MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.1
1. Tính cấp thiết của đề tài .1
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.3
2.1. Mục tiêu nghiên cứu.3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.3
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu.3
3.2. Phạm vi nghiên cứu.4
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .4
4.1. Cơ sở lý luận.4
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu.4
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án.5
Chƣơng 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.6
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ SỨC MẠNH MỀM.6
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA .13
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VIỆC PHÁT HUY SỨC MẠNH
MỀM VĂN HÓA.18
1.4. KHÁI QUÁT GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN
TỚI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU .30
Chƣơng 2: PHÁT HUY SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.33
2.1. QUAN NIỆM VỀ SỨC MẠNH MỀM, SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA VÀ SỨC
MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM .33
2.2. PHÁT HUY SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM – THỰC CHẤT VÀ
NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG.54iii
2.3. HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT HUY SỨC
MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
HIỆN NAY .67
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2.77
Chƣơng 3: PHÁT HUY SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ – THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN.78
3.1. THỰC TRẠNG PHÁT HUY SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ .78
3.2. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG.102
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3.115
Chƣơng 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
PHÁT HUY SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY.117
4.1. NÂNG CAO NHẬN THỨC VÀ TÍNH CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC PHỐI KẾT
HỢP CỦA CÁC CHỦ THỂ TRONG VIỆC PHÁT HUY SỨC MẠNH MỀM VĂN
HÓA VIỆT NAM.117
4.2. XÁC ĐỊNH RÕ HƠN NHỮNG NỘI DUNG SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA
CẦN PHÁT HUY PHÙ HỢP VỚI TIỀM NĂNG VÀ LỢI THẾ CỦA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY .125
4.3. ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC PHƢƠNG THỨC PHÁT HUY
SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY.129
4.4. TĂNG CƢỜNG NGUỒN LỰC VÀ ĐẢM BẢO CÁC ĐIỀU KIỆN NHẰM
NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁT HUY SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM
HIỆN NAY .141
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4.145
KẾT LUẬN .146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .149
169 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng
thời, sự phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là của công nghệ thông tin và mạng
internet c ng đem lại những công cụ hữu hiệu cho việc quảng bá các giá trị và sản
phẩm văn hóa của một quốc gia. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế c ng đƣa lại không
t khó khăn, thách thức cho các quốc gia trong nỗ lực phát huy sức mạnh mềm văn
hóa của mình. Đó là sự cạnh tranh ảnh hƣởng giữa các nƣớc lớn dẫn tới nhiều nguy
cơ văn hóa đối với các quốc gia nh ; chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế
khiến các nƣớc nh , các nƣớc đang phát triển gặp nhiều khó khăn trong việc tìm ra
con đƣờng phát triển, phát huy sức mạnh của mình. Trong bối cảnh nhƣ thế, việc
phát huy sức mạnh mềm văn hóa càng cần thiết vì các lý do sau:
Thứ nhất, phát huy sức mạnh m m văn hóa Việt Nam là một phương thức gia
tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia phù hợp với xu thế của thời đại.
Trong thời đại hội nhập quốc tế hiện nay, xu thế hòa bình, ổn định để hợp tác
cùng phát triển là nhu cầu khách quan và trở thành xu thế chủ yếu đƣợc các quốc
gia theo đuổi. Mức độ hội nhập quốc tế c ng ngày càng sâu sắc hơn, ao quát toàn
diện hơn, tạo nên bối cảnh lợi ch đan xen, phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia.
Vì vậy, đây là giai đoạn mà những tác động về mặt quân sự không đƣợc ƣu tiên do
khả năng đạt đƣợc mục đ ch không cao, thậm chí có thể gây bất lợi cho các quốc gia
s dụng. Thay vào đó, những tác động về mặt văn hóa lại t ra là phƣơng thức phù
hợp và hiệu quả nhằm đạt đƣợc mục tiêu, lợi ích cho mỗi quốc gia thành viên. Bởi
vì con ngƣời d ở ất kỳ đâu, d thuốc chủng tộc hay nền văn hóa nào, thì đều có
những đặc t nh chung. Đó là tinh thần nhân văn, nhân đạo, là tình yêu cái đ p, yêu
tr tuệ, là nhu cầu giao lƣu với nhau và với các dân tộc, các nền văn hóa khác nhau.
Ch nh những đặc t nh này của con ngƣời đ trở thành cơ sở cho sự gặp gỡ và hấp
dẫn một cách tự nhiên giữa các nền văn hóa khác nhau, c ng là cơ sở để mỗi quốc
gia có thể phát huy sức ảnh hƣởng văn hóa của mình đối với các quốc gia khác.
Không ngẫu nhiên mà lý luận về sức mạnh mềm của J. Nye ngay khi ra đời vào
những năm 90 của thế kỷ XX đ nhận đƣợc nhiều sự quan tâm nghiên cứu của cả
73
giới học thuật lẫn giới chính trị gia nhƣ vậy. Nhiều quốc gia đ cực kỳ thành công
trong việc s dụng sức mạnh mềm văn hóa nhƣ là một cách thức để xây dựng hình
ảnh và thƣơng hiệu quốc gia, tạo cơ hội để quảng á đất nƣớc nhƣ truyện tranh
Manga, phim hoạt hình Anime Nhật ản hay làn sóng Hàn Quốc (Hàn lƣu). T đó,
họ thu hút nhiều cơ hội, những mối quan hệ quốc tế c ng nhƣ nguồn thu nhập để
phát triển đất nƣớc. Trong cuộc cạnh tranh văn hóa nhằm tạo ảnh hƣởng trên trƣờng
quốc tế này, nếu không muốn ị tụt hậu và ị động, Việt Nam cần nhanh chóng có
chiến lƣợc cụ thể nhằm phát huy sức mạnh mềm văn hóa, nâng cao sức mạnh tổng
hợp quốc gia.
Đồng thời, trong kỷ nguyên của công nghệ thông tin và truyền thông nhƣ
hiện nay, các ứng dụng khoa học công nghệ s tạo điều kiện để các giá trị văn hóa
lan truyền và tạo ảnh hƣởng t quốc gia này sang quốc gia khác với tốc độ vô c ng
nhanh chóng. Vì vậy, việc quảng á và phát huy sức mạnh mềm văn hóa của các
quốc gia s có những cơ sở kỹ thuật vô c ng thuận lợi để thực hiện. Hơn nữa, ối
cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng không chỉ kết nối con ngƣời và các quốc gia với
nhau, t đó tạo điều kiện cho các chủ thể phát huy sức mạnh mềm văn hóa tiếp cận
nhanh chóng và dễ dàng hơn với công chúng ở khắp nơi trên thế giới mà c n làm
thay đổi và thúc đẩy việc mở rộng nhu cầu thƣởng thức văn hóa của con ngƣời trên
khắp thế giới. Đây là ối cảnh thuận lợi để các quốc gia tiến hành công việc xuất
khẩu văn hóa nhằm phát triển kinh tế - x hội và gia tăng vị thế, tầm ảnh hƣởng của
quốc gia trên trƣờng quốc tế, đặc iệt là đối với Việt Nam vốn vẫn luôn có thế mạnh
về một nền văn hóa lâu đời và phong phú.
Thứ hai, phát huy sức mạnh m m văn hóa là một trong những phương thức
hữu hiệu giúp Việt Nam vượt qua những thách thức của quá trình hội nhập quốc tế.
Khi tiến hành hội nhập quốc tế, một trong những thách thức mà các quốc gia
đang phát triển nhƣ Việt Nam phải đối mặt là cuộc cạnh tranh bất ình đ ng với các
quốc gia lớn. Việc phải chịu những ràng buộc của các thiết chế tài chính, tiền tệ,
thƣơng mại quốc tế, mà những thiết chế này hoạt động dựa trên những quy tắc chủ
yếu do các nƣớc phát triển đặt ra bởi sức mạnh kinh tế và mức góp vốn của họ đ
74
đặt các quốc gia còn lại, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển trƣớc những sức ép
cạnh tranh bất ình đ ng c ng nhƣ sự phân phối lợi ích không đồng đều trên quy
mô toàn cầu. T đó, họ thƣờng phải gánh chịu những bất lợi, chịu phần thua thiệt
trong những mối quan hệ này. Vì vậy, khi tiến hành hội nhập quốc tế, việc tranh thủ
những lợi thế của quốc gia để giảm bớt sức ép cạnh tranh bất bình đ ng, tìm kiếm
thêm cơ hội cho phát triển là việc mà quốc gia nào c ng quan tâm. Là một quốc gia
đang phát triển, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để tranh thủ cơ hội phát triển
đất nƣớc, việc phát huy sức mạnh mềm văn hóa có thể tạo nên sự thuận lợi hơn cho
Việt Nam, giúp gia tăng sức cạnh tranh, giảm bớt sức ép và cạnh tranh bất bình
đ ng trong quá trình hội nhập quốc tế.
Hơn nữa, hội nhập quốc tế đặt ra những vấn đề mới về độc lập, chủ quyền
của dân tộc và bảo vệ an ninh quốc gia. Trên lĩnh vực chính trị, khi tiến hành hội
nhập quốc tế, chúng ta phải đối mặt với một số nguy cơ đe dọa độc lập, chủ quyền
và định hƣớng chính trị của quốc gia. Đ có những quan điểm nhấn mạnh sự phụ
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, nhấn mạnh sự hình thành một thị trƣờng toàn cầu,
không biên giới để hạ thấp chủ quyền và tính toàn v n lãnh thổ của quốc gia hay
quá nhấn mạnh những giá trị “nhân quyền”, “dân chủ” để làm mờ đi vấn đề chủ
quyền. Đối mặt với những nguy cơ này, chúng ta hoàn toàn không thể đóng c a lại,
cự tuyệt hội nhập, mà cần tìm ra những cách thức hóa giải chúng, mà phát huy sức
mạnh mềm văn hóa ch nh là một trong những phƣơng cách hiệu quả. Nó không chỉ
giúp củng cố sức mạnh nội sinh của văn hóa quốc gia thông qua việc giao lƣu, tiếp
biến có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại mà còn góp phần hóa giải những
tác động nguy hại đối với bản sắc văn hóa dân tộc. Chính vì thế, phát huy sức mạnh
mềm văn hóa đóng góp vai tr đáng kể trong việc giúp Việt Nam đối mặt và giải
quyết những nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền
của dân tộc.
Thứ ba, phát huy sức mạnh m m văn hóa giúp khơi dậy những giá trị văn
hóa truy n thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc
trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
75
Trên lĩnh vực văn hóa, hội nhập quốc tế đ đƣa lại những nhân tố không an
toàn cho an ninh văn hóa quốc gia khi nhiều quốc gia lớn chủ động khuếch trƣơng
những giá trị văn hóa của họ thông qua những hình thức khác nhau, t phim ảnh
giải tr , nghệ thuật tới giáo dục, công nghệ nhằm tạo nên sức ảnh hƣởng về văn
hóa, thông qua đó là ảnh hƣởng về kinh tế, ch nh trị tới các quốc gia khác, đặc
iệt là các quốc gia đang và k m phát triển. Điều này dẫn tới thực trạng ất ình
đ ng trong giao lƣu văn hóa và nguy cơ mai một ản sắc văn hóa dân tộc. Phát huy
sức mạnh mềm văn hóa ch nh là giải pháp tạo thế chủ động trong hội nhập quốc tế
về văn hóa. Việc phát huy sức mạnh mềm văn hóa trƣớc tiên giúp khơi dậy và phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đ p, đặc sắc của dân tộc, để quá trình hội
nhập quốc tế về văn hóa của đất nƣớc ta đạt đƣợc mục đ ch tiếp thu những tinh hoa
văn hóa của thế giới nhằm ổ sung, làm giàu cho nền văn hóa của đất nƣớc, tránh
đƣợc những tác động xấu t các nền văn hóa khác. Trên cơ sở đó, chúng ta tiếp tục
quảng á nền văn hóa của dân tộc, tạo sức hấp dẫn đối với ngƣời nƣớc ngoài. Đây
là phƣơng thức hiệu quả để giữ vững ản sắc và t nh độc lập về văn hóa của quốc
gia, ởi vì giữ gìn ản sắc văn hóa dân tộc không đơn thuần là duy trì cái c , d
rằng đó là những giá trị đ đƣợc hun đúc nên qua hàng ngàn năm lịch s . Giữ gìn và
ảo vệ ản sắc văn hóa dân tộc c n đ i h i quá trình phát triển những giá trị đó ph
hợp với ối cảnh hiện đại, phục vụ thiết thực cho cuộc sống hiện đại. Có thể nói,
phát huy sức mạnh mềm văn hóa góp phần hiệu quả vào công cuộc giữ gìn và ảo
vệ ản sắc dân tộc, t nh độc lập của Việt Nam, nhƣ Tổng thƣ Nguyễn Phú Trọng
đ kh ng định: “văn hóa c n thì dân tộc c n, văn hóa mất thì dân tộc mất”.
Thứ tư, phát huy sức mạnh m m văn hóa là một trong những giải pháp góp
phần thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển đất nước trong thời đại mới.
Trong quá trình l nh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam
nhiều lần nhấn mạnh mục tiêu phát triển đất nƣớc ao gồm cả mục tiêu kinh tế,
chính trị và mục tiêu văn hóa, phát triển con ngƣời. Nghị quyết trung ƣơng 9 khóa
XI kh ng định: “Xây dựng nền văn hóa và con ngƣời Việt Nam phát triển toàn diện,
76
hƣớng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của x hội, là sức
mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. [109] Còn
báo cáo ch nh trị tại Ðại hội XIII xác định mục tiêu tổng quát của Việt Nam trong
những năm tiếp theo là: “Nâng cao năng lực l nh đạo, năng lực cầm quyền và sức
chiến đấu của Ðảng; xây dựng Ðảng và hệ thống ch nh trị trong sạch, vững mạnh
toàn diện; củng cố, tăng cƣờng niềm tin của nhân dân đối với Ðảng, Nhà nƣớc, chế
độ x hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nƣớc phồn vinh, hạnh phúc,
phát huy ý ch và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại;
đẩy mạnh toàn diện, đồng ộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây
dựng và ảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trƣờng h a ình, ổn định; phấn
đấu đến giữa thế kỷ XXI, nƣớc ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa”. [16, tr. 111-112]. Mục tiêu này đƣợc xác định không chỉ cho năm năm
2021-2025, mà cho cả những năm tiếp theo, đến giữa thế kỷ XXI. Phát huy sức
mạnh mềm văn hóa là một trong những giải pháp quan trọng nhằm thực hiện mục
tiêu chiến lƣợc phát triển đất nƣớc trong thời đại mới. Nó không chỉ góp phần thúc
đẩy sự phát triển kinh tế của đất nƣớc thông qua sự phát triển của các ngành công
nghiệp văn hóa, du lịch, thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài mà c n tham gia vào quá trình
xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà ản sắc dân tộc, tạo ra sức hấp dẫn, lôi
cuốn về văn hóa đối với con ngƣời và cộng đồng văn hóa khác. T đây, phát huy
sức mạnh mềm văn hóa giúp khơi dậy khát vọng phát triển đất nƣớc phồn vinh,
hạnh phúc trong nhân dân c ng nhƣ tăng cƣờng sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Nhƣ vậy, nhìn một cách tổng quát, phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt
Nam là cách thức hiệu quả và phù hợp để quảng bá hình ảnh quốc gia, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc, nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần gia tăng sức mạnh
tổng hợp quốc gia trong bối cảnh Việt Nam chủ động hội nhập quốc tế sâu, rộng
hiện nay.
77
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Sự phát triển của lý luận sức mạnh mềm trong thời gian qua c ng nhƣ sự
quan tâm đến vấn đề này của nhiều nhà hoạch định ch nh sách cho thấy, việc s
dụng sức mạnh mềm, sức mạnh mềm văn hóa là một trong những phƣơng thức phù
hợp và hiệu quả để gia tăng sức mạnh quốc gia hiện nay. Trong các nguồn lực, văn
hóa là nguồn tiềm năng quan trọng nhất giúp cấu thành sức mạnh mềm của một
quốc gia. Trải qua một quá trình với những cơ chế cụ thể, gồm trao đổi, phát tán,
xây dựng sự t n nhiệm và gây đƣợc ảnh hƣởng đến cộng đồng x hội khác, nguồn
tiềm năng ấy s trở thành sức mạnh mềm văn hóa của quốc gia. Quá trình này đ i
h i một chiến lƣợc tổng thể với sự kết hợp kh o l o của nhiều phƣơng thức khác
nhau, t y t ng điều kiện của mỗi quốc gia.
Đối với Việt Nam, chúng ta có nhiều tiềm năng về văn hóa để có thể phát
huy sức mạnh mềm văn hóa của đất nƣớc, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp
quốc gia. Dựa trên các tiềm năng về một nền văn hóa đa dạng, đặc sắc, những di sản
phong phú, cả di sản vật thể và phi vật thể, Việt Nam hoàn toàn có thể tự tin hoạch
định một chiến lƣợc cụ thể nhằm phát huy sức mạnh mềm văn hóa, để không những
nâng cao đƣợc hình ảnh và vị thế của quốc gia trên trƣờng quốc tế mà c n có thể
đối phó với sự xâm lấn và ảnh hƣởng của văn hóa ngoại lai đang tác động đến mỗi
ngƣời dân. Với điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay, việc phát huy sức mạnh
mềm văn hóa có thể t nh tới một số công cụ cơ ản nhƣ ngoại giao văn hóa, công
nghiệp văn hóa, truyền thông đại chúng và phát triển du lịch.
Là một nƣớc đang phát triển, hiện nay, đất nƣớc ta đang chủ động, t ch cực
tiến hành hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ cơ hội để phát triển đất nƣớc. Nhƣng
c ng với những cơ hội đó là không t thách thức đặt ra đối với chúng ta, đặc iệt là
các thách thức liên quan tới an ninh văn hóa. Trong ối cảnh nhƣ vậy, việc phát huy
sức mạnh mềm văn hóa có thể xem nhƣ một trong những iện pháp hữu hiệu để v a
giữ gìn, ảo vệ ản sắc văn hóa dân tộc, v a gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia,
hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nƣớc.
78
Chƣơng 3
PHÁT HUY SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ – THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1. THỰC TRẠNG PHÁT HUY SỨC MẠNH MỀM VĂN HÓA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.1.1. Một số thành tựu
Thành tựu trong việc lan tỏa các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc thông
qua hoạt động ngoại giao văn hóa.
T lâu trong lịch s Việt Nam, ngoại giao văn hóa đ có những đóng góp t ch
cực vào công cuộc xây dựng và ảo vệ đất nƣớc. Có thể kể tới phƣơng pháp “ngoại
giao tâm công” của Nguyễn Tr i hay tƣ tƣởng “h a hiếu”, “thêm ạn ớt th ”, “dĩ ất
iến ứng vạn iến” của chủ tịch Hồ Ch Minh Trong những năm trƣớc đổi mới, do
nhiều nguyên nhân mà công tác ngoại giao văn hóa chƣa đƣợc quan tâm đúng mức.
Đại hội VI của Đảng với đƣờng lối Đổi mới đ chuyển hƣớng ch nh sách ngoại giao,
chủ trƣơng mở rộng quan hệ với tất cả các nƣớc trên thế giới nhằm tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa x hội và ảo vệ Tổ quốc. Kể t
đó, ngoại giao Việt Nam, với tƣ tƣởng “h a hiếu” đ tham gia hiệu quả vào công tác
phá “tảng ăng” ao vây, cấm vận, khai thông những ế tắc trong mối quan hệ của
nƣớc ta với các nƣớc láng giềng, với các nƣớc lớn trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi
cho tiến trình hội nhập quốc tế của đất nƣớc. T khi đất nƣớc ta chủ động hội nhập
quốc tế, trƣớc hết về kinh tế, sau đó là hội nhập toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, thì
ngoại giao văn hóa ắt đầu đƣợc đẩy mạnh và ngày càng thể hiện vai tr quan trọng
trong nền ngoại giao của mỗi quốc gia ởi sức lan t a mạnh m của văn hóa có tác
dụng to lớn trong việc xây dựng l ng tin, giúp làm sâu sắc và thắt chặt hơn các mối
quan hệ ch nh trị và kinh tế giữa các quốc gia. Trong ối cảnh hội nhập quốc tế, khi các
đối tƣợng mà ngoại giao văn hóa hƣớng tới ngày càng rộng lớn và đa dạng hơn, và quá
trình ngoại giao văn hóa c ng diễn ra theo hai chiều trao đổi, chi phối lẫn nhau giữa hai
ên, thì ngoại giao văn hóa Việt Nam c ng đ đổi mới các phƣơng thức thực hiện và
đạt đƣợc một số thành tựu trong mục tiêu ảo vệ và phát huy các giá trị, ản sắc văn
hóa dân tộc, phát huy sức mạnh mềm văn hóa của đất nƣớc.
79
Thứ nhất, các hoạt động ngoại giao văn hóa đ góp phần quảng á các giá trị
văn hóa tinh thần cốt lõi của ngƣời Việt, ản sắc riêng có của văn hóa Việt Nam.
Việc quảng á này trƣớc hết đƣợc thực hiện thông qua những hình thức nhƣ tôn
vinh các danh nhân văn hóa, những cá nhân tiêu iểu trong văn hóa Việt Nam. Cho
đến nay, ngoại giao văn hóa Việt Nam đ đề c và đƣợc UNESCO vinh danh ốn
danh nhân kiệt xuất. Đó là Nguyễn Tr i – anh h ng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất
(1980) nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh, Chủ tịch Hồ Ch Minh – anh h ng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất (1990) nhân 100 năm ngày sinh,
Nguyễn Du – đại thi hào dân tộc (2015) nhân kỷ niệm 250 năm ngày sinh và Chu
Văn An - nhà giáo kiệt xuất của dân tộc (2020) nhân kỷ niệm 650 năm ngày mất.
Hoạt động này góp phần không nh nhằm quảng á các giá trị văn hóa tinh thần cao
quý của Việt Nam tới ạn quốc tế, giới thiệu hình ảnh một đất nƣớc Việt Nam
giàu truyền thống văn hóa với những con ngƣời mang trong mình những giá trị
nhân văn, tr tuệ, đạo đức và tinh thần học tập suốt đời. Đặc iệt, tháng 9/2009, Ban
B thƣ đ thông qua đề án “Tôn vinh Chủ tịch Hồ Ch Minh, Anh h ng giải phóng
dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam ở nƣớc ngoài 2010 - 2020”. Việc thực
hiện đề án này đ mang lại nhiều kết quả tốt đ p. Nhiều công trình tƣởng niệm và
tƣợng đài Chủ tịch Hồ Ch Minh ở nƣớc ngoài đ đƣợc xây dựng hoặc duy tu, s a
chữa. Cho đến nay, các công trình tƣởng niệm chủ tịch Hồ Ch Minh đ đƣợc xây
dựng, duy tu, s a chữa tại nhiều quốc gia: Trung Quốc (Di t ch trụ sở Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên tại Quảng Châu; Di t ch Văn ph ng Bát lộ quân Quế Lâm, tại
số nhà 14, đƣờng Trung Sơn, thành phố Quế Lâm; Di t ch thôn Lộ Mạc; Nhà lƣu
niệm về Chủ tịch Hồ Ch Minh ở Liễu Châu, Long Châu); Thái Lan (Khu tƣởng
niệm chủ tịch Hồ Ch Minh tại làng Nachok, tỉnh Nakhon Phanom); Lào (Khu lƣu
niệm Chủ tịch Hồ Ch Minh ở ản Xiềng Vang, huyện Noọng Bốc, tỉnh Khăm
Muộn); Singapore (Bia tƣởng niệm và tƣợng Chủ tịch Hồ Ch Minh tại công viên
Bảo tàng Văn minh châu Á, ên ờ sông Singapore); Philippines (Tƣợng Chủ tịch
Hồ Ch Minh tại trƣờng Đại học Bách khoa Laguna, Manila khánh thành 19/5/2010;
Tƣợng Chủ tịch Hồ Ch Minh tại công viên ASEAN, Manila đƣợc khánh thành
nhân dịp kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Philippines và Việt Nam năm
80
2011); Ấn Độ (Tƣợng đài Chủ tịch Hồ Ch Minh và đại lộ Hồ Ch Minh tại thành
phố Kolkata; Đại lộ Hồ Ch Minh ở thủ đô New Delhi); Nga (Quảng trƣờng và ph
điêu Hồ Ch Minh ở thủ đô Moscow); Madagasca (tƣợng và công viên mang tên
chủ tịch Hồ Ch Minh tại thủ đô Antananarivo); Cu a (tƣợng Hồ Ch Minh trong
công viên H a ình ở thủ đô La Havana); Venezuela (tƣợng Hồ Ch Minh tại đại lộ
Simon Bolivar, thủ đô Caracas) [98] Những hoạt động này không chỉ giúp ạn
thế giới hiểu sâu sắc hơn về thân thế, cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Ch Minh, mà
thông qua đó c n giới thiệu đất nƣớc và con ngƣời Việt Nam tới họ. Tƣ tƣởng về
đại đoàn kết, về h a hợp dân tộc, tinh thần nhân văn nhân ái của chủ tịch Hồ Ch
Minh ch nh là kết tinh của các giá trị tinh thần tiêu iểu của văn hóa Việt Nam, giới
thiệu một Việt Nam yêu h a ình, sẵn sàng hợp tác với mọi quốc gia trên thế giới.
Cùng với hoạt động tôn vinh các danh nhân văn hóa, Việt Nam còn tích
cực tham dự vào các tổ chức quốc tế, các diễn đàn đa phƣơng nhƣ Liên Hợp
Quốc, ASEAN, APEC, UNESCO, Cộng đồng Pháp ngữ Nếu nhƣ ở giai đoạn
an đầu, Việt Nam mới chỉ xác định sự tham gia vào các tổ chức này, thì giai
đoạn sau, chúng ta đ tham gia tích cực, hiệu quả, đóng góp thực chất về mặt ý
tƣởng, kinh nghiệm, đóng góp các sáng kiến, tham gia xây dựng các Công ƣớc
và dự thảo quan trọng, đƣợc các nƣớc ủng hộ và đánh giá cao. Là thành viên Hội
đồng Chấp hành UNESCO (2009 - 2013), Việt Nam đ góp phần quan trọng vào
việc ký kết Hiệp định hợp tác khung giữa ASEAN và UNESCO. Còn khi giữ vai
trò là thành viên Ủy ban Di sản thế giới (2013-2017), Việt Nam đ góp phần tích
cực giải t a căng th ng giữa Nhật Bản và Hàn Quốc xung quanh hồ sơ của Nhật
Bản trình UNESCO năm 2015 và hỗ trợ một số quốc gia nhƣ Australia,
Singapore, Thái Lan trong các vấn đề bảo vệ di sản thế giới, nâng cao vị thế và
tiếng nói của Việt Nam trên trƣờng quốc tế, đồng thời tăng cƣờng quan hệ của
Việt Nam với các nƣớc. [101] Có thể nói, những hoạt động tích cực này không
chỉ góp phần tăng cƣờng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia thành viên, thể
hiện trách nhiệm của Việt Nam khi đảm nhiệm và tham gia các hoạt động của
các tổ chức, các định chế quốc tế, mà còn góp phần mang hình ảnh một Việt
Nam thân thiện, yêu hòa bình ra thế giới.
81
Thứ hai, ngoại giao văn hóa đ góp phần quảng bá các di sản và sản phẩm
văn hóa của Việt Nam ra thế giới. Cho đến nay, ngoại giao văn hóa đ góp phần
đem lại sự công nhận danh hiệu quốc tế cho rất nhiều di sản văn hóa vật thể và phi
vật thể của Việt Nam, t đó, góp phần giới thiệu hình ảnh Việt Nam giàu truyền
thống văn hóa, lan t a các giá trị văn hóa của Việt Nam ra thế giới, tạo cơ hội để
cộng đồng quốc tế thƣởng thức những di sản văn hóa đặc sắc của đất nƣớc ta. Ngoài
ra, các hoạt động Tuần văn hóa Việt Nam, Ngày văn hóa Việt Nam đƣợc các cơ
quan, tổ chức, đặc biệt là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Ngoại giao triển
khai với các nội dung đa dạng trên các lĩnh vực âm nhạc, hội họa, phim ảnh, thời
trang, thể thao, ẩm thực...Các hoạt động này đ trở thành hoạt động thƣờng xuyên ở
nhiều quốc gia, góp phần thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với các đối tác
quan trọng và làm tăng sự hiểu biết của ngƣời dân nhiều nƣớc về đất nƣớc, văn hóa,
con ngƣời Việt Nam. Bên cạnh đó, chƣơng trình dạy tiếng Việt ở nƣớc ngoài c ng
là một hoạt động mang ý nghĩa quan trọng của ngoại giao văn hóa, góp phần lƣu giữ
và chuyển tải bản sắc văn hóa dân tộc trƣớc tiên đối với cộng đồng ngƣời Việt,
ngƣời gốc Việt ở nƣớc ngoài, sau nữa là đối với ngƣời nƣớc ngoài. Ngôn ngữ chính
là phƣơng tiện chủ yếu và hữu hiệu để chuyển tải văn hóa, do đó ất kỳ quốc gia
nào c ng đều quan tâm và tìm cách quảng bá, phổ biến ngôn ngữ của mình ra thế
giới. Việc giữ gìn và phát triển tiếng Việt không chỉ giúp cộng đồng ngƣời Việt
Nam ở nƣớc ngoài hƣớng về quê hƣơng, đất nƣớc mà c n khơi dậy niềm tự hào cho
những ngƣời đang sinh sống, lao động, học tập ở nƣớc ngoài khi bản thân họ c ng
trở thành các sứ giả giúp lan t a văn hóa Việt Nam ra khắp năm châu.
Thứ ba, thông qua các hoạt động của mình, ngoại giao văn hóa đ góp phần
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc thông qua việc chọn lọc giới thiệu
những tinh hoa văn hóa nhân loại với ngƣời Việt và quảng bá những giá trị văn hóa
Việt với cộng đồng ngƣời nƣớc ngoài ở Việt Nam. Trong những năm qua, đ có
nhiều hoạt động ngoại giao văn hóa đƣợc tổ chức ở Việt Nam nhằm thúc đẩy sự
hiểu biết văn hóa giữa ngƣời dân Việt Nam với cộng đồng ngƣời nƣớc ngoài đang
sinh sống ở Việt Nam. Nhiều hoạt động đ trở thành thƣờng niên nhƣ “Lễ hội hoa
anh đào Nhật Bản – Hà Nội” đƣợc tổ chức t năm 2016 đến nay; “Lễ hội ẩm thực
82
văn hóa Việt Nam – Hàn Quốc” t năm 2017 đến nay hay “Những ngày Mát-xcơ-va
tại Hà Nội 2019” Đặc biệt, một hoạt động tôn giáo lớn - Đại lễ Phật đản Liên hợp
quốc đƣợc tổ chức thành công ở Việt Nam năm 2014, 2019 đ góp phần quảng bá
rộng r i hơn hình ảnh một đất nƣớc Việt Nam thân thiện, yêu hòa bình, nỗ lực hành
động hƣớng tới hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới, c ng đồng thời là
một quốc gia giàu truyền thống văn hóa.
Kể t khi Việt Nam chủ động tiến hành hội nhập quốc tế, nhiều giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc đ đƣợc kế th a và phát huy trong những hình thức
mới. Truyền thống yêu nƣớc, tinh thần nhân ái, khoan dung và khả năng th ch ứng
là những giá trị tiêu biểu, đƣợc hun đúc nên qua lịch s hàng ngàn năm dựng nƣớc
và giữ nƣớc của dân tộc, ngày nay tiếp tục đƣợc thể hiện qua sự tham gia tích cực
của Việt Nam với tƣ cách một thành viên có trách nhiệm trong các tổ chức quốc tế.
Sự tham gia tích cực và những đóng góp cụ thể, thực chất của Việt Nam trong việc
giải quyết nhiều vấn đề quốc tế với tƣ cách thành viên đ góp phần thể hiện những
giá trị văn hóa tốt đ p của dân tộc với thế giới. Bên cạnh đó, những giá trị văn hóa
này c n đƣợc quảng bá rộng r i hơn thông qua quá trình tôn vinh các danh nhân văn
hóa của dân tộc. Việc đề c và đƣợc UNESCO vinh danh những danh nhân, nhà
văn hóa kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc nhƣ Nguyễn Trãi, chủ tịch Hồ Chí
Minh, Nguyễn Du hay Chu Văn An là sự kh ng định, th a nhận những thành quả
của cá nhân kiệt xuất, đồng thời là sự tôn vinh những giá trị tinh thần truyền thống
đƣợc đúc kết qua hàng ngàn năm lịch s của dân tộc Việt Nam. Những giá trị ấy đ
đƣợc kết tinh và thể hiện ra qua hoạt động của những con ngƣời Việt Nam cụ thể,
qua những đóng góp cụ thể của họ đối với sự phát triển của đất nƣớc. Hoạt động
này góp phần không nh nhằm quảng bá các giá trị văn hóa tinh thần cao quý của
Việt Nam tới bạn bè quốc tế, giới thiệu hình ảnh một đất nƣớc Việt Nam giàu
truyền thống văn hóa với những con ngƣời mang trong mình những giá trị nhân văn,
trí tuệ, đạo đức và tinh thần học tập suốt đời.
Bên cạnh đó, nhiều di sản văn hóa, cả di sản vật thể và di sản phi vật thể
đƣợc bảo tồn, tôn tạo và đ tham gia hiệu quả hơn vào quá trình quảng bá hình ảnh
của đất nƣớc thông qua các hoạt động du lịch, hoạt động quảng á văn hóa. T nh
83
đến tháng 8/2020, Việt Nam đ có tổng cộng 39 di sản đƣợc UNESCO vinh danh,
trong đó có 8 di sản văn hóa v