MỞ ĐẦU. 1
CHƯƠNG 1. 8
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ . 8
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu .8
1.1.1. Nghiên cứu tổng quan về TMĐT . 8
1.1.2. Nghiên cứu về thuế và quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT. 12
1.2. Kết quả đạt được ở các nghiên cứu kể trên .25
1.3. Khoảng hở cần tiếp tục nghiên cứu .27
1.4. Câu hỏi nghiên cứu.29
1.5. Phương pháp nghiên cứu .30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 . 35
CHƯƠNG 2. 36
LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ. 36
2.1. Tổng quan về TMĐT.36
2.1.1. Khái niệm TMĐT. 36
2.1.2. Sự khác biệt giữa TMĐT và thương mại truyền thống. 37
2.1.3. Phân loại hoạt động TMĐT. 40
2.1.4. Vai trò của TMĐT trong nền kinh tế . 43
2.2. Quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT.45
2.2.1. Khái niệm, đặc điểm quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT . 45
2.2.2. Yêu cầu quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT. 49
2.2.3. Nội dung quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT. 51
2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT. 60
2.3. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT và bài học cho Việt
Nam .63
2.3.1. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT. 63
2.3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam . 72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 . 76
CHƯƠNG 3. 77
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở
VIỆT NAM. 77
3.1. Tình hình phát triển TMĐT ở Việt Nam .77
3.1.1. Tình hình phát triển chung . 77
237 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 566 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hấy tốc độ tăng trưởng về tên miền và tốc độ
tăng trưởng TMĐT luôn có sự tương đồng theo hướng tỷ lệ thuận. Từ số liệu thống
87
kê của Trung tâm internet Việt Nam qua nhiều năm, TP Hồ Chí Minh và Hà Nội vẫn
là hai thành phố có số lượng tên miền lớn nhất nước trong nhiều năm. Năm 2018 số
lượng tên miền “.vn” tại TP Hồ Chí Minh có 172.629 và Hà Nội có 169.142. Đà
Nẵng là thành phố có số tên miền đứng thứ 3 trong cả nước nhưng cũng có khoảng
cách rất xa so với hai thành phố dẫn đầu (8.129). Báo cáo Chỉ số Thương mại điện
tử nhiều năm liên tiếp cho thấy phần lớn hoạt động TMĐT diễn ra ở hai thành phố
lớn nhất nước là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh năng động liền kề như Bắc
Ninh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, các thành phố lớn trực thuộc Trung ương
là Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Hoạt động kinh doanh trực tuyến tại hầu hết các
tỉnh khác còn yếu và có nguy cơ ngày càng tụt lại so với hai thành phố dẫn đầu. Ước
tính Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh chiếm tới 70% giao dịch TMĐT. Quy mô TMĐT
ở các địa phương khác, đặc biệt ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa rất nhỏ. Chính sự
phát triển không đồng đều đó nên trong công tác quản lý thuế đối với hoạt động
TMĐT ở Việt Nam phần lớn được tập trung triển khai thực hiện ở một số địa phương
có TMĐT phát triển, trong đó chủ yếu là ở hai thành phố lớn Hà Nội và TP Hồ Chí
Minh.[34]
Sự phát triển của mạng internet cùng với các mạng không dây 3G, 4G đã phủ
sóng 100% trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Mạng cáp quang phủ rộng, thị trường băng
thông rộng có dây ở Việt Nam tăng trưởng ổn định, tỷ lệ sử dụng từ 5,3% trong năm
2012 tăng lên 11,2% trong năm 2017 [95, tr.218]. Đặc biệt 5G được thử nghiệm trong
năm 2019 và chính thức vận hành trong năm 2019 sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển
mạnh mẽ của TMĐT Việt Nam trên nhiều phương diện như số lượng chủ thể tham
gia TMĐT, hình thức thực hiện TMĐT và các ngành nghề kinh doanh TMĐT. Nhưng
sự phát triển mạnh mẽ không đồng đều trên phạm vi cả nước đó đặt ra vấn đề lớn
cho quản lý nhà nước đối với hoạt động TMĐT, trong đó có quản lý thuế đối với
TMĐT- một mảng trong quản lý nhà nước, phải đảm bảo quản lý được các giao dịch
TMĐT trong nền kinh tế, thu đủ số thuế cần thu từ hoạt động TMĐT và đồng thời
tạo điều kiện cho TMĐT tiếp tục phát triển với mức độ cao hơn.
88
3.1.2. Tổng quan tình hình tham gia hoạt động TMĐT của các doanh
nghiệp ở Việt Nam
Các doanh nghiệp tham gia hoạt động TMĐT đóng vai trò rất quan trọng trong
các giao dịch TMĐT đặc biệt là đối với hai loại giao dịch TMĐT B2B và B2C. Doanh
nghiệp thực hiện hoạt động TMĐT dưới một trong hai hình thức TMĐT toàn phần
hoặc TMĐT kết hợp với thương mại truyền thống. Dựa trên kết quả khảo sát do NCS
thực hiện đối với 255 doanh nghiệp có thực hiện hoạt động TMĐT, thống kê cho
thấy có 45% doanh nghiệp thực hiện TMĐT toàn phần, còn lại là TMĐT kết hợp
thương mại truyền thống. Điều này cho thấy các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách đa
dạng hóa hình thức hoạt động nhằm tìm kiếm nhiều cơ hội hoạt động hơn cho doanh
nghiệp.
Loại hình doanh nghiệp có hoạt động TMĐT rất đa dạng. Kết quả khảo sát năm
2018 của VECOM thực hiện đối với 4.300 doanh nghiệp cho thấy tỷ lệ các loại hình
doanh nghiệp tham gia khảo sát cũng tương đồng so với các năm trước, nhóm doanh
nghiệp là Công ty TNHH chiếm tỷ lệ lớn nhất (50% trong tổng số doanh nghiệp khảo
sát), tiếp đó là Công ty cổ phần (28%) và Doanh nghiệp tư nhân (10%). Doanh nghiệp
lớn chiếm 12% trong tổng số doanh nghiệp khảo sát. [34,tr22]
Biểu đồ 3.1: Loại hình doanh nghiệp tham gia điều tra qua các năm
(Nguồn: Báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2015 và 2019)
Kinh doanh TMĐT là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, các doanh nghiệp
khi thành lập các website phải đăng ký thông tin với cơ quan nhà nước có thẩm
0
10
20
30
40
50
60
Doanh nghiệp
tư nhân
Công ty TNHH Công ty cổ phần Doanh nghiệp
nhà nước
Công ty có vốn
đầu tư nước
ngoài
Loại hình khác
2015 2016 2017 2018
89
quyền. Số liệu thống kê trên Cổng thông tin Quản lý hoạt động TMĐT cho thấy số
lượng các website đăng ký cập nhật đến thời điểm cuối tháng 3/2019 thống kê có
25.604 website TMĐT bán hàng, 986 website cung cấp dịch vụ TMĐT và 87 ứng
dụng cung cấp dịch vụ TMĐT. Tuy nhiên, số liệu khảo sát của Hiệp hội TMĐT Việt
Nam cho thấy giai đoạn từ năm 2013 đến 2018 tỷ lệ doanh nghiệp có website không
thay đổi quá nhiều. Các doanh nghiệp đã chú trọng hơn đến việc chăm sóc các trang
website nhằm quảng bá tốt hơn cho doanh nghiệp và để phục vụ tốt hơn cho khách
hàng.
Biểu đồ 3.2: Tỷ lệ doanh nghiệp có website qua các năm
(Nguồn: báo cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2019)
Ngoài hai hình thức B2B và B2C chiếm số lượng lớn trong tổng số giao dịch,
hiện nay cộng đồng doanh nghiệp tham gia hoạt động TMĐT đã dành sự quan tâm
nhất định cho TMĐT qua mạng xã hội. Năm 2018 đánh dấu sự tăng trưởng tốt của
mô hình kinh doanh trên các mạng xã hội, có thể thấy đây là hình thức hiệu quả với
chi phí thấp đang được nhiều doanh nghiệp lựa chọn mà điển hình là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Số lượng các doanh nghiệp tham gia kinh doanh trên các trang
mạng xã hội như Facebook và Zalo ngày càng nhiều. Trong số các doanh nghiệp
tham gia khảo sát, tỉ lệ các doanh nghiệp có thực hiện kinh doanh trên mạng xã hội
đã có sự gia tăng qua các năm. Kết quả thể hiện rõ trong biểu đồ 3.3.
43% 45% 46% 45% 43% 44%
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
35%
40%
45%
50%
2013 2014 2015 2016 2017 2018
90
Biểu đồ 3.3: Kinh doanh trên mạng xã hội qua các năm
(Nguồn: Báo cáo Chỉ số TMĐT năm 2019)
TMĐT là lĩnh vực hoạt động mới phát sinh trong nền kinh tế thời gian gần đây,
vì vậy phần lớn các doanh nghiệp khởi nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này chủ
yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chỉ có số ít doanh nghiệp có quy mô lớn. Năm
2013 có 03 doanh nghiệp Việt Nam vinh dự được World Startup Report định giá có
giá trị khá lớn bao gồm: Công ty Cổ phần VNG định giá 1 tỷ USD, Công ty cổ phần
Truyền thông Việt Nam (VCCorp): 125 triệu USD, Công ty cổ phần Vật giá Việt
Nam 75 triệu USD.
3.1.3. Một số mô hình kinh doanh TMĐT phổ biến ở Việt Nam
Các doanh nghiệp tham gia TMĐT trong nhiều mô hình TMĐT khác nhau. Ở
Việt Nam các mô hình kinh doanh TMĐT điện tử phổ biến có thể đề cập đến gồm:
- Bán lẻ hàng hóa qua hệ thống bán hàng trực tuyến
Trong mô hình này bên mua và bên bán hoàn tất các giao dịch thông qua môi
trường internet. Các doanh nghiệp có thể thực hiện giao dịch với người mua thông
qua đường dẫn đăng ký thông tin trên các website, thông qua email người mua gửi
cho người bán hoặc bán hàng thông qua trao đổi tin trên các ứng dụng của các trang
mạng xã hội như facebook, zalo. Hàng hóa giao dịch khi được chốt sẽ được chuyển
đến người mua thông qua các đơn vị vận chuyển. Việc thanh toán được thực hiện
qua nhiều kênh nhưng phần lớn là thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt như
chuyển khoản, thanh toán bằng ví điện tử, thanh toán theo hình thức COD. Theo
28%
72%
34%
66%
32%
68%
36%
64%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
Có Không
2015
2016
2017
2018
91
thống kê hình thức thanh toán được nhiều khách hàng lựa chọn là COD, xuất phát từ
tính đảm bảo an toàn trong giao dịch qua mạng internet.
Sơ đồ 3.1: Mô hình bán lẻ hàng hóa qua hệ thống bán hàng trực tuyến
(Nguồn: Ban cải cách-Tổng cục Thuế)
Với giao dịch kinh doanh bán lẻ qua hệ thống bán hàng trực tuyến, trên phương
diện các doanh nghiệp là bên bán hàng phải chịu sự điều chỉnh của thuế TNDN và
thuế GTGT đối với doanh số hàng bán ra. Việc kiểm tra doanh số hàng bán căn cứ
vào các hóa đơn bán hàng, hóa đơn GTGT mà doanh nghiệp xuất cho bên mua. Tuy
nhiên, thực tiễn thời gian qua tồn tại nhiều giao dịch mà các doanh nghiệp kinh doanh
TMĐT giấu doanh thu thông qua việc lợi dụng giao dịch mua bán qua môi trường
internet như thông qua mail, tài khoản zalo, facebook của cá nhân sau đó bán hàng
nhưng không xuất hóa đơn nhằm trốn thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Đối
với những trường hợp gian lận đó, đòi hỏi trong công tác kiểm tra của cơ quan thuế
phải thu thập được thông tin thông qua các bên trung gian vận chuyển gồm thông tin
về luồng hàng, số tiền thu hộ (nếu có). Trong nhiều trường hợp cần thiết phải có sự
cung cấp thông tin của các ngân hàng thương mại về dòng tiền giao dịch, từ đó cơ
quan thuế sẽ có chứng cứ trong việc xác định doanh thu doanh nghiệp thu được từ
hoạt động TMĐT làm căn cứ tính ra số thuế doanh nghiệp cần phải nộp.
- Quảng cáo trực tuyến
CỬA HÀNG
HÀNG
KHÁCH HÀNG
HÀNG
1. Tìm kiếm hàng hóa
2. Gửi mail đặt hàng
3. Nhận
thư đặt hàng
hàng
4. Yêu cầu xác nhận
nhận
Đại lí vận chuyển
Thỏa th uận
thuê ngoà i
8. Thanh toán tiền thu
từ Khách hàng
5.
Y
ê
u
c
ầ
u
vận
c
h
u
y
ể
n
INTERNET
6. Vận chuyển
7. Trả tiền mặt
khi giao hàng
92
Trong giao dịch này các nhà quảng cáo phải trả tiền để các quảng cáo của họ
được đến với những người sử dụng trên một website nào đó. Cái được gọi là “biển
quảng cáo” là các hình ảnh biểu tượng nhỏ gắn trên một trang web mà khi kích hoạt
vào đó, người sử dụng sẽ vào trang web của nhà quảng cáo đó. Thông thường, giá
quảng cáo được tính cụ thể theo chi phí trên số lần quảng cáo được hiển thị cho người
sử dụng. Tuy nhiên, mức giá cũng phụ thuộc vào số lần người sử dụng kích hoạt vào
biểu tượng quảng cáo. Các khoản thu nhập phát sinh từ các giao dịch là thu nhập từ
hoạt động kinh doanh và chịu sự điều của của pháp luật thuế nội địa.
Tại Việt Nam hiện ngày càng nhiều tổ chức, cá nhân (nhà phát triển) phát triển
phần mềm ứng dụng (game, nhạc, ngoại ngữ) cho các nền tảng di động. Nhà phát
triển đưa các phần mềm này lên các chợ ứng dụng hàng đầu thế giới như Apple store
của Công ty Apple và Chrome Play của Công ty Google. Các phần mềm này về cơ
bản gồm hai loại: trả phí và miễn phí.
Đối với phần mềm miễn phí, thu nhập chủ yếu của các nhà phát triển là từ
quảng cáo. Cụ thể: để đưa phần mềm lên các chợ ứng dụng nêu trên, các nhà phát
triển sẽ phải đăng ký thành viên (đóng phí thường niên) và đồng ý các điều kiện do
các Công ty Apple (Iad Advertisments) và Goole (AdMob) quản lý chợ đưa ra trong
Thỏa thuận điện tử. Sau khi ứng dụng được đưa lên chợ, các Công ty này sẽ có quyền
quản lý và khai thác ứng dụng, kể cả với mục đích thương mại (có quyền cho các
bên thứ ba đặt/nhúng quảng cáo mà không cần có sự đồng ý của nhà phát triển).
Khách hàng cần quảng cáo sẽ thanh toán phí đăng ký quảng cáo cho Iad
Advertisments hoặc Admob Google bằng thẻ tín dụng (Visa, Master, Amex,) hoặc
Paypal (dịch vụ thanh toán trung gian); nhà phát triển ứng dụng
(developper/publisher) sẽ nhận thu nhập từ quảng cáo trên ứng dụng di động của
mình do Iad Advertisment, Google Admob trả vào tài khoản ngân hàng hoặc qua
dịch vụ thanh toán trung gian.
93
Sơ đồ 3.2: Mô hình quảng cáo trên nền tảng di động (IOS, Android)
Nhà phát
triển ứng
dụng
(Developper)
(1) Ứng dụng miễn phí
Đại diện
quản lý chợ
(IAd/Google
Admob)
(2) Quản lý, khai thác ứng dụng
Khách hàng
có nhu cầu
quảng cáo
(Advertiser)
(3) Nhúng
quảng cáo
vào ứng dụng
(4) Trả tiền nhúng quảng cáo
Chợ ứng dụng
(5) Chia tiền quảng cáo
(Nguồn: Ban cải cách -Tổng cục Thuế)
Song song với mô hình quảng cáo trên các chợ ứng dụng, hiện nay hình thức
quảng cáo thông qua các trang mạng xã hội như facebook, youtubengày càng trở
nên phổ biến. Đa phần các trang mạng xã hội phổ biến, thu hút lượng lớn người truy
cập hiện nay được cung cấp bởi các doanh nghiệp nước ngoài và chưa có cơ sở
thường trú tại Việt Nam. Số tiền mà các doanh nghiệp trả cho các trang mạng xã hội
để được thực hiện dịch vụ quảng cáo rất lớn và được chuyển trả qua các tài khoản
của các doanh nghiệp đó được mở ở nước ngoài thông qua các cổng thanh toán quốc
tế do ngân hàng nước ngoài cung cấp xuyên biên giới. Hiện nay, các thông tin quản
lý tập trung các dòng tiền từ Việt Nam đi ra nước ngoài và chiều ngược lại ở Việt
Nam chưa được thực hiện do Việt Nam chưa có quy định yêu cầu các giao dịch thanh
toán ra nước ngoài phải đi qua cổng thanh toán tập trung theo quy định để thống nhất
nghiệp vụ quản lý.
Thị trường quảng cáo Việt Nam hiện nay có khoảng hơn 70% thị phần được
thực hiện bởi các công ty nước ngoài. Vì vậy, để các doanh nghiệp trong nước có thể
quảng bá các sản phẩm, mở rộng thị trường thì đòi hỏi phải tiến hành giao dịch với
những doanh nghiệp nước ngoài như Googke, FacebookTuy nhiên, sự cần thiết
phải phụ thuộc vào các doanh nghiệp nước ngoài trong hoạt động kinh doanh đã đặt
các doanh nghiệp Việt Nam vào thế bị động, chấp nhận thực hiện nghĩa vụ thuế Việt
Nam thay cho phía nước ngoài để được thực hiện quảng cáo sản phẩm của chính
94
doanh nghiệp trên các trang mạng xã hội hoặc chợ ứng dụng lớn. Do đó, trong nhiều
trường hợp phía doanh nghiệp Việt Nam dù thực hiện nghĩa vụ khấu trừ nộp thay
cho phía nước ngoài nhưng trên thực tế doanh nghiệp phải gánh chịu khoản thuế đó
thay cho phía nước ngoài, đẩy tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp lên rất cao.
Ngoài những doanh nghiệp chấp nhận gánh chịu thay thuế thì cũng có nhiều doanh
nghiệp khác tìm cách trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế nhà thầu nộp thay cho phía nước
ngoài gây nên tình trạng thất thoát thuế cho NSNN đồng thời tạo sự cạnh tranh không
bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và giữa các doanh nghiệp trong nước
với doanh nghiệp nước ngoài.
- Kinh doanh các sản phẩm nội dung số bao gồm: sách điện tử, phim ảnh,
ứng dụng điện tử, các trò chơi điện tử và các sản phẩm nhạc qua mạng internet. Hiện
nay, hoạt động kinh doanh các sản phẩm số qua mạng internet ngày càng phát triển
mạnh mẽ với đa dạng các sản phẩm được cung ứng trên thị trường xuất bản dưới
dạng ấn phẩm điện tử và sử dụng trên nền tảng các thiết bị điện tử. Các sản phẩm số
có thể được cung ứng bởi các tổ chức, cá nhân trong nước hoặc cung ứng bởi các tổ
chức, cá nhân nước ngoài. Kinh doanh các sản phẩm số mang lại lợi nhuận rất lớn
nếu các sản phẩm này được công chúng đón nhận.
Trong giao dịch mua các sản phẩm nội dung số khách hàng lựa chọn một sản
phẩm từ các catalô trực tuyến trên mạng hoặc đặt hàng trực tiếp từ các nhà cung cấp
qua mạng. Sau khi thanh toán, sản phẩm số sẽ được tải xuống các thiết bị điện tử của
khách hàng. Các khoản thanh toán từ việc mua dữ liệu các sản phẩm kỹ thuất số được
xác định là thu nhập từ hoạt động kinh doanh, sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật thuế
Việt Nam gồm thuế GTGT và thuế TNDN.
Các nội dung số là tài nguyên hữu hình chỉ được thực hiện trên các phương
tiện điện tử. Vì vậy, rủi ro lớn nhất đối với công tác quản lý thuế trong hoạt động này
là sự xác định được sự tồn tại của các giao dịch giữa người mua và người bán nếu
người bán/ người mua không chủ động khai báo và cơ quan thuế không có căn cứ
đáng tin cậy để xác định.
Đối với các doanh nghiệp trong nước cung cấp nội dung số thì thông qua thu
thập thông tin từ các ngân hàng thương mại quản lý tài khoản của doanh nghiệp, cơ
95
quan thuế có thể nhận định được dòng tiền ra, dòng tiền vào để xác định được nghĩa
vụ thuế của doanh nghiệp. Nhưng thực tiễn cho thấy một doanh nghiệp có nhiều tài
khoản trong cùng một hệ thống ngân hàng và các tài khoản ở các ngân hàng khác
nhau nên việc thu thập toàn bộ thông tin dòng tiền của doanh nghiệp mất rất nhiều
thời gian và chi phí, đặc biệt trong điều kiện hiện nay ngân hàng nhà nước trung ương
không có thông tin quản lý tập trung thông tin dòng tiền của từng chủ thể kinh doanh
ở các ngân hàng thương mại khác nhau. Mặt khác, trong nhiều trường hợp doanh
nghiệp Việt Nam cung cấp sản phẩm số ra nước ngoài, thu nhập nhận được trong
một số trường hợp được thanh toán qua tài khoản cá nhân mở tại nước ngoài, và sau
đó khoản thu nhập đó được chuyển về Việt Nam dưới dạng như kiều hối để trốn thuế
TNDN và thuế thu nhập cá nhân của người đứng tên tài khoản nhận. Do đó, đến nay
việc thu được thuế trong các giao dịch này vẫn còn gặp nhiều khó khăn trong thực
tiễn triển khai thực hiện.
Đối với các doanh nghiệp cung cấp nội dung số ở nước ngoài và người mua là
các tổ chức, cá nhân ở Việt Nam. Doanh thu phát sinh trong trường hợp này được
thực hiện ở Việt Nam nhưng đối tượng thụ hưởng ở nước ngoài, tiền được chuyển ra
các tài khoản ở nước ngoài nhưng không thông qua cổng thanh toán quốc gia. Theo
quy định của pháp luật thuế, khi bên mua là tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam thì phía
các doanh nghiệp Việt Nam mua sản phẩm phải nộp thay thuế nhà thầu cho nước
ngoài nhưng thực tiễn thuế nhà thầu từ các giao dịch này Việt Nam gần như không
thu được do các doanh nghiệp cố tình trốn nghĩa vụ, không khai báo và cơ quan thuế
cũng không kiểm soát được thông tin dòng tiền ra nước ngoài.
- Cung cấp dịch vụ trực tuyến: Với sự phát triển mạnh mẽ của các ứng dụng
công nghệ thông tin trong nền kinh tế chia sẻ đã hình thành nên nhiều hình thức cung
cấp dịch vụ trực tuyến, đáp ứng cao sự tiện lợi cho các người tiêu dùng trong nền
kinh tế. Các dịch vụ như đặt xe taxi, đặt phòng khách sạn, đặt nhà hàng ăn trực tuyến
với các thương hiệu như Uber, Grab, Agoda đã dành được sự quan tâm rất lớn từ
phía người tiêu dùng. Trong mô hình này người mua dịch vụ thông qua một bên đối
tác trung gian để kết nối đến các dịch vụ bên bán cung ứng. Số tiền người mua chuyển
cho bên trung gian kết nối sẽ gồm hai phần: một phần được bên trung gian thanh toán
96
ứng với phí dịch vụ bên bán cung ứng cho bên mua, phần còn lại là doanh thu nhận
được từ hoạt động trung gian môi giới đươc bên trung gian giữ lại.
Với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trực tuyến đăng ký và hoạt động ở
Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam như Grab, Goviet, Gotadithì việc
quản lý thuế đối với các doanh nghiệp này được thực hiện như với doanh nghiệp
truyền thống và cơ quan thuế có thể thực hiện quản lý được hoạt động TMĐT của
các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, với các doanh nghiệp ở nước ngoài như Uber,
Agodakhông có cơ sở thường trú tại Việt Nam thì đến nay cơ quan thuế Việt Nam
chưa thực hiện thu được thuế từ các doanh nghiệp đó do các quy định về quản lý hoạt
động trong nền kinh tế chia sẻ chưa được ban hành và phía Việt Nam chưa có quy
định cụ thể trong quản lý dòng tiền đi ra ngoài lãnh thổ Việt Nam nhằm phục vụ cho
mục tiêu quản lý thuế đối với các giao dịch TMĐT xuyên biên giới.
Sơ đồ 3.3: Mô hình hoạt động trực tuyến của Uber
(Nguồn: Ban Cải cách -Tổng cục Thuế)
Như vậy, các mô hình kinh doanh TMĐT ở Việt Nam rất đa dạng trong cách
thức thực hiện. Tùy vào từng mô hình mà yếu tố doanh thu/thu nhập chịu sự điều
chỉnh của Luật thuế nội địa và chủ thể có phát sinh nghĩa vụ thuế theo quy định của
pháp luật thuế Việt Nam sẽ được xác định phù hợp. Tuy nhiên, phần lớn trong các
mô hình TMĐT đều có khả năng chứa đựng những rủi ro đặt ra trong công tác quản
lý thuế của cơ quan thuế và để có thể giảm thiểu, tiến tới quản lý được những rủi ro
đó đòi hỏi phải có sự kết nối chặt chẽ giữa cơ quan thuế với các cơ quan, ban, ngành
97
có liên quan trong quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT thuộc hệ thống các cơ quan
quản lý nhà nước, cùng nhau thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động TMĐT.
Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14 được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2019 đã
đưa ra những quy định về sự phối hợp giữa cơ quan thuế với một số cơ quan quản lý
nhà nước có liên quan trong quản lý hoạt động TMĐT, đây là những nền tảng chính
sách quan trọng tạo điều kiện thuân lợi hơn cho quản lý các giao dịch TMĐT trong
các mô hình TMĐT đề cập ở trên được thuận lợi hơn khi luật có hiệu lực thi hành kể
từ 1/7/2020.
3.2. Quy định pháp lý về quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT ở Việt Nam
Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15/9/2005 của Thủ tướng chính phủ
về phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006-2010 nêu quy định
cần thiết ban hành các văn bản pháp lý về thuế nhằm điều chỉnh hoạt động TMĐT.
Cụ thể tại Khoản 2, mục III, điều 1 quyết định số 222/2005/Q Đ-TTg nêu rõ “ Đến
cuối năm 2006, ban hành đầy đủ các văn bản dưới Luật để thực thi Luật Giao dịch
điện tử, Luật Thương mại và Bộ Luật dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho thông điệp dữ
liệu. Đến cuối năm 2007, ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh các khía cạnh liên quan tới thương mại điện tử về giải quyết tranh chấp, bảo
vệ người tiêu dùng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, phòng chống tội phạm, các vấn đề
về thuế nội địa và thuế hải quan”.
Thời gian qua, các quy định về quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT được
áp dụng chung với hoạt động thương mại truyền thống mà chưa có một văn bản pháp
lý nào quy định về chính sách thuế và quản lý thuế riêng cho hoạt động TMĐT. Tuy
nhiên, trong Luật quản lý thuế và quy định của một số sắc thuế hiện nay cũng đã có
những điều chỉnh về một số nội dung liên quan đến hoạt động TMĐT. Cụ thể:
Thứ nhất, quy định về nghĩa vụ thuế đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động
kinh doanh TMĐT
Các tổ chức, cá nhân là người nộp thuế có hoạt động kinh doanh truyền thống
hoặc kinh doanh TMĐT đều phải có nghĩa vụ đăng ký thuế, sử dụng mã số thuế theo
đúng quy định của pháp luật, khai thuế chính xác, trung thực và nộp tiền thuế đầy
đủ, đúng hạn, đúng địa điểm theo quy định.
98
Người nộp thuế là các tổ chức, doanh nghiệp được thành lập theo quy định
pháp luật Việt Nam có hoạt động kinh doanh TMĐT theo quy định pháp luật Việt
Nam phải kê khai và nộp các loại thuế có gắn với hoạt động kinh doanh TMĐT. Đối
với tổ chức nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam (gọi
chung là nhà thầu nước ngoài) mà tổ chức này không hoạt động theo Luật Đầu tư,
Luật Doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh TMĐT, nếu người mua sản phẩm
TMĐT là các tổ chức thành lập theo pháp luật Việt Nam, người mua có nghĩa vụ kê
khai, khấu trừ và nộp thay tổ chức nước ngoài số thuế nhà thầu phải nộp; nếu người
mua là tổ chức, cá nhân khác thì nhà thầu nước ngoài phải kê khai, nộp thuế đối với
hàng hóa, dịch vụ cung cấp, trong đó trường hợp nhà thầu nước ngoài không có cơ
sở thường trú tại Việt Nam thì có thể thông qua các đại lý để kê khai, nộp thuế. Đối
với các cá nhân cư trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh TMĐT qua mạng có
tổng doanh thu từ tất cả các loại hình kinh doanh trong năm (kể cả các loại hình kinh
doanh khác ngoài kinh doanh TMĐT qua mạng) trên 100 triệu đồng/năm phải kê
khai nộp thuế GTGT và thuế TNCN theo quy định.
Tại khoản 10, điều 7 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế
năm 2012 đã nêu rõ người nộp thuế là các tổ chức kinh doanh (bao gồm cả kinh
doanh theo phương thức truyền thống và kinh doanh TMĐT) tại địa bàn có cơ sở hạ
tầng về công nghệ thông tin phải thực hiện kê khai, nộp thuế, giao dịch với cơ quan
thuế thông qua phương tiện điện tử theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
Trên cơ sở đó, Thông tư số 35/2013/TT-BTC ngày 1/4/2013 hướng dẫn giao dịch
điện tử trong lĩnh vực thuế được ban hành với mục tiêu khuyến khích người nộp thuế
thực hiện các thủ tục hành chính thuế bằng phương thức giao dịch điện tử.
Thứ hai, quy định về việc thực hiện công tác quản lý của cơ quan thuế
Công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT của cơ quan thuế thực hiện
với các nội dung quản lý được quy định rõ trong điều 3 Luật quản lý thuế năm 2006.
Cụ thể cơ quan thuế thực hiện nội dung quản lý về các vấn đề:
- Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế
- Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế
99
- Xóa nợ tiền thuế, tiền phạt
- Quản lý thông tin người nộp thuế
- Kiểm tra thuế, thanh tra thuế
- Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
- Xử lý vi phạm pháp luật về thuế
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế
Theo đó cơ quan thuế phải có trách nhiệm thực hiện thu thuế phát sinh trong
các giao dịch TMĐT theo đúng quy định của pháp luật, tuyên truyền phổ biến pháp
luật về thuế đến các tổ chức và cá nhân tham gia vào hoạt động TMĐT, công khai
các thủ tục về thuế và đặc biệt các thông tin của người nộp thuế phải được giữ bí mật
theo quy định của Luật quản lý thuế.
Thứ ba, quy định về thuế đối với TMĐT
Hệ thống thuế của Việt Nam hiện nay bao gồm nhiều sắc thuế điều tiết trên
mọi khoản thu nhập phát sinh trong nền kinh tế. Các sắc thuế giá trị gia tăng, thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế xuất khẩu
và nhập khẩu đều có những quy định khá toàn diện điều chỉnh hoạt động sản xuất,
kinh doanh nói chung trong đó có cả hoạt động kinh doanh TMĐT. Tuy nhiên, dù áp
dụng chung cho cả hoạt động kinh doanh truyền thống và kinh doanh TMĐT nhưng
trong các quy định của từng sắc thuế vẫn có một số quy định nhằm khuyến khích sự
phát triển của TMĐT, như tại khoản 21, điều 5 Luật thuế giá trị gia tăng 2008 có quy
định phần mềm máy tính thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng; trong t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_quan_ly_thue_doi_voi_hoat_dong_thuong_mai_dien_tu_o.pdf