Luận án Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố - Nguyễn Bùi Khiêm

MỞ ĐẦU .1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHONG CÁCH TẢN VĂN

BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ.7

Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẢN VĂN VÀ PHONG CÁCH TẢN VĂN

BÁO CHÍ.28

1.1. Tản văn và tản văn báo chí.28

1.2. Phong cách và phong cách báo chí .41

1.3. Một số nhân tố chi phối, ảnh hưởng tới phong cách tản văn báo chí của

Ngô Tất Tố .46

Chƣơng 2: PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ QUA

BÌNH DIỆN NỘI DUNG TÁC PHẨM .55

2.1. Đề tài trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố.55

2.2. Chi tiết trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố.62

2.3. Một số dự báo trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố .72

Chƣơng 3: PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ QUA

BÌNH DIỆN HÌNH THỨC VÀ KẾT CẤU TÁC PHẨM .83

3.1. Phong cách đặt đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố.83

3.2. Sức sáng tạo trong kết cấu tản văn báo chí của Ngô Tất Tố.88

3.3. Sức thuyết phục logíc của tản văn báo chí Ngô Tất Tố .96

Chƣơng 4: PHONG CÁCH NGÔN NGỮ TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA

NGÔ TẤT TỐ . 104

4.1. Sử dụng linh hoạt nhiều lớp từ.104

4.2. Sáng tạo trong việc sử dụng các tình thức biểu cảm.111

4.3. Sử dụng ngôn ngữ trào phúng, châm biếm, giàu tính chiến đấu .119

Chƣơng 5: Ý NGHĨA VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC VỀ NGHIỆP VỤ LÀM BÁO

RÚT RA TỪ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ

CỦA NGÔ TẤT TỐ .128

5.1. Ý nghĩa thực tiễn của kết quả nghiên cứu về tản văn báo chí Ngô Tất Tố.128

5.2. Một số bài học về nghiệp vụ làm báo rút ra từ kết quả nghiên cứu phong

cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố.136

KẾT LUẬN .147

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ .152

TÀI LIỆU THAM KHẢO .153DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Bảng so sánh độ dài của đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, theo từng tờ

báo và từng năm từ năm 1928 đến năm 1945 .84

Bảng 3.2. Bảng thống kê độ dài của đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố (trên

tổng số 1.147 tác phẩm được khảo sát) .85

Bảng 4.1. Bảng phân tích thành ngữ sử dụng trong tản văn báo chí của Ngô Tất Tố

.116

pdf166 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 504 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phong cách tản văn báo chí của Ngô Tất Tố - Nguyễn Bùi Khiêm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
] để chỉ thẳng mặt lũ quan tham, bọn cướp ngày, công khai bóc lột người dân. Lối viết ví von thâm thúy hay đả kích trực diện đó của Ngô Tất Tố thể hiện thái độ ghê tởm, khinh bỉ của ông đối với những kẻ mang danh quan “phụ mẫu” trong chế độ cũ. 73 Ngô Tất Tố đã điểm mặt, chỉ tên: “đám sai nha ở phủ huyện, kết giao với đám chức việc ở làng tìm kế xui nguyên dục bị, dùng những mánh khóe quỉ quyệt để bóc lột dân, vu hãm kẻ vô tội vào vòng pháp luật Bọn thầy cò là bọn lái buôn lẽ phải, lại là bọn thợ chế ra tội ác nữa”[18, tr.365]; là bọn “cướp ngày, không ai ngờ lại còn có một sự lo sợ nữa, đó là sợ người nhà nước”[18, tr.479]; là những tên tuổi chức danh cụ thể, như “Nguyễn Khắc Khôi, lý trưởng xã Hương Ngải Hắn phạm tội khai gian khung cửi, lấy bông mua sợi để bán lại với giá thật cao”[18, tr.883]. Ngô Tất Tố gọi là hạng cò mồi việc quan ở chốn công đường là bọn “nho”. Đó là những kẻ chuyên “bới móc những việc trong hương thôn, xui bên nọ, giục bên kia, để dắt mối thưa kiện cho quan thầy kiếm lời, càng bới được nhiều việc, quan thầy càng yêu, sự mơ tưởng hàng ngày của chúng là được quan thầy tặng cho cái tên là đầy tớ chân tay là hả lắm rồi”[18, tr.490]. Trong tác phẩm Người nhà nước (Thời vụ, 1938), Ngô Tất Tố đã phê phán những người làm ở công đường, dù lớn dù nhỏ cũng là người nhà nước, “ai dám chống cự thì sẽ bị khép vào tội bất tuân thượng lệnh hoặc ngăn trở công chức nhà nước! Chối cãi vào đâu, chỉ một lời khai của “người nhà nước” cũng đủ bằng chứng cho quan tòa buộc tội rồi”[18, tr.479]. Với uy quyền như thế nên trong xã hội đã phát sinh đủ các hạng người giả hiệu, từ quan tham quan phán, đến lính nhà đoan, lính mật thám tất cả đều tìm mọi cách dọa nạt, bóc lột những người dân quê thật thà, chất phác. Trong tác phẩm Biểu tình ở Thanh Hóa (Thời vụ, 1938), Ngô Tất Tố viết: “lòng tham là thiên tính của loài người, cũng như sự dữ tợn là thiên tính của giống hùm beo sư tử”[18, tr.403], nhưng cái thiên tính đó của con người là có điều kiện, cái lòng tham nó bành trướng được ở trong quan trường chẳng qua là do người dân xử sự với bọn quan còn nhã nhặn quá. Theo Ngô Tất Tố, khi gặp một việc gì ám muội, không cần kiện cáo lôi thôi, người dân cứ việc rủ nhau thật đông, đến tận cửa quan mà hỏi thì bọn quan lại tham lam ấy cũng không dám tùy tiện muốn làm gì thì làm, “dẫu đem tiền nấu súp mà đổ vào miệng, các ông ấy cũng không dám ăn”. Quan điểm đó thể hiện tinh thần và thái độ phản kháng đối với chế độ của Ngô Tất Tố rất rõ ràng. 74 Trong hồi ký Bốn mươi năm nói láo, Vũ Bằng đã kể lại chuyện ông cùng Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng và Phùng Bảo Thạch rủ nhau làm tờ Tương lai, các ông đã cùng nhau làm cho tờ báo này trở thành một tờ tuần báo tranh đấu được người đọc rất chú ý bởi những tác phẩm báo chí của các ông chuyên hướng vào việc “đả kích quan trường, lên án chế độ thực dân”[3, tr.112]. Qua những tản văn của mình, Ngô Tất Tố đã đặt ra vấn đề phải điều tra cách làm giàu của giới quan lại để làm rõ nguồn gốc của những của cải, vật chất, sự giàu có của những kẻ mang danh đại biểu của dân ấy từ đâu mà ra. Ông viết: “Đối với chính phủ, quan lại chỉ là kẻ thừa hành mệnh lệnh nhưng về phương diện khác quan lại lại là một nghề làm giàu rất mau chóng! Một ông hậu bổ kiết xác, thường qua quan trường một vòng độ ít lâu tức thì có ô tô, có nhà lầu, có đồn điền, có tiền gửi ngân hàng, nghiễm nhiên là một nhà triệu phú. Trong thời kỳ ấy vợ rong chơi, con lêu lổng gia đình suốt năm không kiếm ra xu nào, cách ăn tiêu thì xa xỉ gấp trăm người khác”[18, tr.229]. Với tinh thần đấu tranh trực diện, thẳng thắn, ngòi bút Ngô Tất Tố đã dũng cảm giáng những đòn chí tử vào bọn quan tham nhũng nhiễu. Trong tác phẩm Tương lai với Thái thượng Lão quân, Ngô Tất Tố viết: “Quan lại tham nhũng chẳng là những kẻ bóp dân như bà cô bóp cháu à? Thủ đoạn của họ cực kỳ màu nhiệm, họ đã bóp người nào thì người ấy không thể không lè lưỡi ra, lè lưỡi cho đến khi có đồ cúng họ Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề vẫn là những thứ kẻ quê rất sợ, song chưa nguy hiểm cho dân bằng họ”. (Tương lai, số 13, 1937) Cũng tinh thần đó, trong tác phẩm Cái lối ấy ông Tổng lý khó tránh lắm, Ngô Tất Tố cho rằng, xưa nay chính phủ chỉ định cách đánh thuế mà không định phương pháp thu thuế, nên bọn tổng lý có thể tự đặt ra luật lệ đặc biệt cho phép tuần phiên lùng bắt người, bắt trâu bò gà lợn, hoặc đồ đạc của người thiếu thuế. “Cái lối làm việc trái phép ấy chính phủ địa phương tuy cũng biết, nhưng có ảnh hưởng tốt cho sự thu thuế cho nên cũng ngơ cho bọn tổng lý tha hồ nhũng lạm và lương dân không biết cáo tố vào đâu cho được”[18, tr.463]. 75 Ngô Tất Tố sử dụng nhiều cách viết khác nhau để phê phán tệ nạn tham nhũng của bọn quan lại, nhưng với bất kỳ cách thể hiện nào ông cũng nêu cao tinh thần: tham nhũng phải bị chỉ tay thẳng mặt, nói rõ cho mọi người biết. Tuy nhiên, Ngô Tất Tố biết rằng, làm được điều đó không phải dễ dàng, vì “khi chuyện chưa vỡ lở, những người ngoài cuộc có ai đụng đến bọn đó không Ở đời ai ưa nói thật bao giờ”[18, tr.821]. Từ hạn chế ấy, Ngô Tất Tố đề xuất phương án, “lý dịch mà nhũng lạm được là tại dân quê không hiểu quyền lợi của mình. Nay muốn trong lũy tre xanh, ai hiểu quyền lợi của nấy, thì việc giảng dụ cho họ vẫn là một việc rất cần”[18, tr.1007]. Khi viết về tệ nạn nhũng nhiễu của các tầng lớp quan lại, Ngô Tất Tố thường xuất phát từ những vụ việc cụ thể và điển hình. Cái tài của ông là ở giữa đống bộn bề thật giả ông đã nhận ra rất nhanh, rất nhạy cái tiến bộ để ủng hộ, cái phản động để đả phá. Ông có cách chứng minh đầy thuyết phục bằng cách nêu ra những lý lẽ, những mâu thuẫn ẩn giấu trong mỗi sự việc, bằng cách so sánh với việc xưa Ngô Tất Tố sử dụng giọng văn hài hước, sắc sảo, đôi lúc ông khen để mà lên án, ủng hộ để mà đả phá, mát mẻ trào lộng để mà phẫn nộ, căm giận. Trong tác phẩm Chỉ có Tề thiên đại thánh mới trị được họ, ông cho rằng, “muốn trừ tiệt nạn đó, chỉ còn một cách. Nhờ các bác sĩ tìm thứ thuốc gì tiêm cho sạch máu ăn bẩn của bọn quen ăn bẩn đó mời Tề Thiên Đại Thánh chui vào bụng họ thấy họ ăn bẩn tức thì bóp cho đau bụng bão. Như thế họa chăng họ sợ”[18, tr.883]. Ngô Tất Tố đã đặt vấn đề rằng chính phủ cần điều tra và trừng phạt nghiêm khắc những kẻ tham lại, phải điều chỉnh việc thu thuế cho thỏa đáng, phân định quyền hạn lý dịch và hương hồi cho rõ ràng; phải nghiên cứu đặt cho một phương pháp gì có thể ngăn ngừa được những sự nhũng lạm của các viên chức một khi có việc phải giao tiếp với người dân quê. Cũng trong tác phẩm Người nhà nước, Ngô Tất Tố đã kiến nghị với chính phủ, cần “định đoạt rõ ràng cái quyền hạn và trách nhiệm của một bên thừa hành là các viên chức, một bên phải ứng tiếp là hương lý, những khi các viên chức tới một địa phương nào để thừa hành chức vụ, phải đưa ra đủ giấy má tờ chữ của quan 76 trên cấp cho, lại nên có một thứ dấu hiệu gì đặc biệt để phân biệt thực giả”[18, tr.479]. Do công khai đả kích và phê phán những mặt trái của các tầng lớp quan lại của chính quyền thực dân, hẳn nhiên bọn chúng thù ghét tờ Tương lai và có những hành vi trấn áp. Ngô Tất Tố đã đáp lại thái độ đó trong tác phẩm Tương lai với Thái thượng Lão quân: “Từ ngày Tương lai ra đời, tội ác của họ (tức bọn quan lại) luôn luôn bị công kích dưới ngòi bút nghiêm nghị Hỡi những ông quan lại có máu phàm ăn đã làm những thủ đoạn đê hèn lén lút! Chúng tôi không ghét gì các ông, rất mong các ông cải tà quy chính. Có muốn cho mình khỏi bị Tương lai khui trừ, tốt hơn hết là các ông hãy rửa cho sạch lòng ruột, từ nay đừng bóp nặn dân đen như ngày trước nữa”. (Tương lai, số 13, 1937) Nhận thức rõ bản chất của nạn tham nhũng, Ngô Tất Tố cho rằng, thu nhập hay lương bổng không liên quan đến bản tính tham nhũng của quan lại, cho nên không cần phải tăng lương, quan trọng nhất là phải giao cho người dân có quyền giám sát hoạt động của quan lại và phải có một cơ quan làm công tác thanh tra riêng về công tác này. Đọc các bài báo này, chắc hẳn người đọc sẽ liên tưởng đến những vấn đề tham nhũng hiện nay. Quan điểm tích cực này của Ngô Tất Tố không những đúng với giai đoạn đó mà trong bối cảnh đời sống kinh tế - xã hội hiện nay, việc tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân, thành lập cơ quan chuyên trách làm công tác phòng, chống tham nhũng vẫn nguyên giá trị. Lấy ích dân lợi nước làm mục đích cho nghiệp cầm bút, Ngô Tất Tố đã dành nhiều tâm lực để điều tra, tìm hiểu và phản ánh đúng bản chất của từng sự việc, từng con người. Nhiều bài báo sắc bén như những bản cáo trạng, với những chứng cứ cụ thể, giàu sức khái quát, có tác dụng lan tỏa hiệu ứng, tác động đến tận hôm nay. Ông luôn đứng về phía nhân dân bị áp bức, chủ yếu là đứng về phía nông dân đối lập với giai cấp địa chủ phong kiến, quan lại. Trong cuộc đấu tranh xã hội, chỗ đứng và cái nhìn của Ngô Tất Tố luôn có 77 chính kiến rất rõ ràng, bởi vậy nhiều bài báo của ông đến nay vẫn có tính thời sự, vẫn như viết ra để nói việc bây giờ, cho người đọc bây giờ. 2.3.2. Dự báo về những vấn đề văn hóa, xã hội Khi viết về đề tài văn hóa, xã hội, Ngô Tất Tố thường đi sâu phân tích những giá trị, những nét đẹp về truyền thống văn hóa của dân tộc như các lễ hội, các nghi thức tín ngưỡng, các sinh hoạt văn hóa của nhiều vùng miền. Bên cạnh đó, Ngô Tất Tố cũng viết nhiều về những hiện tượng mê tín, dị đoan, những hủ tục trong đời sống xã hội. Trong tác phẩm Quả chuông khổng lồ chùa Cổ Lễ có thể thức tỉnh được người đời chăng, Ngô Tất Tố kể lại việc chùa Cổ Lễ đúc mãi vẫn không thành công quả chuông khổng lồ, tốn kém bao nhiêu tiền của. Ông mỉa mai: “Chắc một quả chuông khổng lồ, đúc công phu tốn kém như thế thì rồi đây những lúc sáng chiều tiếng chuông trong suốt chuyển động không khí sẽ vang khắp một vùng! Nhưng tiếng đó liệu rồi đây có đủ to để cảnh tỉnh được những kẻ mê tín, ngu muội”. (Trung Bắc Chủ nhật, số 5, 1940) Đả kích trực diện những kẻ mê tín và ngu muội ấy chưa đủ, Ngô Tất Tố viết bài Không thể để được thói mê tín nhảm nhí ấy nữa để tiếp tục khẳng định phê phán thói nhảm nhí ấy. Ông cho rằng: “không thể khoanh tay ngồi nhìn bọn không suy nghĩ cứ đem từng núi giấy một mà thiêu ra tro. Vì vậy, lắm người đang mong ước các nhà đương cục ra tay bài trừ thói đó, nó chỉ là một thói mê tín nhảm nhí. Trừ được thói đó tức là trừ được một cái hại lớn cho người Nam” (Đông Pháp, số 5318, 1943). Cái tai hại của những hủ tục đối với người dân Việt Nam trước hết là sự lãng phí, bởi trong khi trẻ em không đủ giấy vở để viết, những người làm văn làm báo không đủ giấy để in sách in báo mà “trong ba ngày Tết từ thành thị đến thôn quê, không nhà nào mà không có vàng, ít thì năm bó mười bó, nhiều ra có khi đến hàng trăm bó, bày chật tất cả hương án, bàn thờ. Nếu ai có thể đem hết số vàng cúng tết của xứ Bắc kỳ để vào một đống, tôi quyết là cái đống ấy phải to bằng ba quả núi Tản Viên”. Ngô Tất Tố khẳng định, phải bài trừ ngay cái tệ nạn đó, bởi nó “không phải hiếu thảo gì với ông vải” mà cũng 78 chẳng “phạm gì đến việc cúng vái là tục di truyền của người Nam cả” (Đông pháp, 1942). Trong tác phẩm Nên thương các cậu học trò, Ngô Tất Tố đã đặt vấn đề rằng tại sao người dân Việt Nam luôn cần kiệm, thường hà tiện từng xu, sao lại có lúc thiêu hủy kể hàng triệu bạc mà không tiếc? Ông tự tìm câu trả lời và lý giải trên mặt báo: “chẳng tôn giáo nào dạy ta phải đốt vàng mã. Nguyên nhân việc đốt vàng mã chỉ là thói giả dối do ở người Tàu gây ra”. Ông dẫn chuyện, từ thời phong kiến ở nước Tàu có tục tuẫn táng, tức khi nhà có người chết, lúc sống họ thích vật gì, thì lúc họ chết, người nhà phải đem vật ấy mà chôn theo họ. Nhưng chôn của thật thì tiếc, về sau người ta mới chế những đồ bằng lụa thay vào, dần dần thấy chôn lụa cũng phí của quá, họ bèn dùng giấy màu để thay cho lụa, thế là thành tục đốt vàng, đốt mã Bởi vậy, Ngô Tất Tố mới khẳng định: “Người mình không hiểu gốc ngọn nhắm mắt theo họ, mấy nghìn năm nay, đốt hại đã bao nhiêu của”. Ngày nay, ở các đền, chùa, nơi thờ tự tâm linh, ở các khu dân cư và trong mỗi nhà dân đâu đâu cũng có hình thức hóa vàng mã với số lượng ngày càng nhiều, mẫu mã ngày càng phong phú, giá trị tiền bạc không phải là nhỏ. Cũng như Ngô Tất Tố đã từng viết cách đây gần 80 năm, chắc mấy người đã hiểu được nguồn gốc của tục lệ đó, mấy ai đã biết đó chỉ là hủ tục “nhảm nhí” được du nhập vào Việt Nam chính vì thế, những dự báo của Ngô Tất Tố cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đành rằng kinh tế - xã hội phát triển, việc sử dụng vàng mã bên cạnh ý nghĩa văn hóa tâm linh còn có ý nghĩa kinh tế với những mặt tích cực nhất định, song, về tổng thể, đốt vàng mã chính là đốt đi một phần của vật chất của xã hội, nếu bài trừ được hủ tục đốt vàng mã thì lượng của cải vật chất đó sẽ có thể sử dụng vào những việc khác có ý nghĩa và thiết thực hơn. Về giáo dục, năm 1939, Ngô Tất Tố có tác phẩm: Học nghiệp và thực nghiệp chia làm hai phái, một tâm lý lầm lỗi của học giới nước ta. Với đầu đề đó, Ngô Tất Tố đã cho rằng, việc tách rời ý nghĩa thực tiễn của việc giáo dục là một sai lầm. Theo ông, “học thành tài và nên người là mục đích của việc học”. Nhưng điều đó chẳng qua là một “tập quán sùng thượng”, có thứ tài mà 79 vô dụng “nếu sự học chẳng phải liên lạc trực tiếp với vấn đề nhân sinh thì giá trị của nó rất đáng ngờ”. Ngô Tất Tố cho rằng: “viết chữ và đọc sách là học, mà cầm cái gậy hay vác cái búa, hay bất cứ tập làm một việc gì, đều là học cả”. Theo Ngô Tất Tố, mục đích của việc học là nhằm mưu sinh; học gì cũng nhằm để có được tri thức nghề nghiệp để có thể sử dụng cho mỗi người, có ích cho xã hội. Bởi cái lẽ ấy, việc học phải gắn với thực hành, phải mang tính thực dụng, hữu ích. Theo Ngô Tất Tố, người Việt Nam xưa nay thường có suy nghĩ rằng, học là nhằm làm cho người ta trở nên cao quý hơn kẻ khác, người có học có vị trí cách biệt hơn hẳn những hạng người khác trong xã hội. Học để làm quan, học để phát tài chứ không phải học để lao động hay để mưu sinh, bởi lẽ ấy “người đã đi học thì dầu là đắc dụng hay thất nghiệp cũng chỉ mơ tưởng những cuộc đời ngoài những nghề thực dụng như nông, công, thương nghiệp” và hậu quả của điều đó là “luôn luôn có cái nạn trí thức thất nghiệp, đang khi mà trong thực nghiệp giới thiếu người gánh vác”. Đó là một sai lầm. Ngô Tất Tố nhận định như vậy, người đi học nhất thiết phải gắn bó mật thiết với lao động thực tế, với “thực nghiệp”. Có làm được như thế đất nước “mới mong tiến đến bước phú cường được”. Gần 80 năm đã qua, những vấn đề bất cập trong giáo dục mà Ngô Tất Tố đã nêu đến nay dường như vẫn nguyên giá trị. Hiếu học là một nét đẹp văn hóa của dân tộc, tuy nhiên việc giáo dục, đào tạo không gắn với hướng nghiệp là một sai lầm, là sự vô ích và lãng phí nhân lực và vật chất của xã hội. Tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” trong nhiều năm gần đây đã và đang là vấn đề xã hội đúng như Ngô Tất Tố đã dự báo. Do vậy, những đề xuất của Ngô Tất Tố từ đầu thế kỷ trước mang tính dự báo sâu sắc, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc về vấn đề học đi đôi với thực hành đi đôi với hoạt động “thực nghiệp”, qua đó có thể có tìm ra những giải pháp tích cực, phù hợp với tình hình hiện nay. Về những vấn đề liên quan đến y tế, ngay từ đầu những năm 1930, Ngô Tất Tố có những tản văn phê phán về hoạt động của những kẻ bất lương mang danh thày thuốc để hại người; đó là những kẻ thất nghiệp, vô học, 80 không có kiến thức gì về thuốc cũng làm nghề thuốc; là những kẻ vừa làm thày lang vừa cho thuê xe đòn đám ma tất cả vì lòng tham, vì tiền bạc mà xem nhẹ tính mạng của người khác. Trong tác phẩm Cụ Mạnh Tử còn thua thầy lang Hà thành, Ngô Tất Tố viết: “Nói ra thì mất lòng, cái y học của các thầy phần nhiều - phần nhiều chứ không phải tất cả - là món “con bọ con kiến”, cho nên dao cầu của mấy thầy ấy chém người như chém ngóe. Tuy vậy, chết kệ họ, tiền họ, mấy thầy cứ bỏ túi. Tặng cho mấy thầy bốn chữ “giết người lấy của” thì đúng lắm. Xưa nay những hiệu cho thuê xe đám ma, nhờ mấy thầy mà phát đạt cũng nhiều”. (Đông phương, số 496, 1931) Ngô Tất Tố mỉa mai, thày lang mà mở hiệu cho thuê xe đám ma là phải, việc bốc thuốc có lẽ cần cho con bệnh chết hơn là con bệnh sống, vì họ chết thì thầy lợi cả tiền bán thuốc, lợi cả tiền cho thuê xe đưa họ xuống suối vàng. Qua tản văn của mình, Ngô Tất Tố đã dóng lên hồi chuông về đạo đức của những người mang danh “lương y”, chữa bệnh cứu người Trong những tác phẩm như Oan cho mấy cái răng; Dân là quý; Lại chuyện người kim bụng cổ; Còn một hạng nữa Ngô Tất Tố đã đứng về phía những người dân để lên án những bất cập trong việc khám chữa bệnh của những người làm thuốc. Theo Ngô Tất Tố, đã là thầy thuốc phải coi tính mạng của người bệnh là trên hết; những kẻ “miệng không đọc sách thuốc ngày nào mà vẫn ngoen ngoẻn nói về nghề thuốc để lấy tiền” thật đáng nguyền rủa, oan hồn của những người chết oan dưới tay chúng không bao giờ có thể tha thứ. Ngô Tất Tố cho rằng, sở dĩ nhiều người dân bị chết oan bởi những “thầy lang” là do không “không có người nước nào được giàu lòng tin bằng người nước Nam, không cần hỏi đến nghề nghiệp, học vấn, người ta chỉ tin nhau ở lời nói. Và cái đức tin ấy người ta nhất định chỉ để tin các thầy lang” (Oan cho mấy cái răng). Trong các mối quan hệ xã hội, sự tin tưởng lẫn nhau là cần thiết bởi qua đó các mối quan hệ sẽ chặt chẽ hơn, tin cậy hơn. Tuy nhiên, nếu không nắm chắc được về chuyên môn, học vấn, chỉ nghe danh ai đó là “thầy 81 lang” mà giao phó cả số mệnh của mình cho họ thì là sự cả tin ngây thơ chết người. Ngô Tất Tố cho rằng, để bảo toàn tính mạng, người bệnh nhất thiết phải biết được rõ trình độ của thầy thuốc, uy tín của hiệu thuốc. Mặt khác, những kẻ dốt nát mang danh “thầy lang đọc sách không hiểu nghĩa, quảng cáo thì như ông thánh”, đáng lẽ người dân nghe lời quảng cáo phải biết đó là kẻ lừa đảo lấy tiền, nhưng vẫn “cẩu thả vẫn nhắm mắt uống thuốc của họ” thì tất yếu ảnh hưởng đến tính mệnh, “tức là tự tử chứ gì?”. Có lẽ không có sự dự báo, sự cảnh tỉnh nào cụ thể hơn những câu viết đó của ông. Ngô Tất Tố đã đề xuất chính quyền cần phải quản lý chặt hoạt động của các thày lang vì những kẻ “sống về nghề thuốc mà thực ra không am tường nghề, làm nghề chữa bệnh mà không học thật không có gì bảo đảm cho bệnh nhân. Chẳng trách lắm người đã bị chết oan vì gặp phải tay lang băm làm hại”. Theo Ngô Tất Tố, cần dùng khoa học hiện đại để nghiên cứu về Đông y; thuốc Tàu tuy là môn thuốc rất hay nhưng mà những người soạn ra sách thuốc đều chưa biết khoa học là gì, “làm cho thuốc của Tàu và của Ta phải mờ ám giống như một môn huyền học”. Do vậy, cần “khảo nghiệm tính chất thuốc Bắc và thuốc Nam và một trường học dùng phương pháp khoa học nghiên cứu nghề thuốc Tàu thì may ra cái nạn giết người lấy của ở xã hội thầy lang mới trừ bớt được”(Công dân, 1935). Những dự báo đó của Ngô Tất Tố đến nay đã thành hiện thực, đã và đang là một hướng đi tích cực trong việc sử dụng các bài thuốc dân gian truyền thống phục vụ việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của báo chí, truyền thông, nhất là những điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng các mối quan hệ tương tác trên môi trường Internet, người có bệnh có thể vào các mạng xã hội để hỏi bệnh mà không cần hỏi bác sỹ; có những người tin quảng cáo, tin dư luận ảo hơn tin bác sỹ đúng như Ngô Tất Tố đã dự báo, đó là sự cả tin, sự ngây thơ chết người, rất dễ mang họa cho bản thân. Hơn nữa, với các tiến bộ khoa học về tân dược và kỹ thuật khám chữa bệnh, nhưng việc khám chữa bệnh như hiện nay không phải vì thế mà an toàn, tin cậy hơn thời của Ngô Tất Tố Do vậy, người 82 bệnh phải nắm chắc về uy tín, chất lượng khám chữa bệnh của thầy thuốc, của cơ sở y tế đang khám chữa bệnh cho mình như thế mới bảo đảm sự an toàn của chính mình hoặc người thân của mình. Tiểu kết Chƣơng 2 Trong Chương 2, luận án đã đi sâu phân tích và làm rõ các nội dung sau: Một là, tản văn báo chí của Ngô Tất Tố có ba đề tài chính: 1) Đề tài chính trị là đề tài chủ yếu được ông viết vào đầu những năm 1930 và trong giai đoạn Mặt trận dân chủ do những ảnh hưởng thuận lợi của chính sách nới lỏng việc quản lý và kiểm duyệt báo chí; 2) Đề tài văn hóa, xã hội là đề tài này được Ngô Tất Tố đề cập trong hầu hết các tản văn báo chí của ông, nhưng tập trung vào đầu những năm 1930 và khoảng thời gian từ 1940 đến 1945. Đây là thời gian chiến tranh, nhằm trấn áp các hoạt động chống đối, chính quyền thực dân đã tăng cường kiểm duyệt và đàn áp báo chí, buộc Ngô Tất Tố phải chuyển hướng ngòi bút của mình phản ánh về các nội dung văn hóa; 3) Đề tài quốc tế, Ngô Tất Tố thường viết về đề tài này để phản ánh về các vấn đề thời sự quốc tế với những bình luận sắc sảo, cập nhật. Hai là, một trong những điều quan trọng để tạo nên thành công của Ngô Tất Tố chính là nhờ những lối quan sát hiện thực một cách tỉ mỉ, cẩn trọng, thấu đáo để phát hiện được những chi tiết, những góc cạnh khác nhau của nội dung vấn đề cần phản ánh. Từng chi tiết cung cấp một lượng thông tin chuẩn xác, kịp thời và đầy đủ về bản chất của những con người trong xã hội với đầy đủ các gương mặt từ quan chức chính phủ, quan lại phong kiến đến những con người bình dị trong xã hội. Tất cả góp phần khắc họa được những sự kiện điển hình, những nhân vật điển hình của đời sống xã hội trong chế độ cũ. Ba là, Ngô Tất Tố đã có những dự báo sâu sắc và nhạy bén về những vấn đề chính trị, về chế độ quản lý như phòng, chống tham nhũng, tham ô hối lộ; dự báo về những vấn đề văn hóa, xã hội như tệ nạn xã hội, giáo dục, y tế Nhiều dự báo, cảnh báo và đề xuất của Ngô Tất Tố cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị và rất cần thiết có sự nghiên cứu và vận dụng. 83 Chƣơng 3 PHONG CÁCH TẢN VĂN BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ QUA BÌNH DIỆN HÌNH THỨC VÀ KẾT CẤU TÁC PHẨM Hình thức của tác phẩm báo chí là tất cả các yếu tố hàm chứa, biểu hiện và chuyển tải nội dung. Kết cấu của tác phẩm báo chí được hiểu như là sự phân chia và sự bố trí các phần, các chương mục theo một hệ thống nhất định để thể hiện nội dung của tác phẩm [87]. Hình thức của tản văn nói chung, tản văn báo chí của Ngô Tất Tố nói riêng rất đa dạng. Chính vì vậy việc xây dựng kết cấu tản văn của ông không bao giờ rơi vào tình trạng đồng nhất và đơn điệu. Tùy thuộc vào nội dung của từng tác phẩm, tùy thuộc vào dụng ý của mình mà Ngô Tất Tố chọn cho từng tác phẩm một lối kết cấu thích hợp. Tuy nhiên, khảo sát cho thấy, các tản văn báo chí của Ngô Tất Tố về cơ bản là loại kết cấu sự kiện. Tản văn viết theo kiểu kết cấu sự kiện của Ngô Tất Tố gồm có hai thành phần rõ rệt: đầu đề và nội dung. Hai thành phần này có quan hệ mật thiết với nhau, đầu đề của tản văn phần nào chuyển tải được nội dung cơ bản sắp được đề cập trong truyện đó và nội dung cũng đi sâu làm rõ ý nghĩa của đầu đề đã đặt ra. Chính vì vậy kết cấu của một tản văn tuy ngắn gọn nhưng rất chặt chẽ. 3.1. Phong cách đặt đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố Đầu đề tác phẩm báo chí là một dạng đầu đề văn bản trong phong cách ngôn ngữ báo chí. Đó là tên gọi chính thức của một tác phẩm báo chí. Để thực hiện chức năng thông tin và tác động xã hội của mình, báo chí phản ánh hiện thực cuộc sống bằng các sự kiện xác thực và thời sự. Các đặc trưng này quyết định và chi phối đầu đề tác phẩm báo chí cả về nội dung thông tin cũng như cấu trúc ngữ pháp và nghệ thuật ngôn từ. Tính cá thể hóa của tác giả và tác phẩm đòi hỏi đầu đề tác phẩm tạo dựng được dấu ấn phong cách cá nhân. Đó là cái riêng, sự độc đáo, sáng tạo trong khi lựa chọn yếu tố tạo hình để miêu tả cũng như lựa chọn ngôn từ để biểu đạt. Ngô Tất Tố là một nhà báo tôn trọng các giá trị truyền thống nhưng cũng là một nhà báo giàu tính hiện đại, tất cả được thể hiện từ nếp tư duy luận 84 bàn một vấn đề cho đến cách thiết lập đầu đề cho những tác phẩm báo chí của mình. Đối với một tác phẩm báo chí, việc đặt đầu đề chắc hẳn phải bảo đảm được yêu cầu về tính thời sự. Đầu đề của một tác phẩm phải gắn với đối tượng mà người viết đề cập và miêu tả. Vì thế, cách đặt đầu đề cho tác phẩm báo chí là vấn đề có tính nghệ thuật để đạt hiệu quả tác động tốt. Chỉ cần đọc đầu đề, người đọc đã biết được nội dung chính của thông tin chứa đựng trong phần nội dung [138]. Ngô Tất Tố đã tỏ rõ sự sắc sảo, nhưng cũng rất chân phương, dân giã trong cách đặt đầu đề. Do vậy, những đầu đề tản văn ban chấp hành của Ngô Tất Tố mang đậm phong cách của ông. 3.1.1. Độ dài của đầu đề Bảng 3.1. Bảng so sánh độ dài của đầu đề tản văn báo chí của Ngô Tất Tố, theo từng tờ báo và từng năm từ năm 1928 đến năm 1945 Báo Năm Số chữ bình quân trong đầu đề Đông Pháp thời báo 1928 6,0 Thần Chung 1929 9,0 Phổ thông 1930 - 1931 1

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_phong_cach_tan_van_bao_chi_cua_ngo_tat_to_nguyen_bui.pdf
Tài liệu liên quan