Luận án Phát triển thị trường truyền hình trả tiền tại một số quốc gia và bài học cho Việt Nam

MỞ ĐẦU .1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỊ

TRƢỜNG TRUYỀN HÌNH TRẢ TIỀN .9

1.1. Nhóm các nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận .9

1.2. Các công trình nghiên về phát triển thị trƣờng truyền hình trả tiền

trên thế giới .11

1.3. Các công trình nghiên cứu về thị trƣờng truyền hình trả tiền của

Việt Nam.16

1.4. Nhận xét, đánh giá và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.21

1.4.1. Một số nhận xét, đánh giá về tình hình nghiên cứu.21

1.4.2. Khoảng trống và hướng nghiên cứu của luận án .22

Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG

TRUYỀN HÌNH TRẢ TIỀN .24

2.1. Những khái niệm cơ bản .24

2.1.1. Khái niệm phát triển .24

2.1.2. Truyền hình trả tiền.25

2.1.3. Thị trường truyền hình trả tiền.27

2.1.4. Khái niệm phát triển thị trường truyền hình trả tiền.28

2.2. Đặc điểm, vai trò của phát triển thị trƣờng truyền hình trả tiền .29

2.2.1. Đặc điểm của phát triển thị trường truyền hình trả tiền .29

2.2.2. Vai trò của phát triển thị trường truyền hình trả tiền.36

2.3. Nội dung, tiêu chí đánh giá phát triển thị trƣờng truyền hình trả

tiền và các nhân tố ảnh hƣởng đến .38

2.3.1. Nội dung phát triển thị trường truyền hình trả tiền.38

2.3.2. Tiêu chí đánh giá phát triển thị trường truyền hình trả tiền .47

2.3.3. các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường truyền hình trả tiền.49

pdf186 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phát triển thị trường truyền hình trả tiền tại một số quốc gia và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n ở Mỹ, không có hạn ngạch nội dung địa phương. Dịch vụ truyền hình trả tiền thực hiện tự điều chỉnh dựa trên các tiêu chuẩn và nguyên tắc kênh riêng lẻ. 80 - Luật chống độc quyền quy định: MVPD không thể phân biệt đối xử trong phân phối lập trình video trên cơ sở liên kết hoặc không liên kết với nhà cung cấp trong việc lựa chọn, điều khoản hoặc điều kiện để vận chuyển chương trình video. Điều chỉnh các kênh MVPD tích hợp theo chiều dọc được mở rộng từ các kênh vệ tinh để bao gồm các kênh thể thao khu vực "phân bố trên mặt đất". - Không có giới hạn FDI cho các dịch vụ truyền hình trả tiền trên các nhà cung cấp nội dung. Có giới hạn phổ biến liên quan đến 25% đầu tư tư nhân nước ngoài vào giấy phép phát sóng truyền hình mặt đất (mặc dù FCC xem xét các trường hợp ngoại lệ trên cơ sở từng trường hợp cụ thể). Các kênh phân phối tài liệu thông tin thay mặt cho chính phủ nước ngoài có thể được yêu cầu đăng ký với Bộ Tư pháp theo Đạo luật Đăng ký Đại lý Nước ngoài (FARA), 22 U.S.C. § 611 và tiếp theo Các kênh cần thiết để đăng ký cũng phải dán nhãn lập trình của họ theo FARA. 3.2.2.3. Công cụ quản lý Giống như ở các quốc gia khác, các đài truyền hình ở Mỹ được yêu cầu phải có giấy phép để phát sóng hợp pháp và phải tuân thủ một số yêu cầu (như liên quan đến lập trình các vấn đề công cộng và lợi ích giáo dục, và các quy định cấm phát sóng nội dung không đứng đắn); Ủy ban Truyền thông quốc gia của Mỹ (FCC) duy trì giám sát việc gia hạn giấy phép, xem xét thu hồi giấy phép (khi có các vi phạm) của cho các đài truyền hình. Tuy nhiên, các mạng truyền hình miễn phí và thuê bao không bắt buộc phải nộp đơn xin giấy phép hoạt động. Hầu hết các đơn vị kinh doanh dịch vụ truyền hình trả tiền ở Mỹ hiện được sở hữu và vận hành hoặc kiểm soát thông qua các thỏa thuận thuê ngoài của các chủ sở hữu nhóm (công ty độc lập hoặc nhóm công ty con thuộc sở hữu mạng). Các thỏa thuận thuê ngoài (được biết đến bởi nhiều điều khoản, chủ yếu là thỏa thuận tiếp thị địa phương (Local marketing agreements - LMA), thỏa thuận dịch vụ chia sẻ (shared services agreements - SSA) hoặc thỏa thuận bán hàng chung ( joint sales agreements - JSA), đã cho phép một số công ty truyền hình vận hành các đài mà họ có thể không sở hữu hợp pháp hoàn toàn do các quy định sở hữu trên thị trường; FCC đã cố gắng hạn chế các đài truyền hình sử dụng các thỏa thuận thuê ngoài, thông qua quy tắc vào tháng 4 năm 2014 điều đó không cho phép tất cả các JSA trong đó một công ty bán 15% quảng cáo cho một đài khác và yêu cầu tất cả các công ty hiện có phải được giải phóng trong vòng năm năm ( Hiệp hội Phát thanh Truyền hình Quốc gia ủng hộ một điều khoản được thông qua như một phần của dự luật ngân sách của Quốc hội vào tháng 11 năm 2015 giới hạn thời gian để thư giãn các JSA hiện tại đến mười năm). 81 FCC cũng cấm phát sóng các tài liệu " không đứng đắn " trong thung thời gian từ 6:00 sáng đến 10:00 tối. Các đài phát sóng có thể phát sóng hợp pháp hầu hết mọi thứ họ muốn vào đêm khuya - và mạng cáp vào mọi giờ. Tuy nhiên, ảnh khoả thân và thô tục rất hiếm trên truyền hình Mỹ. Mặc dù FCC cho phép các đài truyền hình trả tiền phát sóng các chương trình nhạy cảm trong một khung giờ nhất định, tuy nhiên, trong thời kỳ đầu, các đài truyền hình ngần ngại thực hiện điều này, do lo ngại rằng việc phát sóng các chương trình nhạy cảm đó sẽ khiến các nhà quảng cáo xa lánh và khuyến khích chính phủ liên bang tăng cường điều chỉnh nội dung truyền hình. Tuy nhiên gần đây, trên các kênh truyền hình trả tiền của Mỹ xuất hiện ngày càng nhiều các chương trình với sự thô tục, bạo lực và khỏa thân vào ban đêm, thậm chí cả vào ban ngày. Ở Mỹ có các điều luật quy định trực tiếp về truyền hình trả tiền và các Luật liên quan như: Luật bản quyền, Đạo luật cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng truyền hình cáp (truyền hình trả tiền), Luật chống độc quyền, và các công cụ thuế, phí khác giúp quản lý thị trường này. 3.3. Thị trƣờng truyền hình trả tiền của Trung Quốc 3.3.1. Thực trạng phát triển 3.3.1.1. Phát triển cung Trong những năm 1990 Truyền hình trả tiền ở Trung Quốc còn hết sức lạc hậu. Tổng số hộ sử dụng dịch vụ chỉ khoảng 4.355 triệu thuê bao. Không chỉ có vậy hệ thống truyền hình trả tiền khi đó ở Trung Quốc sử dụng hạ tầng công nghệ kỹ thuật lạc hậu. Tỷ trọng đầu tư cho ngành truyền hình trả tiền của Trung Quốc giai đoạn đó (Năm 1990) chỉ khoảng 8 tỷ nhân dân tệ. Trung bình mỗi năm Trung Quốc đầu tư cho truyền hình khoảng 200 triệu nhân dân tệ. Tuy nhiên dưới áp lực của cải cách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, các nhà hoạch định chiến lược truyền hình trả tiền của Trung Quốc sớm nhận ra điều này, Chính phủ Trung Quốc đã có những chính sách quản lí vĩ mô phù hợp, đưa ngành truyền hình thực hiện bước phát triển nhảy vọt. Các chính sách quản lý nhà nước với thị trường truyền hình trả tiền ở Trung Quốc có những điểm chính như: Thực thi các chính sách ưu tiên phát triển truyền hình, tăng phí lắp đặt thuê bao nhằm lấy nguồn vốn tái đầu tư, lấy nhu cầu thị trường làm phương hướng phát triển, dựa vào sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật phát triển ngành truyền hình trả tiền ở mức khởi điểm cao. Đầu tháng 9 năm 2004 dịch vụ Pay-TV tại Trung Quốc chỉ mới được chính thức tung ra phục vụ người dân. Ban đầu, dịch vụ này được Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc cung cấp thử nghiệm với 06 kênh phục vụ miễn phí bao gồm thể 82 thao, âm nhạc và phim truyền hình và phim tài liệu. Sau khi Đài truyền Hình Trung ương Trung Quốc triển khai Pay-TV thử nghiệm gần một tháng, Cục Quản lý Phát thanh, Phim và Truyền hình Quốc gia của Trung Quốc đã phê duyệt thêm cho bốn hãng truyền thông khác cung cấp dịch vụ Pay-TV. Do phải cạnh tranh khốc liệt với khoảng 50 kênh truyền hình phát sóng miễn phí nội địa, tương lai của Pay-TV tại Trung Quốc vẫn còn khó dự đoán. Theo ông Sun Yusheng, giám đốc kênh truyền hình số Trung ương Trung Quốc cho biết “sẽ tiếp tục cung cấp dịch vụ, thậm chí ngay cả khi số lượng thuê bao không được nhiều như mong muốn. Tuy nhiên, thị trường nội địa rộng lớn có thể đảm bảo cho nhu cầu dịch vụ Pay-TV”. Trong tương lai Đài Truyền Hình Trung ương Trung Quốc sẽ triển khai cung cấp nội dung Truyền Hình độ nét cao qua dịch vụ Pay-TV. Là mạng lưới truyền hình toàn quốc duy nhất ở Trung Quốc và nằm dưới sự quản lý của Cục Truyền thanh, Phim ảnh và Truyền hình Quốc gia, CCTV được hưởng nhiều đặc quyền. Chẳng hạn, trong mùa Olympic năm 2008, CCTV là hãng truyền thông duy nhất được quyền phỏng vấn ngôi sao điền kinh nước chủ nhà Liu Xiang sau khi vận động viên này bị chấn thương, nhằm đảm bảo rằng, Liu Xiang sẽ không phải trả lời một câu hỏi “hóc” nào. Có trị giá 2 tỷ USD, CCTV hiện được coi là một trong những “người khổng lồ” mới trong ngành truyền hình thế giới. Các nhà phân tích cho rằng, các tập đoàn đa quốc gia đang xây dựng chỗ đứng tại Trung Quốc rất chú trọng việc quảng cáo trên các kênh của CCTV, vì hãng truyền hình này có lượng khán giả lớn hơn rất nhiều so với tất cả lượng khán giả của các hãng truyền hình tại Mỹ và châu Âu cộng lại. Cũng như các quốc gia khác trên thế giới, với số lượng dân số trên 1 tỷ dân giai đoạn 2010-2015 ở Trung Quốc thì việc phát triển truyền hình trả tiền trong giai đoạn này của Trung Quốc được nhà nước quản lý chặt chẽ và có định hướng rõ ràng tới khán giả truyền hình. Theo báo cáo của SNL Kagan, Trung Quốc đã trở thành thị trường truyền hình trả tiền lớn nhất châu Á về doanh thu trong năm 2015, lần đầu tiên vượt Nhật Bản và tạo ra 7,5 tỷ USD [106]. Thị trường truyền hình trả tiền của Trung Quốc đã tạo ra doanh thu 5,6 tỷ đô la Mỹ trong năm 2010, tăng 31,1% so với năm trước, với sự tăng trưởng nhờ kỹ thuật số hóa cáp và tăng 9% trong các hộ gia đình truyền hình trả tiền. Từ năm 2010 đến 2015, cơ sở thuê bao đa kênh của Trung Quốc đã tăng với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 5,8% để đạt 259,5 triệu hộ gia đình, trong khi doanh thu dịch vụ video tăng trưởng với tốc độ CAGR là 20,5%, đạt 14,7 tỷ USD. 83 Mặc dù IPTV đang có được động lực, truyền hình cáp vẫn tiếp tục thống trị thị trường truyền hình trả tiền của đất nước này, chiếm 95,7% số thuê bao đa kênh và 91,2% doanh thu dịch vụ video trong năm 2015. IPTV chiếm 3,8% số thuê bao đa kênh của Trung Quốc trong năm 2015, với 7,4 triệu hộ gia đình tạo ra 493,2 triệu đô la Mỹ doanh thu dịch vụ video. 47% thuê bao truyền hình cáp của Trung Quốc đã chuyển sang kết nối kỹ thuật số vào cuối năm 2015. Thêm 22,5 triệu hộ gia đình đã sử dụng dịch vụ truyền hình cáp kỹ thuật số trong năm 2016. Các dịch vụ truyền hình độ nét cao được cho là đang có được chỗ đứng, với 2,5 triệu nhà cáp áp dụng các hộp và gói hàng đầu cần thiết để truy cập chương trình HD vào năm 2015. Năm 2015, 17,2 triệu hộ gia đình sử dụng truyền hình cáp ở Trung Quốc được đã được lập trình HD [106]. Hiện nay truyền hình trả tiền ở Trung Quốc là một trong những thị trường truyền hình lớn nhất thế giới với hàng chục nhà cung cấp dịch vụ truyền hình, tương tác truyền hình tích hợp nhiều dịch vụ đáp ứng các nhu cầu xem truyền hình trên quốc gia rộng lớn nhất thế giới này. 3.3.1.2. Phát triển cầu Theo thống kê chính thức mới nhất của chính phủ Trung Quốc, tỷ lệ các hộ gia đình ở Trung Quốc sở hữu một chiếc TV là 99% vào năm 2014. Điều đó tương đương với 455 triệu hộ gia đình cuối năm 2014 và 495 triệu tại cuối năm 2017. Đặc điểm người sử dụng dịch vụ truyền hình ở Trung Quốc: Tỉ lệ người xem truyền hình trực tuyến trên các thiết bị di động ở Trung Quốc rất cao (91%) theo Báo cáo điều tra của Tư vấn tiên phong châu Á (Pioneer Consulting Asia - PCA). Thời gian xem truyền hình trực tuyến trên các thiết bị di động ở Trung Quốc cũng rất cao (hơn 60% người được hỏi trả lời rằng họ đã thường xuyên xem hơn 30 phút truyền hình trên thiết bị di động mỗi ngày). Quy mô tổng thể của thị trường truyền hình trả tiền trên tất cả công nghệ được ước tính là 325 triệu thuê bao cuối năm 2017, tương đương đến 65% hộ gia đình thâm nhập thị trường truyền hình trả tiền lớn nhất châu Á Thái Bình Dương bởi thuê bao số. Con số này đã tăng 3,8% so với 313 triệu hộ gia đình năm 2016. Pioneer Consulting Asia – PCA dự kiến đến năm 2022, con số này sẽ tăng lên 353 triệu, đại diện tốc độ CAGR là 2,4%. Truyền hình cáp là phổ biến nhất áp dụng công nghệ phân phối truyền hình trả tiền ở Trung Quốc. Ước tính có khoảng 160 triệu các hộ gia đình đã đăng ký truyền hình cáp dịch vụ vào tháng 6 năm 2017 đại diện cho một hộ gia đình tỷ lệ thâm nhập 35%. 84 Đơn vị: Triệu thuê bao Hình 3.5. Tổng số thuê bao truyền hình trả tiền của Trung Quốc giai đoạn 2013 – 2018 Nguồn: HSBC Industry Report Ví dụ về số lượng người xem truyền hình ở Trung Quốc trong mùa Olympic năm 2008, có thể thấy rõ: Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc đã thu hút lượng khán giả kỷ lục trong mùa Olympic năm 2008, đồng thời cũng kiếm được doanh số quảng cáo khổng lồ. Theo ước tính đã có khoảng 840 triệu người Trung Quốc xem chương trình truyền hình trực tiếp của lễ khai mạc Olympic Bắc Kinh trên các kênh của CCTV. Đây có lẽ là lượng khán giả lớn nhất của một chương trình ti vi trong lịch sử ngành truyền hình. Số liệu của hãng nghiên cứu truyền thông CSM Media Research cũng cho thấy, có khoảng 80% các hộ gia đình ở Trung Quốc bật TV để xem một chương trình phát sóng nào đó của Olympic trên các kênh của CCTV. Lượng khán giả của kênh truyền hình Mỹ NBC cũng đạt tới con số kỷ lục trong dịp Olympic, nhưng khiêm tốn hơn rất nhiều, chỉ ở mức trên 30 triệu người. Xét về doanh thu thì CCTV chỉ phải bỏ ra chưa đầy 17 triệu USD để có được quyền phát sóng đặc quyền các chương trình thi đấu tại Trung Quốc. Nhưng doanh số quảng cáo mà đài thu về trong dịp này có thể lên tới 394 triệu USD. Trong khi đó, hãng NBC phải chi ra 894 triệu USD để có quyền phát sóng ở Mỹ, nhưng sẽ chỉ thu về được khoảng 1 tỷ USD doanh thu quảng cáo. Giá quảng cáo trên các kênh của CCTV đã tăng từ 200 - 400% trong dịp Olympic. CCTV cho biết, thời lượng phát sóng các chương trình của đài trong toàn bộ Olympic năm 2008 có thể lên tới 2.900 giờ đồng hồ, so với mức 2.200 giờ đồng hồ của kênh truyền hình Mỹ CNBC. Doanh thu năm 2008 của CCTV đã vượt mức 2,5 tỷ USD, tăng khoảng 1 tỷ USD so với năm trước đó. Đây thực sự là một số tiền khổng lồ ở một quốc gia mà một công nhân bình thường 85 kiếm được chưa đầy 200 USD/tháng. Lượng khán giả của 18 kênh của CCTV đã lên tới hơn 1 tỷ người. Trong số các khách hàng quảng cáo của hãng có những gương mặt lớn như P&G, Coca-Cola, Adidas, Hiệp hội Bóng rổ Quốc gia và một tập đoàn giải trí và thể thao khổng lồ là IMG Worldwide. 3.3.2. Quản lý nhà nước đối với thị trường truyền hình trả tiền ở Trung Quốc Vào năm 1990, thị trường truyền hình trả tiền Trung Quốc vẫn còn hết sức lạc hậu. Tổng số hộ sử dụng dịch vụ chỉ đạt 4,355 triệu. Như vậy, mạng lưới truyền hình trả tiền của Trung Quốc thời điểm đó không những kém xa các nước phát triển mà còn kém cả các nước đang phát triển khác. Về mặt kỹ thuật, truyền hình trả tiền Trung Quốc lạc hậu so với các nước phát triển khoảng 20 đến 30 năm. Đường cáp và viba ở Trung Quốc những năm 1980 chỉ tương đương với nước ngoài vào những năm 1960. Trang bị mạng lưới thông tin chỉ tương đương Mỹ vào đầu những năm 1950. Về đầu tư, từ ngày thành lập nước đến năm 1990, đầu tư của Nhà nước cho truyền hình chỉ đạt 8 tỷ nhân dân tệ. Trung bình mỗi năm Trung Quốc đầu tư cho truyền hình khoảng 200 triệu nhân dân tệ, năm ít nhất chỉ có 20 triệu nhân dân tệ. Tỷ trọng đầu tư cho truyền hình trong GDP ở Trung Quốc chỉ đạt khoảng 0,1%, thấp hơn xa với mức trung bình ở thế giới là 0,6% GDP. Trước thực tế kém phát triển của ngành truyền hình cộng với áp lực của cải cách mở cửa, Chính phủ Trung Quốc đã có những lựa chọn chiến lược hợp lý, đưa ngành truyền hình thực hiện những bước phát triển nhảy vọt. Chiến lược đó có những điểm chính sau: - Thứ nhất, thực thi các chính sách ưu tiên phát triển truyền hình. Để tăng nhanh phát triển thông tin bưu điện, Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương đã đề ra một loạt các chính sách trợ giúp trọng điểm, ưu tiên phát triển, nhưng ở góc độ vận dụng phát triển thực tế, mỗi địa phương đều được khuyến khích linh động, sáng tạo theo đặc thù của mình để đưa ngành thông tin bưu điện của địa phương mình phát triển nhanh nhất. Chính sách tăng thu phí lắp đặt thuê bao. Việc phát triển ngành truyền hình trả tiền đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn, nếu chỉ dựa vào đầu tư của Nhà nước thì khó lòng đáp ứng đủ. Năm 1989, Trung Quốc đã tham khảo cách làm của nước ngoài là tăng cước lắp đặt thuê bao. Mức phí lắp đặt lúc đó khoảng 3.000 – 5.000 86 NDT, tương đương 4-7 triệu đồng Chính sách này cũng đã đưa lại một nguồn lớn vốn đầu tư cho ngành truyền hình trả tiền Trung Quốc. - Thứ hai, lấy nhu cầu thị trường làm phương hướng phát triển: Gồm các ý chính sau: + Cố gắng chuyển biến về quan niệm tư tưởng, xác định cách nghĩ phát triển lấy thị trường làm phương hướng. + Xuất phát từ nhu cầu thị trường, điều chỉnh, xây dựng mục tiêu chiến lược phát triển ngành truyền hình trả tiền. + Xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu thị trường, kiên trì làm nổi bật trọng điểm, bảo đảm phát triển hài hoà. + Lấy nhu cầu thị trường làm phương hướng chuyển biến cơ chế, mở rộng kinh doanh. - Thứ ba, dựa vào tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển ngành truyền hình trả tiền ở mức khởi điểm cao Vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, trong lúc thực trạng mạng lưới ngành truyền hình trả tiền đang còn hết sức lạc hậu, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật của ngành truyền hình thế giới phát triển rất nhanh và đã bắt đầu bước vào thời kỳ số hoá. Trước tình hình đó, Trung Quốc đã đề ra quyết sách quan trọng là bỏ qua giai đoạn phát triển kỹ thuật thông thường như các nước phát triển đã làm, và phải dựa vào tiến bộ khoa học công nghệ thế giới, đưa ngành truyền hình phát triển bằng cách đầu tư thẳng vào công nghệ tiên tiến. Thực tiễn đã chứng minh là quyết sách này hoàn toàn đúng đắn, đối với các nước đã đầu tư hạ tầng mạng lưới hoàn chỉnh bằng các công nghệ cũ (viba, cáp đồng trục, ,) thì đứng trước xu hướng cập nhật công nghệ mới, họ sẽ phân vân. Riêng với Trung Quốc, khởi điểm là mức công nghệ rất thấp nên họ sẵn sàng từ bỏ và đầu tư công nghệ mới mà không phải tiếc rẻ các thiết bị hiện tại trên mạng lưới. - Thứ tư, huy động toàn xã hội cùng nhau phát triển truyền hình. Thể hiện rõ nét nhất quan điểm này là Trung Quốc đã xây dựng mạng truyền hình hữu tuyến bằng cách huy động mọi tầng lớp nhân dân, quân đội tham gia xây dựng. - Thứ năm, vay nợ để phát triển truyền hình. Việc phát triển nhanh ngành truyền hình đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn, nếu chỉ dựa vào sự đầu tư của Nhà nước thì vừa thiếu lại vừa chậm, gây ảnh hưởng đến định hướng đầu tư phát triển. Năm 1994, lần đầu tiên ngành truyền hình Trung Quốc sử dụng vốn vay nước ngoài (vay nợ 35 tỷ yên Nhật) để, xây dựng 600 km cáp quang, phát triển 2 triệu km đôi cáp thuê bao làm 87 bớt sự căng thẳng về nhu cầu thông tin lúc đó. Từ thành công này, hình thức vay nợ nước ngoài dần dần chuyển từ chỉ một hình thức duy nhất là vay nợ của Chính phủ sang mua hàng tín dụng của các hãng, vay vốn của các quỹ hỗ trợ vốn của Nhật Bản, vay của các quỹ tiền tệ quốc tế. Tính đến năm 1998, tổng cộng vốn vay nước ngoài của ngành truyền hình Trung Quốc lên đến 6,56 tỷ USD, chiếm khoảng 20% tổng giá trị tài sản cố định đầu tư cho truyền hình cả nước. - Thứ sáu, thực hiện cải cách sâu rộng ngành truyền hình. Nhằm thích ứng với thực tế cải cách mở cửa của đất nước, tăng cường sức phát triển, theo kịp đà tiến bộ khoa học kỹ thuật, nghiêm túc xử lý mối quan hệ giữa cải cách và phát triển, cải cách và ổn định. Tháng 2/1994, Trung Quốc đã tách phần quản lý hoạch định chính sách với quản lý điều hành sản xuất kinh doanh. Song song đó, ngành truyền hình Trung Quốc cũng chú trọng cải cách thu hút vốn đầu tư, chế độ nhân sự, phân phối thu nhập và hệ thống các thông tin phụ trợ. Tóm lại, trước yêu cầu thực tế của quá trình cải cách phát triển kinh tế, mở cửa hội nhập với thế giới, Chính phủ Trung Quốc đã nhận thức được tầm quan trọng của ngành truyền hình đối với sự nghiệp phát triển kinh tế. Xuất phát điểm với một mạng lưới truyền hình nghèo nàn lạc hậu, bằng các chính sách ưu tiên đầu tư, chiến lược phát triển công nghiệp sản xuất thiết bị, đầu tư thẳng vào công nghệ cao, định hướng thị trường, đến nay, ngành truyền hình trả tiền Trung Quốc đã phát triển vượt bậc và trở thành một trong những thị trường truyền hình trả tiền lớn và năng động nhất thế giới. 3.4. Thị trƣờng truyền hình trả tiền của Hàn Quốc 3.4.1. Thực trạng phát triển Ở Hàn Quốc, lĩnh vực truyền hình bao gồm các thị trường truyền hình phát sóng vô tuyến free-to-air và truyền hình trả tiền. Các đơn vị hoạt động trong thị trường truyền hình trả tiền gồm: Các nhà cung cấp truyền hình cáp (SOs): Họ vận hành phát sóng hơn bảy mươi kênh ở mỗi khu vực. Doanh thu của họ đến từ phí thuê bao và lắp đặt, cũng như các khoản phí từ việc cho thuê hộp set-top box cho người tiêu dùng. Có 100 hệ thống hoạt động trong 77 khu vực phát sóng ở Hàn Quốc. Các nhà cung cấp truyền hình cáp (MSO): Là những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tại ít nhất hai khu vực và có nhiều chi nhánh SOs liên kết. Năm 2009 có 8 MSO, và 78 trong số 100 SOs thuộc một trong 8 MSO. Ba MSO hàng đầu có thị phần 63,4% trong thị trường vận hành hệ thống. 88 Các nhà cung cấp truyền hình vệ tinh (SBs): Họ truyền tải dịch vụ phát sóng tới người tiêu dùng trên toàn quốc. Có 02 nhà cung cấp truyền hình vệ tinh. Các nhà cung cấp IPTV: Truyền tải dịch vụ phát sóng tới người tiêu dùng trên toàn quốc. Kể từ khi IPTV được cho phép vào tháng 2 năm 2009, 03 đơn vị khai thác IPTV đã tham gia vào thị trường truyền hình trả tiền của Hàn Quốc. Các nhà cung cấp chương trình PPs : Họ ký hợp đồng với các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình cáp (hay nhà cung cấp Truyền hình vệ tinh, hoặc IPTV) và cung cấp nội dung của họ. Doanh thu của họ đến từ cả SOs (hoặc SBs hoặc IPTV) và thu phí quảng cáo. Có 184 PPs tham gia thị trường truyền hình trả tiền. Năm 2008, sự mất cân bằng giữa SO và PPs ngày càng gia tăng. Mặc dù có rất nhiều SO trên thị trường truyền hình trả tiền, hầu hết trong số đó đều là thành viên của một trong 8 MSO. Do đó, các MSO có quyền quyết định kênh sẽ được cấp cho các PP riêng lẻ. Đặc biệt, 03 MSO hàng đầu, có thị phần 63,4%, đã củng cố vị thế của họ trong thị trường SO. Mặt khác, cũng có nhiều PPs (khoảng 184), và mỗi PP thực sự muốn ký hợp đồng với MSO để có được số kênh có vị trí đầu và được ưa thích nhất. Tính đến tháng 6 năm 2017, trải qua nhiều lần sáp nhập, phân chia, thị trường Hàn Quốc có 15 nhà cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền, bao gồm: 05 đơn vị cung cấp truyền hình cáp (MSO): CJ, t-Broad, D LIVE, HCN và CMB. 10 đơn vị khai thác hệ thống (SO). Dịch vụ truyền hình vệ tinh được cung cấp bởi Skylife, một chi nhánh của Korean Telecom. Dịch vụ IPTV được cung cấp bởi 03 đơn vị viễn thông: Korean Telecom, SK Broadband và LG U +, thường được gọi là các công ty viễn thông hàng đầu lớn nhất Hàn Quốc. Kể từ khi ra mắt dịch vụ IPTV vào năm 2009, thuê bao truyền hình cáp đã liên tục giảm khi nhiều khách hàng bắt đầu quay sang IPTV, dẫn đến thị phần thuê bao được giữ bởi ba nền tảng: 45,3% của truyền hình cáp, 44,2% của IPTV và 10,5% của truyền hình vệ tinh. Mặc dù đó là một sự khởi đầu muộn, nhưng IPTV dường như đang theo sát truyền hình cáp, vốn từ lâu đã bất khả xâm phạm. Tổng doanh thu của truyền hình trả tiền năm 2017 đã đạt 5,163 tỷ đô la (tăng thêm 9,4% so với năm trước) nhờ vào hiệu quả vượt trội của dịch vụ IPTV. IPTV đã chiếm 47% doanh thu, vượt xa truyền hình cáp ở mức 42% (và truyền hình vệ tinh là 11%) lần đầu tiên trong tám năm kể từ khi ra mắt vào năm 2009. - Tính đến tháng 6 năm 2017, cả nước có tổng cộng 30.828.645 thuê bao trả tiền truyền hình tăng 5,7% so với cùng kỳ năm 2016, sau khi tăng đều 6,6% mỗi năm từ năm 2009 đến năm 2016. Kể từ khi ra mắt dịch vụ IPTV vào năm 2009, thuê bao truyền hình cáp đã liên tục giảm khi nhiều khách hàng bắt đầu quay sang IPTV, dẫn 89 đến thị phần thuê bao được giữ bởi ba nền tảng - 45,3% của truyền hình cáp, 44,2% của IPTV và 10,5% của truyền hình vệ tinh. Mặc dù đó là một sự khởi đầu muộn, nhưng IPTV dường như đang theo sát truyền hình cáp, vốn từ lâu đã bất khả xâm phạm. Chắc chắn là đủ để vượt xa truyền hình cáp vào cuối năm 2017. Giai đoạn1995 - 2000, nhờ sự phát triển như vũ bão của công nghệ và tiến trình toàn cầu hóa, diện mạo truyền thông ở Hàn Quốc thay đổi hoàn toàn. Truyền hình Hàn Quốc bắt đầu mang tính thương mại rõ rệt qua hình thức thu phí và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Các kênh truyền hình ở Hàn Quốc bắt đầu cạnh tranh với nhau về thị trường công chúng, quảng cáo... Đây còn được coi là thời điểm “phục hưng” của truyền hình Hàn Quốc. Đây là thời điểm truyền hình của Hàn Quốc mở nhiều kênh và đây cũng là khởi điểm của trào lưu văn hóa Hàn Quốc Hallyu. Các công ty giải trí nổi tiếng của Hàn Quốc cũng có thời điểm xuất phát ở giai đoạn này. Sau 2005, công nghệ kỹ thuật số phát triển phổ biến. Các sản phẩm văn hóa Hàn Quốc Hallyu có cơ hội được quảng bá, kinh doanh ra nước ngoài. Môi trường truyền hình Hàn Quốc đã thay đổi đa dạng. Các chương trình quảng cáo trên truyền hình được mở rộng. Các chương trình truyền hình dần chuyển sang hướng chú trọng tổ chức sản xuất các chương trình giải trí. Các hình thức quảng cáo núp bóng trong các bản tin, chương trình giải trí, phim. Các đài truyền hình công cộng thể hiện rõ tính thương mại thông qua việc bán các format chương trình. Vốn đầu tư cho các đài sản xuất chương trình truyền hình đều do các tập đoàn kinh tế lớn của Hàn Quốc chi trả. Ban đầu, chính phủ Hàn Quốc cấm các tập đoàn kinh tế sở hữu nhiều kênh truyền hình. Tuy nhiên, chính sách này đã được nới lỏng. CJ là kênh truyền hình lớn nhất ở Hàn Quốc. Các tòa soạn báo in ở Hàn Quốc hiện nay cũng đã mua sóng của truyền hình cáp để phát chương trình truyền hình. Tuy nhiên, ban đầu các tòa soạn báo in cũng bị chính phủ cấm sở hữu nhiều kênh để phát sóng trên truyền hình cáp. Sau đó lệnh này cũng được nới lỏng. Các công ty nước ngoài có thể nắm tới 49% cổ phần tại các kênh phát sóng truyền hình cáp, nhất là các kênh thời sự. Ngay cả các kênh giải trí cũng có mặt của gần 50% cổ phần của nước ngoài. Chính phủ xây dựng các quy định khuyến khích sản xuất các chương trình truyền thông cho chính phủ hoặc đầu tư về công nghệ hỗ trợ các đài truyền hình sản xuất sản phẩm chất lượng cao. Khi truyền hình thương mại phát triển, các chương trình giải trí có cơ hội phát triển theo. Các nhà sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_phat_trien_thi_truong_truyen_hinh_tra_tien_tai_mot_s.pdf
Tài liệu liên quan