MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUANTÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI VÀ VẤN ĐỀ
CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 6
1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào 6
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 10
1.3. Đánh giá chung những công trình đã nghiên cứu và những vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu của luận án 23
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO 27
2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động du lịch ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 27
2.2. Nội dung và các điều kiện đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động du lịch ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 49
2.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du
lịch của một số nước trên thế giới - giá trị tham khảo cho Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào 64
Chương 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU
LỊCH Ở NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 72
3.1. Quá trình hình thành và phát triển về quản lý nhà nước bằng pháp luật
đối với hoạt động du lịch ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào qua
các giai đoạn 72
3.2. Thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch
ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 91
3.3. Đánh giá chung về thực trạng quản lý nhà nước bằng pháp luật đối
với hoạt động du lịch ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 106Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN DU DU LỊCH VÀ
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC BẰNG PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY 116
4.1. Mục tiêu và phương hướng phát triển du lịch ở nứoc Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào hiện nay 116
4.2. Quan điểm bảo đảm quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động du lịch ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 128
4.3. Các giải pháp đảm bảo quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt
động du lịch ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 135
KẾT LUẬN 156
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 159
PHỤ LỤC 166
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 183 trang
183 trang | 
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 707 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i Điều 3 đã ghi rằng: 
- Có nhiệm vụ xác định, định hướng chiến lược của ngành du lịch - khách 
sạn trên phạm vi cả nước. 
- Xây dựng kế hoạch phát triển và kế hoạch đầu tư về ngành du lịch, lên 
danh sách các phương tiện, và lực lượng du lịch đang là quyền sở hữu của từng đơn 
vị kinh tế, xã hội, tập trung sửa đổi hướng dẫn phương thức sử dụng các phương 
tiện vào hệ thống của ngành du lịch đạt hiệu quả cao. 
- Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ở Trung ương và địa phương có mối 
quan hệ với ngành du lịch, thu hút đầu tư vào hệ thống du lịch quốc gia theo các kế 
hoạch đã đưa ra. 
- Yêu cầu đặt ra, các quy định liên quan đến hoạt động du lịch và khách sạn. 
- Hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra giám sát thực hiện chiến lược, các quy phạm 
pháp luật về du lịch được Nhà nước thông qua ban hành. 
- Cho phép hoặc không cho phép các tổ chức cá nhân hoạt động kinh doanh 
du lịch dưới các hình thức khác nhau trên lĩnh vực toàn quốc, định hướng theo 
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. 
- Cho phép thành lập và hủy bỏ các công ty du lịch. 
- Thực hiện và khuyến khích du lịch. 
- Đăng ký hợp tác với quốc tế và các cơ quan tổ chức ngoại giao liên quan 
đến ngành du lịch. 
- Đào tạo nguồn nhân lực về du lịch [15, tr.2]. 
Đại hội Đảng lần thứ V (tháng 6 năm 1991) đã tổng kết lại việc tổ chức thực 
hiện đổi mới 5 năm (1986 - 1990), cho thấy những kết quả nổi bật của từng lĩnh vực 
kinh tế - xã hội, trong đó riêng về du lịch. Đại hội đã khẳng định rằng: “Đảng và 
Nhà nước đã khuyến khích phát triển mở rộng du lịch về văn hóa, lịch sử và thiên 
nhiên” [71, tr.13], như vậy, vấn đề quản lý nhà nước đối với du lịch được xác định 
rõ hơn, bộ máy quản lý cũng được kiện toàn, đi vào ổn định, để thực hiện chủ 
trương của Đảng và Nhà nước trong việc tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, quốc 
tế đạt hiệu quả cao hơn, nâng cao cuộc sống của nhân dân càng ngày khá lên, và 
công tác quản lý du lịch cũng như kinh doanh du lịch thực hiện đúng mức và có sự 
80 
thống nhất trên phạm vi toàn quốc, đảm bảo trật tự - an ninh và trật tự an toàn trong 
xã hội và tạo được điều kiện thuận lợi cho du khách khi tham gia hoạt động du lịch 
tại Lào. Bộ thương mại và hợp tác kinh tế với nước ngoài đã đưa ra Sắc lệnh số 
306/BTM-DL, ngày 26 tháng 3 năm 1991, về công tác quản lý du lịch và công 
nghiệp du lịch, sắc lệnh này đã quy định rõ về công nghiệp du lịch là công tác dịch 
vụ trọn vẹn cho khách du lịch trong và ngoài nước trên đất Lào, Sắc lệnh này nhằm 
để khuyến khích công tác du lịch, cải thiện cuộc sống của nhân dân và đặc biệt là 
khuyến khích nền sản xuất trong nước có chất lượng cao, phổ biến nền văn hóa, 
phong tục tập quán, nơi di sản văn hóa quốc gia, văn hóa nghệ thuật và thể thao, 
quảng cáo phong cảnh thiên nhiên, xây dựng mối quan hệ với các nước trên thế giới 
và trên cơ sở du lịch đi-lại lẫn nhau đó là các vấn đề thu hút khách du lịch tham 
gia du lịch tại Lào, công nghiệp dịch vụ du lịch tại Lào gồm những dịch vụ sau đây: 
1. Kinh doanh du lịch 
2. Kinh doanh khách sạn, du lịch 
3. Kinh doanh ăn uống, giải trí và nơi du lịch. 
4. Kinh doanh sản phẩm lưu niệm, thủ công mỹ nghệ phục vụ cho du khách. 
5. Kinh doanh thể thao phục vụ cho du khách. 
6. Tổ chức triển lãm ở cấp địa phương hoặc cấp quốc gia. 
Ở thời kỳ đó, cơ quan du lịch có quyền và nghĩa vụ làm ban thư ký giúp Bộ 
thương mại và du lịch, là một Vụ làm việc riêng về du lịch, nghiên cứu các kế 
hoạch, chiến lược, khuyến khích du lịch, nghiên cứu giáo dục pháp luật về nguyên 
tắc và các quy định pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát tirển du 
lịch trên cơ sở đảm bảo công tác bảo vệ quốc phòng - an ninh, nghiên cứu sưu tập 
dữ liệu về kinh tế và thị trường du lịch 
Về qũy quốc gia để khuyến khích du lịch theo Điều 8 đã được mang tên là 
“quỹ quốc gia để khuyến khích du lịch và công nghiệp du lịch” [16, tr.3-4], đã được 
bổ sung thêm một số nội dung trong Sắc lệnh này như: Tổng cục Du lịch Lào là 
người quản lý và sử dụng quỹ quốc gia này và nếu muốn sử dụng phải được sự cho 
phép của Bộ trưởng Bộ thương mại và du lịch, quỹ quốc gia bao gồm: 
- Tiền nộp lệ phí để khuyến khích du lịch và công nghiệp du lịch mức độ 
không quá 5% của thu nhập kinh doanh (trừ các loại thuế khác), tiền nộp lệ phí của 
khách du lịch và các dịch vụ công nghiệp du lịch; 
81 
- Tiền hỗ trợ phát triển du lịch và công nghiệp du lịch do các đơn vị Nhà 
nước và đơn vị cá nhân hỗ trợ. 
- Tiền viện trợ của quốc tế và cơ quan tổ chức quốc tế. 
Nguồn thu nhập nói trên phải đóng vào “quỹ quốc gia để khuyến khích du 
lịch và công nghiệp du lịch”, xây dựng kho bạc cho nhân viên phục vụ du lịch quốc 
gia và sử dụng vào việc quản lý hành chính của du lịch quốc gia Lào, làm tiền tích 
lũy chung để sử dụng vào các chương trình liên quan đến hoạt động du lịch, khuyến 
khích du lịch và công nghiệp dịch vụ du lịch. 
Tóm lại, trong giai đoạn này thì vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật đối 
với hoạt động du lịch ở nước CHDCND Lào, là một vấn đề rất mới mẻ, việc ban 
hành các nghị định có liên quan đến du lịch rất ít, chức năng quản lý nhà nước về du 
lịch và chức năng kinh doanh du lịch chưa được phân định rõ ràng, quan hệ hợp tác 
quốc tế về du lịch chưa được quan tâm mở rộng nhiều, công tác đào tạo, bồi dưỡng 
nguồn nhân lực chưa được đầu tư đúng mức. Sự chỉ đạo trực tiếp của bộ máy quản 
lý nhà nước về du lịch từ Trung ương xuống các tỉnh, thành phố và doanh nghiệp 
mất tính liên tục, hạn chế hiệu lực, hiệu quả và ngành du lịch tụt hậu so với du lịch 
các nước có điều kiện tương đồng. Tổ chức bộ máy chưa ngang tầm với vị trí, vai 
trò, yêu cầu phát triển của ngành du lịch; cán bộ phân tán, mất đi tính thừa kế. 
Khách du lịch quốc tế đến CHDCND Lào từ năm 1990 có 14.400 người, đã tăng 
lên 7% so với năm 1950 - 1959 (WTO). Con số thống kê này biểu hiện một thực 
trạng khiến Nhà nước Lào tìm cách để quản lý hoạt động du lịch và phải nhìn nhận 
du lịch là một ngành quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế của đất nước 
trong thời kỳ đó. 
3.1.5. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2000 
Đến giai đoạn này, Nhà nước đã mở rộng khuyến khích thực hiện kinh 
doanh, nhất là công nghiệp du lịch và các kinh doanh dịch vụ khác có liên quan, có 
sự phát tiển và tăng lên rất nhiều như: Công ty du lịch, khách sạn, nhà nghỉ, nhà ăn, 
giao thông - vận tải Trước sự gia tăng của số lượng khách sạn và nhà nghỉ, để 
Nhà nước quản lý tốt về kinh doanh khách sạn - nhà nghỉ cho phù hợp với tình hình 
mới, Bộ thương mại và du lịch đã đưa ra quy định số 219/BTM-DL, ngày 5/5/1992 
về quản lý kinh doanh khách sạn và nhà nghỉ, theo chương III, Điều 7 về điều kiện 
82 
thực hiện kinh doanh khách sạn. Cá nhân hoặc các đơn vị cá nhân muốn thực hiện 
kinh doanh khách sạn tại nước CHDCND Lào phải có điều kiện bảo đảm như sau: 
- Đối với người nước ngoài phải được cho phép đầu tư theo pháp luật đầu tư 
nước ngoài của Lào. 
- Đối với người Lào là người chưa được kiện cáo hoặc bị phạm tội, phải 
chịu trách nhiệm dân sự đối với các du khách đến nghỉ theo cam kết ngoài hợp 
đồng [17, tr.2]. 
Tổng cục Du lịch Lào là một cơ quan quản lý trực tiếp thuộc Bộ thương mại 
và du lịch, đối với công tác du lịch, bao trùm kinh doanh khách sạn phải thực hiện 
nghiêm túc theo nguyên tắc chung và thống nhất, kiểm tra, giám sát các kinh doanh 
khách sạn trên lĩnh vực tòan quốc theo các quyền và nghĩa vụ đã được quy định 
theo Sắc lệnh số 306/BTM-DL. Trên thực tế, vấn đề xây dựng kinh doanh khách 
sạn, nhà nghỉ, một số trường hợp không có sự liên hệ với Tổng cục Du lịch, hoặc 
văn phòng du lịch cấp tỉnh, đã mang lại các vấn đề như: Phòng ngủ chưa đạt được 
tiêu chuẩn, khách sạn, nhà nghỉ chưa được đăng ký kinh doanh, một số khách sạn 
có trường hợp xảy ra như: tài sản của du khách bị trộm cướp Các văn bản quản lý 
đối với hoạt động quản lý kinh doanh khách sạn và nhà nghỉ chưa phát huy hết hiệu 
lực trong thực tế. Việc thực hiện các văn bản đó còn chậm chạp, nhất là việc thực 
hiện quy định nói trên, đối với kinh doanh khách sạn nhà nghỉ trước đó không đủ 
tiêu chuẩn để đón khách nước ngoài, sự gia tăng về số lượng khách quốc tế và 
khách nội địa đã làm cho cung về du lịch chỉ trong một thời gian ngắn đã phát triển 
vượt bậc cả về số lượng và chất lượng. Các khách sạn và nhà nghỉ đều hoạt động 
trong môi trường cạnh tranh gay gắt. 
Vai trò của nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch cũng được thể 
hiện rõ nét hơn. Tổng cục Du lịch, văn phòng du lịch đã có nhiều hoạt động nhằm 
thão gỡ khó khăn cho khách sạn như tăng cường phối hợp liên ngành, tạo môi 
trường pháp lý thuận lợi cho khách sạn kinh doanh đạt hiệu quả; tổ chức các hội 
nghị, hội thảo chuyên đề về kinh doanh khách sạn, mở các lớp huấn luyện, các hội 
thi nghiệp vụ nấu ăn, pha chế đồ uống 
Năm 1992, sau khi Tổng cục Du lịch Lào chuyển từ Bộ Thương mại và Du 
lịch về Văn phòng Thủ tướng theo Sắc lệnh số 100/TT, ngày 23/12/1992, về tổ 
83 
chức quản lý hoạt động du lịch đã bước vào các quy chế mới, Văn phòng Thủ tướng 
đã có chỉ thị về củng cố tổ chức và quản lý công tác du lịch, như vậy, ngành du lịch 
đã có bước phát triển mới theo nội dung và đặc điểm riêng của mình như: du lịch về 
văn hóa và cảnh đẹp thiên nhiên, trong những năm qua ngành du lịch đã từng bước 
phát triển, đặc biệt việc sửa đổi các quy chế và các chính sách khác nhằm để tăng 
cường khả năng trong công tác chỉ đạo và quản lý kinh doanh du lịch, tạo điều kiện 
thuận lợi cho sự ra - vào đất nước, nâng cao công tác dịch vụ và phát triển điểm du 
lịch, đó là điều kiện ban đầu để thu hút khách du lịch vào đất nước ngày càng có sự 
tăng lên. 
Đối với kinh doanh du lịch là chuyên ngành mới đối với đất nước Lào trong 
thời kỳ đó, mặc dù chuyên ngành này đã có bước phát triển ban đầu nhưng chất 
lượng còn thấp, Lào còn thiếu các quy định, thiếu bộ máy quản lý, thiếu nguồn nhân 
lực và thiếu kinh nghiệm để làm cho ngành này phát triển liên tục vững chắc và đi 
theo đường lối của Đảng. Quy định số 1150/VPCP, ngày 25/10/1993, về việc thiết 
lập và hoạt động kinh doanh du lịch tại Lào, vấn đề trong hoạt động kinh doanh du 
lịch, đặc biệt là kinh doanh lữ hành quốc tế là hết sức quan trọng. Trong những 
năm qua, do chính sách mở cửa nền kinh tế cùng với những chính sách, biện pháp 
của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy nền kinh tế đi lên đã tạo điều kiện phát triển 
du lịch lữ hành quốc tế góp phần làm tăng số lượng khách quốc tế vào Lào. Tuy 
nhiên, số lượng khách quốc tế đến Lào còn quá thấp so với nhiều nước trong khu 
vực và trên thế giới. Sự kém phát triển này là do sản phẩm du lịch của Lào còn 
nghèo nàn, chưa hấp dẫn du khách, các Công ty lữ hành quốc tế còn yếu về kinh 
nghiệm quản lý, chưa xây dựng được sản phẩm đặc trưng, các chương trình du lịch 
chưa đa dạng phong phú; đồng thời chưa đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường 
và tổ chức quảng cáo khuếch trương sản phẩm. 
Nội dung của Quy định số 1150/VPCP Điều 15 đã ghi rõ về việc không cho 
phép các công chức viên thuộc về các cơ quan của Nhà nước thực hiện kinh doanh 
du lịch và công nghiệp du lịch trừ trường hợp có sự cho phép của các cơ quan có 
liên quan. Quy định này còn không cho phép vợ, chồng hoặc con của các công chức 
viên thuộc về Tổng cục Du lịch thực hiện kinh doanh du lịch và công nghiệp du lịch 
cả về góp vốn với các công ty du lịch khác [84, tr.7]. 
84 
Các điều kiện thành lập công ty dịch vụ du lịch: 
+ Đối với công ty kinh doanh du lịch: 
- Có nguồn vốn ít nhất từ 142.000.000 kip hoặc 200.000 USD với cả thời 
hạn huy động vốn. 
- Có trụ sở văn phòng riêng của mình hoặc thuê. 
- Có cơ sở vật chất-kỹ thuật 
- Có phương tiện giao thông dịch vụ 2 xe trở lên, ít nhất có thể: 12-17 chỗ 
ngồi, 17 chỗ ngồi trở lên. 
- Mọi phương tiện phục vụ cho các du khách phải đảm bảo chất lượng về kỹ 
thuật, có bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với tài sản của du khách. 
- Có kế hoạch đầu tư sáng tạo những gì là độc đáo của Lào, theo các điều 
10,15 của quy định này, trong vòng 2 năm, chậm nhất phải được thực hiện. 
- Xây dựng chương trình du lịch theo lĩnh vực mình phụ trách và sự hoạt 
động của mình ít nhất 5 chương trình đối với điểm đến du lịch mà Nhà nước cho 
phép chính thức. 
- Giá cả chương trình đi du lịch phải thực hiện theo từng lĩnh vực và giá hấp 
dẫn nhất và có khả năng cạnh tranh với thị trường quốc tế. 
+ Đối với việc ra - vào cửa khẩu của nước CHDCND Lào thì Văn phòng thủ 
tướng đã ra quy định số 81/VPTT, ngày 21/1/1994, về việc ra-vào cửa khẩu nước 
CHDCND Lào cho khách du lịch quốc tế, để tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh 
du lịch và công nghiệp du lịch để thu hút khách du lịch vào trong nước. 
Chỉ thị 02/CP, ngày 14/2/1995, về việc củng cố tổ chức và quản lý công tác 
du lịch. Cho đến thời điểm này, quản lý nhà nước về du lịch có hẳn một chủ trương 
đổi mới về phương hướng phát triển du lịch và phát triển công nghiệp du lịch tại 
Lào bao gồm: 
1. Phát triển du lịch và phát triển công nghiệp du lịch phải gắn bó với công 
tác giáo dục các cán bộ nhân viên và toàn thể nhân dân hiểu biết về tính 
chất và lợi ích cả về mặt xáu và mặt tốt của công việc này, mọi người 
phải có ý thức trách nhiệm, chủ động tham gia khuyến khích và tích cực 
quản lý công tác phát triển du lịch. 
85 
2. Phát triển du lịch và phát triển công nghiệp du lịch phải nâng cao chất 
lượng và hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội là mục tiêu chủ yếu, để công 
tác dịch vụ gắn bó với sự quản lý và bảo vệ an ninh-chính trị và trật tự an 
toàn trong xã hội, bảo vệ được môi trường, bảo tồn và triển khai truyền 
thống văn hóa là bản sắc dân tộc. 
3. Mở rộng công tác du lịch phải đảm bảo được sự lãnh đạo của Đảng và 
quản lý nhà nước, đồng thời, có sự liên hệ và phân công rõ trách 
nhiệm giữa Tổng cục Du lịch ở Trung ương và các văn phòng du lịch 
tại địa phương. 
4. Dịch vụ du lịch tại CHDCND Lào được chia ra 2 loại hình du lịch như: 
Du lịch quốc tế và du lịch nội địa, du lịch quốc tế bao gồm du lịch biên 
giới do công ty nhà nước, công ty cổ phần của nhà nước hoặc công ty cá 
nhân là người có trách nhiệm dịch vụ. Đối với công tác dịch vụ cho 
người Lào có nơi cư trú ở nước ngoài khi sang thăm họ hàng, dịch vụ 
VISA, dịch vụ khách ra-vào biên giới và dịch vụ cho nhà kinh doanh vào 
nghiên cứu dữ liệu nhưng không phải là khách du lịch, Nhà nước có thể 
giao cho một cơ quan nào hoặc công ty du lịch quốc gia làm dịch vụ đó, 
còn công ty du lịch của các đơn vị kinh tế khác có sự cho phép dịch vụ rồi 
thì sẽ lại có sự sắp xếp và lựa chọn mới và hãy xem một số công ty có tiêu 
chuẩn đóng góp vốn cho Nhà nước hoặc giao cho họ thực hiện kinh doanh 
du lịch nội địa và công tác dịch vụ khác dưới sự cho phép của Nhà nước. 
5. Thị trường du lịch của Lào tập trung vào việc thu hút khách du lịch cao 
cấp và du lịch có tổ chức, hạn chế du lịch mạo hiểm, du lịch tự do không 
có tổ chức, du lịch ngoài kế hoạch và du lịch nhóm lớn và đông người 
mang đến sự khó khăn và phức tạp cho việc quản lý, không bỏ qua cho 
khách du lịch tự đi du lịch một mình. 
6. Đẩy mạnh và phát triển điểm đến du lịch và dịch vụ du lịch là mục tiêu 
quan trọng trong công tác củng cố tổ chức và quản lý du lịch, phát triển 
điểm đến du lịch và dịch vụ du lịch gắn bó với việc quảng cáo cho người 
nước ngoài hiểu biết về đất nước Lào và thấy được người dân Lào có 
lòng yêu nước và mến khách, yêu chế độ mới, yêu văn hóa và yêu truyền 
86 
thống của đất nước Lào, gắn bó với việc thu hút và khuyến khích các sản 
phẩm du lịch trong nước, gắn bó với việc cải thiện ra-vào biên giới, viễn 
thông đi-lại, ăn-ở nghỉ mát đối với du khách phải có sự thuận lợi và đảm 
bảo được sự an toàn hơn cả. 
7. Triển khai mối quan hệ và hợp tác giữa Tổng cục Du lịch Lào với các cơ 
quan du lịch của các nước bạn bè và các nước khác trên thế giới, là một 
phương hướng để rút ra các kinh nghiệm và bồi dưỡng các cán bộ nhân 
viên của Lào từng bước có khả năng phát triển cao lên [85, tr.1-2]. 
Về nội dung củng cố tổ chức và quản lý du lịch trong những năm tiếp theo. 
Xây dựng chiến lược đối với công tác phát triển du lịch dài hạn (từ thời điểm 
này đến năm 2000), để quyết định được định hướng cơ bản, nội dung của công tác 
phát triển và các tiêu chuẩn khác để đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện. Đồng thời, 
phải xây dựng được dự án chính thức trong công tác phát triển của từng mặt và từng 
địa điểm du lịch. 
- Nghiên cứu ban hành các văn bản hướng dẫn, các quy định và các quy chế 
cần thiết nhằm củng cố tổ chức và quản lý du lịch một cách có hệ thống toàn diện. 
Thời gian tiếp theo sẽ nghiên cứu và đề ra những quy định về công tác dịch vụ du 
lịch quốc tế chuyển sang công ty của Nhà nước; quy định về tiêu chuẩn của các 
công ty góp vốn cho Nhà nước, quy định về tổ chức công ty dịch vụ du lịch nội địa, 
quy định về quản lý điểm du lịch 
- Nhanh chóng củng cố các công ty du lịch của Nhà nước cả về các công ty 
cổ phần Nhà nước - cá nhân có chất lượng cao và có quyền và nghĩa vụ đầy đủ để 
thực hiện được kinh doanh dịch vụ, có khả năng thừa nhận sự phát triển về du lịch 
trong những năm tiếp theo. 
- Khuyến khích các đơn vị kinh tế cả về công tác đầu tư của nước ngoài và 
triển khai cơ sở vật chất lỹ thuật cho các công tác dịch vụ du lịch, nhất là ngành 
nghề khách sạn, nhà nghỉ, điểm đến du lịch, nhà ăn, điểm thể thao và các chương 
trình khác để phục vụ cho ngành du lịch. Đồng thời, phải quyết định được đường đi 
du lịch trên đường bộ, đường sông và đường hàng không cả về khu du lịch phải 
được khai thác phát triển trên phạm vi toàn quốc. 
87 
- Quảng bá, triển khai nội dung du lịch ở trong nước và nước ngoài bằng 
nhiều cấp độ và nhiều hình thức khác nhau để thu hút được khách du lịch ngày càng 
có sự tăng lên, đặc biệt là quảng bá về bản sắc văn hóa tốt đẹp và truyền thống các 
bộ tộc Lào, khuyến khích cho tổ chức lễ hội, lễ thi đua văn hóa, sản phẩm công 
nghiệp, thể thao v.v.. 
- Nhanh chóng thiết lập chi nhánh Văn phòng Du lịch ở các tỉnh và Thủ 
đô, để giúp cho các tỉnh và thủ đô trong công tác kiểm tra, giám sát quản lý và 
phát triển du lịch tại các địa phương tùy theo điều kiện và khả năng vốn có của 
mình. Lúc đó, nghiên cứu thiết lập chi nhánh văn phòng đại diện của du lịch Lào 
tại một số nước theo sự cần thiết. Một mặt, đề ra những quy định về việc phân 
công phụ trách giữa Tổng cục Du lịch với chi nhánh văn phòng đại diện ở các 
tỉnh, ở nước ngoài cũng như ở Trung ương và địa phương và các ngành có liên 
quan nhằm để nâng cao trách nhiệm của các cấp các ngành trong việc thực hiện 
công việc của mình. 
- Tổ chức bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn cho các cán bộ công 
chức, cán bộ quản lý và hướng dẫn viên du lịch, đảm bảo được trình độ đạo đức và 
ý thức. Tổng cục Du lịch có thể tổ chức đào tạo có hệ thống, cho đến việc xây dựng 
và thành lập trung tâm đào tạo chuyên ngành về khách sạn và du lịch, cả về kế 
hoạch đưa các cán bộ công chức đi học hỏi kinh nghiệm ở nước ngoài. 
- Hợp tác về du lịch với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước bạn bè, 
các nước láng giềng có biên giới tiếp giáp với nhau, các nước trong khu vực Thái 
Bình Dương và các nước khác trên thế giới để cùng nhau khuyến khích du lịch, xây 
dựng và phát triển du lịch trọn vẹn liên kết giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng 
pháp luật và công bằng và mỗi bên cùng có lợi. 
Nội dung nêu trên làm cho vấn đề quản lý du lịch tại Lào trong thời kỳ tiếp 
theo có bước phát triển, Văn phòng Thủ tướng cũng như Tổng cục Du lịch đã có sự 
kết hợp giữa các cơ quan có liên quan để nghiên cứu phương pháp quản lý và tổ 
chức thực hiện có hiệu quả cao. 
Đến năm 1996, Đại hội Đảng Nhân dân cách mạng Lào lần thứ VI, (tháng 6, 
năm 1996), một lần nữa Đại hội đã quyết định và nhấn mạnh và tiếp tục triển khai 
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với ngành du lịch: “Du lịch là 
88 
một bộ phận quan trọng trong công tác mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài, là 
một tiềm năng trong công tác tạo nguồn thu nhập quốc gia” [24, tr.25], (Công tác 
dịch vụ du lịch là một trong những 8 ngành kinh tế quan trọng trong phát triển kinh 
tế-xã hội của đất nước). 
 Để quản lý có hiệu quả hoạt động của các kinh doanh du lịch khách sạn, nhà 
nghỉ, nâng cao chất lượng dịch vụ, thúc đẩy các đơn vị kinh doanh và làm cho công 
tác quản lý nhà nước về du lịch có hệ thống và có sự thống nhất, Văn phòng Thủ 
tướng cũng như Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch đã đưa ra quy định về quản lý 
kinh doanh dịch vụ khách sạn và nhà nghỉ, số 159/VPTT, ngày 30/7/1997, Tổng 
cục Du lịch Lào đã có sự kết hợp với Sở du lịch/Văn phòng du lịch cấp tỉnh để thực 
hiện triển khai quy định nêu trên. 
Năm 1998, Tổng cục Du lịch Lào đã chuyển lại sang Bộ thương mại và du 
lịch. Theo Nghị định số 24/CP, ngày 24/3/1999, có những quyền và nghĩa vụ rất rõ 
ràng trong việc triển khai chính sách phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước, 
nghiên cứu kế hoạch, chiến lược và các dự án liên quan đến du lịch để chỉnh cho 
Chính phủ phê duyệt và chỉ đạo tổ chức kiểm tra giám sát các kế hoạch, thúc đẩy 
chiến lược và các dự án đó có hiệu quả kịp thời và thành công. Các Sở du lịch/Văn 
phòng du lịch từng bước đi vào hoạt động theo chức năng của mình, tham mưu đề 
xuất, báo cáo thực trạng quản lý du lịch ở địa bàn của mình cho Trung uơng, vai trò 
quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh du lịch cũng được thể hiện rõ nét 
hơn. Tổng cục Du lịch, Sở du lịch/Văn phòng du lịch đã có nhiều hoạt động nhằm 
tháo gỡ kho khăn cho các khách sạn như tăng cường phối hợp liên ngành, tạo môi 
trường pháp lý thuận lợi cho khách sạn kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn. 
Năm 1999-2000, Cộng hòa dân chủ nhân dan Lào nhận được sự viện trợ từ 
các cơ quan tổ chức quốc tế và CHDCND Lào đã có quan hệ hợp tác với các nước 
láng giềng cũng như sự hợp tác song phương và đa phương. Ngoài ra, còn có sự 
hợp tác về du lịch trong các khu vực ASEAN, các nước tiểu vùng sông Mê Kông 
(GMS), tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) Lào là nước thành viên từ năm 1971, 
Hiệp hội lữ hành Thái Bình Dương (PATA), trong lĩnh vực tổ chức chiến lược hợp 
tác kinh tế (ACMECS), hợp tác với thành viên mới của ASEAN (CLMV). Đồng 
thời, CHDCND Lào còn nhận được sự viện trợ từ các cơ quan tổ chức quốc tế như: 
89 
Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), Chính phủ Newzerland, Lúc xăm Bua, cơ 
quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc 
(KOICA), tổ chức bảo tồn thế giới (IUCN), quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) 
và các cơ quan tổ chức quốc tế khác trong công tác phát triển và quảng cáo sản 
phẩm du lịch của CHDCND Lào [13, tr.10]. 
Trong những năm qua, thị trường khách du lịch truyền thống từ châu Á, 
Châu Âu và châu Mỹ, luôn chiếm tỷ trọng lớn với mức chi tiêu cao trong tổng số 
lượng khách quốc tế đến Lào, nhưng chưa có sự nổi bật, mặc dù khách du lịch gồm 
cả các nước châu Âu và châu Mỹ, còn ít so với khách du lịch từ châu Á. Đến thời 
kỳ này CHDCND Lào còn là điểm du lịch của các nước châu Á với nhau, đặc biệt 
là du lịch giữa các nước láng liềng nhiều hơn. Như vậy, CHDCND Lào cần phải có 
thị trường du lịch phát triển. Vấn đề nghiên cứu thị trường du lịch ở Lào vẫn còn tản 
mạn, manh mún, mang tính tự phát, chưa mang tầm quốc gia. Trước hết phải 
nghiên cứu phân tích, đánh giá các thị trường hiện tại và thị trường tiềm năng. Xây 
dựng chiến lược và kế họach phát triển, mở rộng thị trường du lịch của Lào để sớm 
hòa nhập vào thị trường du lịch của khu vực và thế giới. Trong giai đoạn đầu nên 
tập trung vào các nước Đông Nam Á - Thái Bình Dương, tiếp đó là các thị trường 
Tây Âu, châu Mỹ và châu Phi. 
Đặc biệt, năm 1999-2000, lần đầu tiên CHDCND Lào đã tổ chức năm du 
lịch ASEAN tại Lào và đã rất thành công về việc thu hút được nhiều khách du lịch 
quốc tế [6, tr.10] 
Tóm lại, trong giai đoạn 1992-2000, vấn đề quản lý nhà nước bằng pháp luật 
đối với hoạt động du lịch ở nước CHDCND Lào có bước phát triển đáng kể. Nhưng 
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chưa được ban hành đầy đủ để quản lý 
một lĩnh vực du lịch, các trường học đào tạo và trung tâm dạy nghề về du lịch chưa 
có bước phát triển, du lịch chỉ là một môn học được giảng dạy, nghiên cứu ở Đại 
học quốc gia Lào. Nhà nước xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như đường bộ, đường 
biên giới tiếp giáp với các nước láng giềng từ phía Bắc - Nam. Bộ máy quản lý nhà 
nước về du lịch đã có sự củng cố về tổ chức, ở các tỉnh có văn phòng du lịch là 
trung tâm tham mưu cho của Tổng cục Du lịch Lào ở Trung ương. 
90 
Bảng 3.1: Số lượng, cơ cấu khách du lịch quốc tế đến Lào 
(thời kỳ 1992-2000) 
Năm Châu Á Tây Âu Châu Mỹ Châu Phi Tổng cộng 
Thu nhập 
(USD) 
1992 81,022 4,496 2,009 44 87,571 4,510,00 
1993 94,863 5,986 2,061 63 102,946 6,280,00 
1994 136,114 8,019 1,837 185 146,155 7,557,600 
1995 314,470 20,635 11,019 336 346,460 24,738,480 
1996 357,692 30,582 14,102 624 403,000 43,592,263 
1997 403,781 38,583 18,213 2,623 463,200 73,276,904 
1998 421,196 52,076 25,326 1,602 500,200 79,960,145 
1999 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tv_quan_ly_nha_nuoc_bang_phap_luat_doi_voi_cac_hoat_dong_du_lich_8807_1916301.pdf tv_quan_ly_nha_nuoc_bang_phap_luat_doi_voi_cac_hoat_dong_du_lich_8807_1916301.pdf