà, hầu hết các tổ chức tôn giáo ở miền Nam trước năm 1975, trừ Công giáo theo quy chế riêng, muốn hoạt động được pháp luật bảo hộ đều phải được chính quyền thừa nhận. Tuy nhiên, do hạn chế về tư liệu nên trong mục này chỉ nêu một số tôn giáo cụ thể, như: Phật giáo, Tin lành Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Sau 1954, đất nước chia làm hai miền, Tổng hội Phật giáo Việt Nam thành lập năm 1951 danh nghĩa hoạt động chủ yếu ở phía Nam nhưng không quy tụ được các tổ chức, hệ phái Phật giáo, hay nói các khác, các tổ chức, hệ phái Phật giáo ở miền Nam vẫn hoạt độc độc lập, trong đó có những tổ chức, hệ phái mới. Từ ngày 31 tháng 12 năm 1963 đến ngày 04 tháng 01 năm 1964, 13 tổ chức Phật giáo: Ủy ban Liên lạc Phật giáo, Giáo hội tăng già Bắc Việt, Thiền định đạo tràng, Giáo hội Nguyên thủy Việt Nam, Giáo hội Therevada, Giáo hội Tăng già Bắc Việt tại miền Nam, Giáo hội tăng già Trung phần, Giáo hội tăng già Nam Việt, Hội Phật giáo Nguyên thủy, Hội Phật giáo Trung phần, Hội Phật giáo Việt Nam, Đại diện Phật tử Therevada đã họp tại Chùa Xá Lợi (Sài Gòn) lập ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Theo quy định hiện hành, Ban lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có văn bản đề nghị cùng hồ sơ và Hiến chương gửi Bộ Nội vụ xin công nhận sự hợp pháp của tổ chức. Ngày 15 tháng 01 năm 1964, Tổng trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa có văn bản số 123-NV chính thức công nhận pháp nhân của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất với hai cấp: Trung ương gốm Viện Tăng thống và Viện Hóa đạo, cấp miền gồm 08 miền hoạt động ở 44 tỉnh. Trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đặt tại chùa Ấn Quang (Sài Gòn). 86 Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hoạt động đến giữa những năm 1960 thì chia rẽ thành hai phái. Một bộ phận ủng hộ chính quyền Sài Gòn tách ra lập tổ chức riêng gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất - Phái Việt Nam Quốc Tự (vì đặt cơ sở tại chùa Việt Nam Quốc Tự), phái gốc gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất - Phái Ân Quang (vì đặt cơ sở tại chùa Ấn Quang). Sau khi tách thành tổ chức Việt Nam Quốc Tự, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ra Sắc luật 23/67-SL ngày 18 tháng 7 năm 1967 công nhận [10, tr.126]. Sự tồn tại hai tổ chức Phật giáo có pháp nhân ở miền Nam cho đến ngày miền Nam giải phóng (1975). Trước năm 1975, ở miền Nam một số tổ chức Phật giáo khác mới ra đời cũng được chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_phap_nhan_ton_giao_o_viet_nam_nhung_van_de_dat_ra_hi.pdf
  • pdfScan Nguyễn Tuấn Thùy.pdf
  • pdfThông tin tiếng Anh.pdf
  • pdfThông tin tiếng Việt.pdf
  • pdfTóm tắt TA.pdf
  • pdfTóm tắt TV.pdf
Tài liệu liên quan