MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN .iv
DANH MỤC MÔ HÌNH, BẢNG TRONG LUẬN ÁN .v
MỞ ĐẦU.1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN.7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .7
1.1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về sân khấu kịch nói Việt Nam .8
1.1.2. Tổng quan những công trình nghiên cứu về sân khấu kịch nói thành phố
Hồ Chí Minh .12
1.1.3. Tổng quan những công trình nghiên cứu về đời sống văn hóa thành phố
Hồ Chí Minh .16
1.1.4. Tổng quan những công trình nghiên về sân khấu kịch nói trong đời sống
văn hóa thành phố Hồ Chí Minh.19
1.2. Cơ sở lý luận .22
1.2.1. Sân khấu kịch.22
1.2.2. Đời sống văn hóa .24
1.2.3. Các lý thuyết vận dụng nghiên cứu .30
1.2.4. Vùng văn hóa và văn hóa vùng.34
1.2.5. Biến đổi văn hóa .37
1.3. Cơ sở thực tiễn .38
1.3.1. Tọa độ văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh.38
1.3.2. Quá trình hình thành và phát triển sân khấu kịch nói Thành phố Hồ Chí
Minh.40
Tiểu kết.48
Chương 2. SỰ TƯƠNG TÁC GIỮA SÂN KHẤU KỊCH NÓI VỚI ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.49
2.1. Đặc điểm môi trường văn hóa thành phố Hồ Chí Minh .49
2.1.1. Môi trường văn hóa đô thị .49
2.1.2. Môi trường văn hóa có mức thu nhập và trình độ dân trí cao .50
2.1.3. Môi trường văn hóa trẻ .51
2.1.4. Môi trường hội tụ, đa dạng văn hóa.51
2.2. Ảnh hưởng của đời sống văn hóa đối với sân khấu kịch nói thành phố Hồ Chí
Minh nhìn từ hoạt động và sản phẩm văn hóa .53iii
2.2.1. Ảnh hưởng của đời sống văn hóa đối với sân khấu kịch nói thành phố Hồ
Chí Minh nhìn từ hoạt động văn hóa .53
2.2.2. Ảnh hưởng của đời sống văn hóa đối với sân khấu kịch nói thành phố Hồ
Chí Minh nhìn từ sản phẩm văn hóa.74
2.3. Ảnh hưởng của sân khấu kịch nói đối với đời sống văn hóa thành phố Hồ Chí
Minh nhìn từ nhu cầu văn hóa.85
2.3.1. Sân khấu kịch nói và sự đáp ứng nhu cầu của người dân thành phố Hồ Chí
Minh.85
2.3.2. Sân khấu kịch nói và vai trò phản ánh cũng như kiến tạo đời sống văn hóa
thành phố Hồ Chí Minh .91
Tiểu kết.94
Chương 3. VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN SÂN KHẤU KỊCH NÓI TRONG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.96
3.1. Vấn đề phát triển sân khấu kịch nói trong đời sống văn hóa thành phố Hồ Chí
Minh nhìn từ các thiết chế văn hóa .96
3.1.1. Sân khấu kịch nói trong quan hệ với các thiết chế quản lý văn hóa nghệ
thuật.96
3.1.2. Sân khấu kịch nói trong quan hệ với các thiết chế hoạt động văn hóa nghệ
thuật.99
3.2. Sân khấu kịch nói nhìn từ các chủ thể hoạt động sáng tạo, biểu diễn nghệ thuật
.115
3.2.1. Tác giả kịch bản.115
3.2.2. Đạo diễn.119
3.2.3. Diễn viên.119
3.3. Hướng phát triển của sân khấu kịch nói trong đời sống văn hóa thành phố Hồ
Chí Minh .120
3.3.1. Thực trạng của sân khấu kịch nói thành phố Hồ Chí Minh hiện nay .120
3.3.2. Hướng phát triển cho các sân khấu kịch nói thành phố Hồ Chí Minh .121
Tiểu kết .127
KẾT LUẬN.128
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ.133
TÀI LIỆU THAM KHẢ
202 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Sân khấu kịch nói trong đời sống văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh (từ năm 2010 đến năm 2020), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yết định tới sự thành công
của bất kỳ một môn nghệ thuật nào.
Trong bài viết về “Sân khấu TP.HCM 75-90 chặng đường 15 năm không
ngừng phát triển” trên Tạp chí Sân khấu Thành phố, tác giả Lê Chí Trung đã tổng
kết lại về các mối quan tâm của công chúng với các đề tài khác nhau, cụ thể như:
cuộc sống hiện tại, dã sử, huyền thoại, lịch sử, kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ kịch nước ngoài [113]. Công chúng đã có xu hướng tìm tới các vở kịch phản
ánh cuộc sống hiện thực, thức tế nhiều hơn so với các thể loại khác.
Trong giai đoạn từ sau đổi mới, các đề tài đã có sự đa dạng hơn và có xu
hướng đi theo nhu cầu của thị trường, của công chúng. Sự ra đời của khấu nhỏ
76
được hình thành trong giai đoạn này thu hút một lượng công chúng nhất định
cho thấy những dấu hiệu tích cực hồi sinh của sân khấu kịch trong những giai
đoạn tiếp theo. Đến những năm 2000, xã hội hóa sân khấu là một hướng đi đúng
đắn với nghệ thuật sân khấu TP.HCM tạo nên một đời sống văn hóa vô cùng
phong phú và nhộn nhịp cho công chúng sau một thời gian dài khủng hoảng.
Theo Trần Trọng Đăng Đàn trong cuốn Nghệ thuật sân khấu Việt Nam (2004)
thì sự thành công của mô hình sân khấu nhỏ là bởi “ở sự thể nghiệm có cơ sở
lý luận và có thực tiễn thích hợp; có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng
hữu quan và có bài bản chu đáo cho từng bước đi cụ thể, tuần tự; để bước vào
thể nghiệm đã có sự tham khảo kỹ lưỡng về lý thuyết và có khảo sát thực tiễn
sân khấu nhỏ nước ngoài; có tiến hành thăm dò với vở “Dư luận quần chúng”
hay một công trình nghiên cứu thực nghiệm khoa học, nghệ thuật về sân khấu
“Một cuộc đời bị đánh cắp” [20, tr.126]. Và chính nhờ những cơ sở này mà đề
tài, chủ đề trong đời sống sân khấu thành phố đã giữ được mức độ vừa phải,
tiếp cận được với thực tế xã hội ngày một gần hơn, phản ánh sát đúng hơn bản
chất của xã hội Việt Nam trong các thời kỳ: thời đổi mới, thời hậu chiến và thời
chiến tranh.
Sân khấu kịch TP.HCM là một trong những sân khấu hiếm trong cả nước
đặc biệt quan tâm tới thị hiếu của công chúng. Có lẽ bởi các sân khấu này sớm
đã tìm ra được định hướng đi theo con đường xã hội hóa, hướng tới sự phát
triển của nền kinh tế thị trường do vậy mà các hoạt động nghệ thuật của thành
phố cũng đi theo những xu thế chung như vậy. Quan tâm tới thị hiếu của khán
giả đồng nghĩa với việc các sân khấu kịch sẽ được khán giả ủng hộ và nuôi
sống. Vì thế, các đề tài trong mỗi vở kịch đều được các sân khấu coi trọng theo
hướng đi theo nhu cầu của chính công chúng và đó chính là một trong những
lý do quan trọng tác động tới sự tương đối hài lòng của người xem về đề tài của
các vở kịch hiện nay.
77
Những vở diễn về các vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống, về con người
Nam Bộ được phản ánh trong các tác phẩm. Nếu ai đã từng đi xem kịch nói
thành phố nhất định sẽ nhận ra chất riêng, thể hiện rõ nét địa phương. Cụ thể
nhất, có thể nắm bắt ngay, đó là nội dung vở diễn. Ví dụ như: trong “Nửa đời
ngơ ngác” của sân khấu Hoàng Thái Thanh, nhân vật Tư Lê phản ánh lại hình
ảnh các cô gái miền Tây, phải từ bỏ tình yêu nơi quê nhà, bị cha mẹ gả sang
nước ngoài. Hiện tượng cô dâu Việt lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc hay Việt
kiều với hôn nhân không tình yêu là một thực tế khá phổ biến ở các tỉnh Nam
Bộ. Với “Những giấc mơ lóng lánh”, Nhà hát Kịch Sân khấu nhỏ 5B lại mang
đến một câu chuyện nhẹ nhàng nhưng cũng đầy cảm xúc. Toàn bộ vở diễn xoay
quanh xóm lao động nghèo nằm cạnh rạp hát đã bị bỏ hoang từ lâu. Mỗi con
người ở đó đều có hoàn cảnh riêng. Họ gặp nhau ở điểm chung: tìm đến và
chọn thành phố làm nơi mưu sinh, mang ước mơ đổi đời và sẵn sàng tương trợ
nhau lúc khó khăn. Thành phố HCM hiện có gần 10 triệu dân. Phần lớn là người
từ những vùng, miền khác đến làm việc và sinh sống. Đặc biệt ở những xóm
lao động nghèo với dãy nhà trọ san sát, những phận người nhỏ bé như nhân vật
anh bán kẹo kéo Trọng, cô chủ quán cóc Nhung, ông cắt tóc Sáu Lý, chị thợ
may Thu Cúc v.v là nguyên mẫu từ đời thực mà chúng ta có thể bắt gặp. Dù
cho xuất thân từ đâu, nhưng khi đã tập hợp lại, cùng chung sống ở đây thì không
có một sự phân biệt nào cả. Người ta không quan tâm đến quá khứ bạn là ai,
làm gì. Cái mà họ chú ý là hiện tại. Lúc nguy nan cấp bách, họ sẽ chung tay
cùng nhau tìm cách giải quyết. Nếu ai đã sống, gắn bó lâu với Sài Gòn, khi xem
vở diễn chắc chắn sẽ tìm được sự đồng cảm sâu sắc và cảm nhận rõ nét rất riêng
này. Ở một vở diễn khác như “Gia đình siêu quậy” do Sân khấu Thế giới Trẻ
dàn dựng, đây lại là một câu chuyện vui vẻ, hài hước xoay quanh một gia đình
người Hoa đã mấy đời sống ở khu Chợ Lớn, sinh kế bằng xe bán mì. Họ cũng
có những mâu thuẫn, những cảm xúc vui, buồn, hờn giận nhưng trên tất cả là
78
tình cảm yêu thương, quan tâm dành cho nhau. Thông điệp nhẹ nhàng, phản
ảnh được sinh hoạt thường nhật của cộng đồng người Hoa Chợ Lớn ở khu phố
đã hơn trăm tuổi, vở kịch phần nào mang đến cho người xem biết thêm một về
một góc nhỏ của thành phố trong tổng thể chung.
Sự đa dạng của các đề tài kịch nói nhằm đáp ứng tốt nhu cầu của công
chúng chính là kết quả của một quá trình xuất phát từ nhu cầu cộng đồng, cùng
với các hoạt động của đơn vị tổ chức. Đó là một quá trình tạo ra một sản phẩm
văn hóa để có thể đến được tay người tiêu dùng. Nắm bắt và nhạy bén với tình
hình chung, các sân khấu kịch tư nhân tại thành phố đã có những bước chuyển
mình, thay đổi nhằm thu hút khán giả. Người ta có thể dễ dàng cảm nhận hơi
thở của cuộc sống thông qua các vở kịch với sự đa dạng và phong phú về trong
các đề tài, có thể kể đến như các vở “Tiếng giày đêm” (Công ty giải trí Hero
Film), “Hiu hiu gió bấc” (Sân khấu kịch Buffalo), “Đám cưới chùm” (Nụ cười
mới), “Oan hồn” (Sân khấu kịch Sài Gòn), “Thiên thần nhỏ của tôi” (Sân khấu
Hồng Hạc) Một số vở diễn gửi gắm nhiều thông điệp về cuộc sống và con
người như: “Gương mặt kẻ khác” (Sân khấu nhỏ 5B), “Đàn bà dễ có mấy tay”
(Sân khấu kịch Hồng Vân), v.v... Điểm đáng nói là sự xuất hiện của các vở diễn
mang đề tài cách mạng - điều hiếm gặp trên các sân khấu tư nhân. Vở “Châu
về hợp phố” của Sân khấu kịch Hồng Vân từng gây chú ý khán giả thành phố
khi dàn dựng nhân kỷ niệm 50 năm Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu
Thân 1968. Sân khấu kịch Trịnh Kim Chi dựng một vở mới về đề tài cách mạng
“Rặng trâm bầu”, khắc họa hình ảnh cao đẹp của những Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng trong chiến tranh. Mượn câu chuyện Vụ án vườn Lệ Chi, sân khấu Idecaf
đi sâu vào sự cô độc của Nguyễn Trãi, học sĩ Thị Lan và nhà vua cho nên hấp
dẫn, lôi cuốn người xem dù câu chuyện đã khá xa với thời hiện đại.
Từ sản phẩm trực tiếp là các vở kịch với nội dung đa dạng, gần gũi đời
sống được công chúng đón nhận nồng nhiệt, các sân khấu kịch đã cho thấy khả
79
năng nhanh nhạy khi nắm bắt được tình hình thực tiễn và nhu cầu của khán giả.
Nghệ thuật muốn tồn tại lâu dài thì phải gắn và không xa rời thực tế, ở một
chừng mực nào đó, kịch thành phố đã và đang làm được điều này.
2.2.2.2. Sân khấu kịch với hình thức thể hiện phong phú, sáng tạo
Kịch thành phố trước nay vẫn được đánh giá là nhẹ nhàng, bình dị, gần
gũi. Tuy nhiên không vì thế mà kịch thiếu đi các hình thức thể hiện phong phú,
sáng tạo.
Về hình thức, khán giả có thể thoải mái lựa chọn cho mình các thể tài để
thưởng thức. Từ bi kịch đến hài kịch, tất cả đều có đầy đủ. Từ những năm 2000,
trào lưu phim kinh dị của Mỹ, Thái Lan xuất hiện. Một bộ phận công chúng,
đặc biệt là giới trẻ đã đón nhận xu thế này. Một cách nhanh chóng, nắm bắt thị
hiếu của khán giả, trên sân khấu bắt đầu xuất hiện kịch kinh dị, kịch ma, vốn là
những thể tài chưa từng có trong lịch sử kịch Sài Gòn - TP.HCM. “Người vợ
ma” của sân khấu kịch Hồng Vân, “Lầu hoang” của Sân khấu Thế giới Trẻ,
“Cuộc gọi lúc 0 giờ” của Kịch Sài Gòn v là những thử nghiệm đầu tiên, để
từ đó khơi mào cho cả một phong trào diễn kịch ma, xem kịch ma của cả các
sân khấu và khán giả. Đến nay, thể tài này đã phát triển rất mạnh ở thành phố
và dành được sự yêu thích của khán giả. Kịch thành phố không chỉ dừng lại ở
bi kịch, hài kịch hay kịch kinh dị, mà gần đây, xu hướng kịch tâm lý xã hội –
hài cũng rất được ưa chuộng. Tâm lý chung của khán giả thành phố là thích
xem những gì nhẹ nhàng, cho nên các câu chuyện khi mang lên sân khấu cũng
phải hướng đến tiêu chí này. Và để dung hòa giữa các đối tượng người thưởng
thức khác nhau thì kịch tâm lý xã hội pha chút hài hước vui vẻ là một phương
án thích hợp và hiệu quả. Điều này đã sớm được các ông bà bầu show, những
nhà quản lý các sân khấu kịch nhận ra. Vì vậy, kịch mục ở hầu hết các sân khấu
đều có sự hiện diện của thể tài này. Và ở thành phố Hồ Chí Minh, khi nói về
kịch, sẽ thật thiếu sót nếu không nhắc đến các thể nghiệm. Nhạc kịch cho người
80
lớn hay kịch thiếu nhi là biểu hiện cho những thử nghiệm mới này. Nhạc kịch
vốn không xa lạ với thế giới, nhưng ở Việt Nam, đặc biệt là ở thành phố Hồ
Chí Minh thì phải đến khi xã hội hóa diễn ra với sự xuất hiện các sân khấu
ngoài công lập, nó mới chính thức được giới thiệu với khán giả. Nhạc kịch ở
thành phố là một nét khám phá, sáng tạo của các nghệ sỹ. Mở đầu, có thể kể
đến như series “Ngày xửa ngày xưa” của sân khấu Idecaf. Ra đời để phục vụ
cho đối tượng thiếu nhi nên từ cách dàn dựng, chọn lựa kịch bản, diễn xuất
cũng rất khác. Trẻ em thường thích các hoạt động múa hát, nhưng nếu làm cho
thiếu nhi xem mà hình thức như nhạc kịch ở nước ngoài thì chắc chắn sẽ thất
bại. Lứa tuổi các em vẫn còn rất ngây thơ, trong sáng, tư duy cũng không thể
như người lớn, vì vậy, để thu hút được đối tượng này đòi hỏi phải có sự linh
hoạt, sáng tạo cho phù hợp với thực tế. “Ngày xửa ngày xưa” đã làm được điều
này khi xây dựng nên một kiểu “nhạc kịch thiếu nhi”. Ở đó, khán giả nhí vừa
được nghe các nhân vật đối thoại, vừa nghe hát, vừa xem nhảy múa để rồi hòa
mình vào thế giới cổ tích của bà tiên, mụ phù thủy, nàng tiên cá hay thần đèn
v.v Sau mỗi câu chuyện, các bé lại rút ra được những bài học giáo dục ý
nghĩa về đạo đức. Gần hai mươi năm tồn tại, có thể nói thành công của “Ngày
xửa ngày xưa” là một điểm đáng ghi nhận với sự phát triển của kịch thành phố.
Đối với công chúng TP.HCM, đi xem kịch là thói quen, là nhu cầu của
nhiều người, chứ không phải của một nhóm người. Vì thế, nhìn chung, kịch ở
thành phố có tính đại chúng. Điểm quan trọng nhất của tính đại chúng là đại
trà, phổ biến, hướng đến số đông. Người thành phố lúc có thời gian rãnh rỗi
thường thích đi xem hát. Khi cải lương còn ở thời hoàng kim thì việc các rạp
sáng đèn đều đặn mỗi cuối tuần là một chuyện hết sức bình thường. Nay khi
cải lương ít được biểu diễn thì người ta chuyển sang đi xem kịch nói. Và cái họ
muốn xem là những gì nhẹ nhàng, dễ hiểu, vui vẻ. Dù là bi kịch thì cũng phải
ở mức độ vừa phải. Tiếng khóc, tiếng cười phải đan xen vào nhau. Những vấn
81
đề quá to tát, lớn lao sẽ rất khó thuyết phục khán giả đến với vở diễn. Đó là đặc
điểm tâm lý của công chúng phương Nam. Từ thực tế này, các sân khấu kịch
nói thành phố đã có sự điều chỉnh, dàn dựng tác phẩm sao cho phù hợp với gu
của người thưởng thức. Những thủ pháp của văn hóa đại chúng như: bricolage
(lắp ghép), nostalgia (hoài cổ), spectacle (phối hợp), được vận dụng. Chẳng hạn
như ở sân khấu Hoàng Thái Thanh, một số vở kịch thường bắt đầu bằng cuộc
sống hiện tại, sau đó các nhân vật sẽ lần hồi trở về quá khứ với những ký ức
vui buồn, hạnh phúc, đau khổ v.v Trong “Chuyện bây giờ mới kể” bắt đầu
bằng hiện tại, và sau đó ngược dòng thời gian trở về quá khứ qua sự nhớ lại của
nhân vật Út Trong. Nếu xét về thủ pháp sân khấu, đây là cách tái hiện hay gặp.
Nhưng nhìn dưới góc độ văn hóa đại chúng, thì đây lại là hoài cổ (nostalgia).
Nhớ về những gì đã qua là xu hướng cảm thức thường hiện diện trong tâm trí
mỗi người. Đặc biệt, với đối tượng khán giả tuổi trung niên, điều này lại càng
phổ biến hơn. Vận dụng thủ pháp hoài cổ (nostalgia) cũng là một cách làm tính
đến việc khai thác hiệu quả tâm lý người xem, khiến cho họ cảm thấy gần gũi,
đồng điệu. Từ đó, xem kịch sẽ không đơn thuần là thưởng thức tác phẩm. Đó
còn là dịp mà mỗi người có những phút giây lắng đọng, trở về với thời thanh
xuân, tuổi trẻ của mình. Bên cạnh nostalgia (hoài cổ) thì spetacle (phối hợp)
cũng được kịch nói thành phố vận dụng khá nhiều. Phối hợp theo hướng khai
thác của văn hóa đại chúng thì trong một tổng thể sẽ có sự kết hợp của nhiều
hình thức, chiêu trò khác nhau, nhằm tạo nên sức hấp dẫn với người xem. Nếu
bám sát và đi theo khuôn mẫu kịch chính thống thì thủ pháp này sẽ không bao
giờ được áp dụng. Nhưng đối với các sân khấu kịch nói nơi đây, khi thị hiếu
khán giả giữ vai trò quan trọng, người ta lại có thể sử dụng nó mà không cần
phải quá e dè hay lo ngại. Trường hợp sân khấu kịch Thế giới Trẻ hay Idecaf,
Hồng Vân, Kịch Sài Gòn, trong các vở diễn có thể thấy rõ điều này. Những
màn biểu diễn hát, nhảy trẻ trung, sôi động trong “Chuyện tình Bangkok”, “Mỹ
82
nam đại chiến” (Sân khấu Kịch Thế giới Trẻ), “Ngày xửa ngày xưa” (Sân khấu
kịch Idecaf) hoặc cách tạo hiệu ứng âm thanh, ánh sáng gây tò mò nhưng ám
ảnh ở “Người vợ ma” (Sân khấu kịch Hồng Vân), “Cuộc gọi lúc 0 giờ” (Sân
khấu kịch Sài Gòn) đã có một sự lôi cuốn khó cưỡng đối với công chúng thành
phố. Vé bán chạy, tác phẩm diễn nhiều lần, thậm chí có khi vì quá ăn khách lại
được dựng tiếp các phần 2,3 v.v đã cho thấy thủ pháp spectacle (phối hợp)
là phù hợp với môi trường kịch nói ở thành phố. Ngoài ra, nếu ai đã là khán giả
quen thuộc cũng sẽ tìm thấy ở một số vở kịch sử dụng bricolage (lắp ghép).
Thuật ngữ này được các giới nghiên cứu về văn hóa đại chúng lý giải như sự
lắp ghép nhiều chất liệu, yếu tố tương phản với nhau trong một tác phẩm. Tạo
tâm lý bất ngờ, ngạc nhiên chính là mục đích mà thủ pháp này hướng tới. So
với spetacle, nostalgia thì dường như việc vận dụng triển khai bricolage (lắp
ghép) có phần khó hơn, nhất là trong lĩnh vực kịch nói. Bởi lẽ tìm các yếu tố
tương phản đã không dễ dàng, mà còn phải lắp ghép sao cho hai cái đối lập ở
cạnh nhau nhưng vẫn phải hợp lý để chúng tạo ra bất ngờ khiến khán giả xem
cảm thấy thích thú. Ở thành phố HCM, sân khấu Idecaf khá thành công khi tạo
được hiệu ứng từ sự lắp ghép này. Có thể lấy ví dụ như trong vở “Hợp đồng
mãnh thú”, trong lớp diễn lấy bối cảnh là căn phòng tại một khách sạn với một
anh doanh nhân trẻ đi mua vui cùng một cô vũ nữ, hai nhân vật đã có đoạn đối
thoại như sau:
- Nhân vật cô vũ nữ: Sao anh nỡ bóp chết đời con gái của em bằng đôi
bàn tay nuột nà này ư? Ôi, đôi cánh tay của anh dùng để làm gì, sao không dùng
dể giang rộng ra như đôi cánh thiên nga để che chở và bảo bọc đời em?
- Nhân vật anh doanh nhân: Trong giờ phút này mà em lại nói lời của
Shakespeare hả em?
Chỉ với vài câu thoại ngắn gọn đó nhưng lại khiến cả khán phòng vỗ tay
và cười ồ lên bởi nó tạo sự bất ngờ và hài hước cho người xem. Vì hai sự tương
83
phản đã được lắp ghép và đặt cạnh nhau. Những lời văn chương hoa mỹ vốn
phải đặt trong bối cảnh tao nhã, sang trọng, trình bày bởi những người có học
thức thì nay nó lại được phát biểu ở một cô gái làng chơi ở tại một không gian
rất “đời”. Và anh chàng doanh nhân kia dù đang đi tìm kiếm sự hưởng thụ
nhưng cũng kịp nhận ra được những lời lẽ bay bổng đó của cô gái. Và chính
cái tương phản đó làm nên sự bất ngờ cho cả nhân vật, cả khán giả. Một chi tiết
nhỏ nhưng vận dụng dụng khéo léo thủ pháp briclolage (lắp ghép) đã tạo nên
tiếng cười rất duyên, không bị cương, giúp cho lớp diễn trở nên sinh động hơn.
Nó làm người xem cảm thấy thích thú.
Đối với các sân khấu kịch thành phố, từ nội dung đến hình thức thể hiện
cho thấy rất rõ sự phong phú, sáng tạo và cả yếu tố vùng, miền bao hàm trong
đó. Một vùng đất mưa thuận gió hòa quanh năm, một thành phố trẻ đầy năng
động và sáng tạo, cuộc sống dễ dàng, với thiên nhiên và khí hậu thuận lợi dẫn
tới đời sống vật chất và thu nhập của người dân đều ở mức khá so với mức
trung bình trong cả nước. Vì thế, người dân luôn sẵn sàng đón nhận những cái
mới, chấp nhận những sự thử nghiệm. Bên cạnh đó, người thành phố có lối
sống thoáng, cởi mở không thích chắt bóp, để dành mà ngược lại họ có xu
hướng sống và hưởng thụ cho hiện tại, chịu khó chi tiêu cho bản thân đặc biệt
là các nhu cầu giải trí của cá nhân. Đây chính là môi trường thuận lợi để các
sân khấu kịch ra đời và phát triển. Công chúng tìm đến với các giá trị nghệ thuật
một cách thoải mái, tự do để được giải trí, được nghỉ ngơi thư giãn, do vậy mà
không có sự đắn đo trong chi phí cũng như không quá gay gắt trong cách đánh
giá, nhận xét. Họ đi xem kịch vì phần lớn họ yêu quý những diễn viên thần
tượng của mình và cần một nhu cầu chia sẻ, cho đi, trao tặng hơn là đòi hỏi một
điều gì. Điều họ mong muốn không quá cao xa, chỉ đơn thuần là thưởng thức
tác phẩm với chất lượng nghệ thuật ở mức tương đối, tạo được không khí, cảm
xúc nhẹ nhàng, vui vẻ. Nếu làm phép so sánh, chúng ta so sánh sẽ thấy sự khác
84
biệt giữa các vùng miền về cả thể loại cũng như khán giả. Miền Bắc khí không
thuận lợi như Nam Bộ, lại thêm một mùa đông lạnh, nên sân khấu không thể
sáng đèn liên tục. Về kinh tế, người dân lao động để kiếm ra đồng tiền cũng
khó khăn hơn. Do đó, khi bỏ một chi phí ra, họ phải cân đo, đong đếm kỹ lưỡng.
Họ đòi hỏi cao đối với sản phẩm mà mình sẽ thụ hưởng. Thêm vào đó, dấu ấn
còn lại của truyền thống Nho học với những tư tưởng quy củ, bài bản, khuôn
mẫu v.v, tất cả đã tác động và tạo nên tâm lý chỉnh chu, kỹ càng, sâu sắc nơi
khán giả đi xem kịch. Và khi kinh tế thị trường diễn ra, khi tác phẩm nghệ thuật
nhìn ở một góc độ nào đó cũng có thể là sản phẩm tạo nên hiệu quả thương mại
thì công chúng sẽ càng hẫng hơn nếu họ bỏ tiền ra mua vé mà kịch lại không
đúng như ý của mình. Lúc ấy, cảm xúc tổn thương, khó chịu, lên án gay gắt là
trường hợp thường gặp.
Qua một vài chi tiết phân tích như trên, có thể thấy, đời sống văn hóa ở
TP.HCM đã có tác động đến các sân khấu kịch. Cụ thể, trực tiếp nhất chính là
các tác phẩm. Nó làm nên sự khác biệt của kịch thành phố với những nơi khác.
Để có cơ sở củng cố hơn về các nhận định trên, chúng tôi tiếp tục tiến
hành khảo sát khán giả.
Một số lý do khiến khán giả ở thành phố HCM thích đi xem kịch nói, thì
ưu tiên số 1 là do đề tài kịch nói gần gũi với đời sống, với 54.0% ý kiến đồng
ý và tỷ lệ cao nhất 26.0%, điểm trung bình 4.00. Ngoài ra, phong cách, hình
thức thể hiện phù hợp với gu khán giả cũng là lý do thứ 2 khiến khán giả thành
phố thích xem kịch, với 56.5% người đồng ý, điểm trung bình 3.88. Cuối cùng
là thể loại kịch nói đa dạng xếp ở vị trí số 3 trong số những lý do đó.
85
Bảng 2.3: Lý do khán giả ở thành phố thích đi xem kịch nói (tỷ lệ %)
Nội dung
Mức độ đồng ý
1. Rất không đồng ý, 2. Không đồng ý, 3.
Bình thường, 4. Đồng ý, 5. Hoàn toàn đồng
ý
1 2 3 4 5
Trung
bình
Thứ
bậc
1. Đề tài kịch nói gần gũi với
đời sống
2.5 1.5 16.0 54.0 26.0 4.00 1
2. Phong cách, hình thức thể
hiện phù hợp với gu khán giả
2.0 2.0 21.0 56.5 18.5 3.88 2
3. Thể loại kịch nói đa dạng 0.0 5.5 28.0 44.5 22.0 3.83 4
4. Đội ngũ nghệ sỹ phong phú,
đa dạng
0.5 3.5 28.0 49.0 19.0 3.84 3
(Nguồn: kết quả khảo sát của Nghiên cứu sinh)
2.3. Ảnh hưởng của sân khấu kịch nói đối với đời sống văn hóa thành
phố Hồ Chí Minh nhìn từ nhu cầu văn hóa
2.3.1. Sân khấu kịch nói và sự đáp ứng nhu cầu của người dân thành
phố Hồ Chí Minh
Theo Từ điển tiếng Việt, nhu cầu được hiểu là những đòi hỏi tất yếu của
con người. Nhu cầu sẽ bao hàm nhu cầu về vật chất và tinh thần. Ăn, mặc, ở,
đi lại là những nhu cầu vật chất thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh
đó, con người còn có các nhu cầu khác như: đọc sách, xem phim, nghe nhạc,
sáng tác, v.v. Đó là nhu cầu về nhu cầu văn hóa, nhu cầu của thế giới tinh thần.
Nó nảy sinh và phát triển trên cơ sở con người đã được thoả mãn ở một chừng
mực nhất định các nhu cầu cơ bản (ăn, mặc, ở), mặt khác, đó còn là nhu cầu
xuất phát từ nội tâm con người, ở việc hoàn thiện phẩm chất, nâng cao trình độ
thẩm mĩ và văn hoá. Nhu cầu văn hóa gắn bó mật thiết với điều kiện kinh tế -
86
xã hội, đặc điểm tâm lý con người.
Xét về mặt nhu cầu văn hóa, nhìn chung, mặc dù có sự tồn tại khác biệt
nhưng khoảng cách này là không quá lớn. Con người dù nam hay nữ, vị thế xã
hội cao hoặc thấp, sống ở thành thị hay nông thôn, tất cả đều có một hệ thống
nhu cầu văn hóa cơ bản, tương đồng nhau. Sự khác biệt giữa các cá thể hay giữa
các nhóm chỉ là những khác biệt có tính đặc trưng được quy định bởi các đặc
điểm về: mức sống, sở thích, nghề nghiệp, lứa tuổi, vùng miền, tôn giáo, v.v.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay dưới tác động của cơ chế thị trường, sự chênh
lệch lớn giữa các khu vực đã khiến cho nhu cầu văn hóa của người dân đang
dần bị đẩy ra xa nhau hơn, phân hóa mạnh mẽ và sâu sắc hơn. TP.HCM có thể
xem như một trường hợp rất điển hình. Nhu cầu văn hóa của người dân nơi đây
rất cao. Điều đó thể hiện qua mật độ xuất hiện nhiều của các loại hình nghệ
thuật. Cuối mỗi tuần làm việc, họ lại tìm đến những hình thái khác nhau. Có
người chọn cho mình việc tiếp cận văn học qua việc đọc truyện, tiểu thuyết;
người thì đi xem phim; có người lại tìm đến sân khấu kịch để thưởng thức một
vở diễn nào đó, v.v Tựu trung lại đều hướng đến nhu cầu giải trí, thụ hưởng
nghệ thuật.
Nhu cầu giải trí như là sự nghỉ ngơi về tinh thần, chuyển trạng thái hoạt
động của cơ thể từ các hoạt động sinh tồn sang các hoạt động thư giãn về thể
chất, trí tuệ, tâm hồn. Nó phụ thuộc vào thời gian rỗi, phương tiện giải trí và sự
phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ của con người. Đặc trưng của nhu cầu giải
trí là mang đến sự thư giãn, mang tính phổ biến, tính thời thượng, tính đại
chúng. Với công chúng TP.HCM, nhu cầu giải trí chính là một nhu cầu lớn, cơ
bản, là điều không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người dân. Vì vậy, sân
khấu kịch nói ở Thành phố tồn tại và phát triển được tất nhiên không thể bỏ qua
được nhu cầu quan trọng này. Trên thực tế, nhu cầu giải trí của người dân thành
phố đối với sân khấu là một sự tiếp nối từ quá khứ cho đến hiện tại. Sau giải
87
phóng, số lượng người đến rạp để thưởng thức sân khấu chuyên nghiệp vẫn khá
đông đảo. Nhưng lúc này, cải lương vẫn hút được lượng khán giả nhiều hơn.
Sự hoạt động của sân khấu kịch nói thời điểm này vẫn còn là mới mẻ. Tuy
nhiên, việc đài truyền hình dựng và phát sóng nhiều vở kịch trên ti vi đã góp
phần mở rộng phạm vi hoạt động cũng như mang lại sự yêu thích về bộ môn
này cho người thành phố. Vào tối thứ bảy hàng tuần, đài truyền hình thành phố
đều phát sóng một vở diễn và hai tuần một lần vào tối thứ 5, có thêm chương
trình sân khấu kịch vui Trong nhà ngoài phố thu hút sự quan tâm đông đảo của
công chúng. Những tình huống, những lời thoại trong kịch đã trở thành chuyện
kể, thành câu nói cửa miệng của người dân. Ban văn nghệ đài truyền hình đã
chủ động dành khá nhiều tiết mục do đài tự xây dựng tạo nên con số mỗi năm
có hàng chục vở diễn đã được ra mắt khán giả xem đài. Nếu như công chúng
đã vốn quen với các loại hình giải trí có tính cổ điển như cải lương, ca nhạc,
hát múa, v.v thì chính sự xuất hiện của các loại hình kịch vui truyền thanh
và kịch nói truyền hình đã đi vào từng ngõ ngách, từng ngôi nhà để lôi cuốn
một số lượng lớn người xem và hâm mộ nó. Từ đó, thích xem kịch dần dần trở
thành thói quen của người dân ở đây. Theo thời gian, nhu cầu giải trí của người
dân thành phố đối với thể loại kịch nói đã tăng lên và loại hình nghệ thuật này
đã dần dần dành được một lượng công chúng ruột nhất định.
Trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, sự xuất hiện của
nhiều loại hình văn hóa nghệ thuật giải trí do vậy các sân khấu kịch nói riêng
và các loại hình văn hóa nghệ thuật nói chung cũng đứng trước nhiều rủi ro và
nguy cơ mất đi những công chúng riêng của mình. Và để đối phó với vấn đề
này, nhiều nhà hát đã tự tìm đến khán giả bằng nhiều cách trong đó việc xây
dựng các vở hài kịch, lấy tiếng cười của công chúng được xem như là một trong
những cách làm “chiều lòng” khán giả của không ít sân khấu ở TP.HCM. Việc
chiều lòng công chúng thưởng thức nghệ thuật có thể coi là một sự tất yếu trong
88
nền kinh tế thị trường hiện nay. Công chúng trong thị trường đã thay đổi về bản
chất với ý nghĩa trước đây, công chúng chạy theo nghệ thuật, tìm đến nghệ
thuật thì trong kinh tế thị trường, ngược lại, nghệ thuật sân khấu sân khấu phải
tìm mọi cách để tiếp cận công chúng, giành công chúng về phía mình [90, tr.43].
Tuy nhiên, nghệ thuật không phải chỉ chạy theo khán giả để thỏa mãn nhu cầu
của họ mà còn phải hướng dẫn, lôi cuốn khán giả theo mình. Vì vậy tiếng cười
phải có trí tuệ, có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa nhân sinh, nhân bản. Những vở hài
kịch có nội dung giáo dục, gây cười một cá