MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.1
1. Tính cấp thiết của đề tài .1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .2
2.1. Mục đích nghiên cứu .2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.3
2.3. Câu hỏi nghiên cứu .3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .3
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .4
4.1. Phương pháp luận .4
4.2. Phương pháp nghiên cứu .5
5. Đóng góp mới của luận án .6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn .7
7. Kết cấu của luận án .7
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU .8
1.1. Tổng quan nghiên cứu .8
1.1.1. Những nghiên cứu về hoạt động sinh kế nói chung .8
1.1.2. Những nghiên cứu về sinh kế của người Chil .12
1.1.3. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu đã công bố .14
1.2. Cơ sở lý luận.15
1.2.1. Một số khái niệm .15
1.2.2. Cơ sở lý thuyết.20
1.3. Khái quát về huyện Lạc Dương và người Chil tại Khu dự trữ sinh quyển Lang
Biang.23
1.3.1. Tổng quan về huyện Lạc Dương .23
1.3.2. Khái quát về người Chil tại địa bàn nghiên cứu.25
1.3.3. Tổng quan về ba điểm nghiên cứu.31
Tiểu kết chương 1.34Chương 2. SINH KẾ TRUYỀN THỐNG CỦA NGưỜI CHIL.35
2.1. Khai thác rừng.35
2.1.1. Phân loại rừng.35
2.1.2. Quy tắc về khai phá rừng .39
2.1.3. Khai thác các sản phẩm từ rừng .41
2.2. Hoạt động sản xuất nông nghiệp.46
2.2.1. Canh tác nương rẫy.46
2.2.2. Chăn nuôi .52
2.2.3. Nghề thủ công.54
2.2.4. Trao đổi .56
Tiểu kết chương 2.57
Chương 3. SINH KẾ CỦA NGưỜI CHIL HIỆN NAY.58
3.1. Biến đổi trong hoạt động khai thác rừng.59
3.1.1. Biến đổi trong phân loại rừng.59
3.1.2. Biến đổi trong quy tắc khai phá rừng .59
3.1.3. Trồng rừng và bảo vệ rừng .60
3.1.4. Khai thác các sản phẩm từ rừng .68
3.2. Biến đổi trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.73
3.2.1. Biến đổi trong canh tác nương rẫy .73
3.2.2. Biến đổi trong chăn nuôi.82
3.2.3. Biến đổi trong nghề thủ công .88
3.3. Biến đổi trong hình thức trao đổi hàng hóa .95
3.4. Một số hình thức sinh kế mới.97
3.4.1. Các hoạt động phục vụ du lịch cộng đồng.97
3.4.2. Các sinh kế khác.100
Tiểu kết chương 3.106
192 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 471 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Sinh kế của người chil ở khu dự trữ sinh quyển Lang Biang, tỉnh Lâm Đồng: Truyền thống và biến đổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cây. Mục
đích của việc bón lót là giúp cho cây nhanh lớn. Những kỹ thuật cơ bản này, ngƣời
Chil học hỏi từ các nhóm dân tộc khác, nhất là từ ngƣời Kinh, có áp dụng cả những
tri thức khoa học kỹ thuật mới mà họ đƣợc chia sẻ, phổ biến hoặc tự tìm hiểu.
Cây cà phê thƣờng đƣợc trồng vào tháng 7, 8. Sau khi trồng đƣợc khoảng 2-3
tháng, ngƣời Chil bón tiếp phân urê và tiến hành làm cỏ. Khoảng 2-3 năm cà phê
b t đầu cho thu hoạch. Tuy nhiên, giai đoạn cây cho năng suất cao là từ 4-5 năm và
sau đó giảm dần. Hàng năm vào tháng 1, 2 ngƣời Chil tiến hành tỉa cành, bón phân,
tháng 5, 6 cây ra hoa, tháng 7 đến tháng 9 cây kết trái và từ tháng 10 b t đầu thu
hoạch sớm cho đến hết.
Thu hoạch cà phê đƣợc tiến hành thủ công, nghĩa là dùng tay hái. Dụng cụ
thu hoạch là dùng gùi và bao ni lông. Sau khi hái xong, ngƣời Chil tập kết vào cùng
một nơi, sau đó dùng xe máy vận chuyển. Cà phê sau khi thu hoạch đƣợc đem bán
cho những quán tạp hóa mà họ đ mua chịu phân bón đầu mùa. Sau khi cấn trừ còn
dƣ bao nhiêu họ sẽ đƣợc chủ quán trả lại tiền. Những quán thu mua nông sản này đa
số là của ngƣời Kinh.
Vòng quay canh tác cây cà phê trong khoảng 15 - 20 năm, sau đó muốn tiếp
tục thu hoạch ngƣời Chil phải phá đi trồng mới lại hoặc cƣa thân cây để lại khoảng
30 cm và tiếp tục bón phân và chăm sóc. Sau khoảng 2 năm cây tiếp tục cho thu
hoạch. Do quá trình sinh trƣởng của cây cà phê dài nên chỉ cần gieo trồng, làm hàng
rào một lần là có thể khai thác lâu dài.
Nhƣ vậy, so với truyền thống quy trình canh tác nƣơng rẫy hiện nay đ rút
bớt đƣợc rất nhiều công đoạn nhƣng năng suất đƣợc nâng cao, giá trị về kinh tế
cũng cao hơn, giúp cho cuộc sống ngƣời Chil tốt và ổn định hơn nhiều.
76
Về hệ cơ cấu cây trồng
Hiện nay hệ cơ cấu cây trồng của ngƣời Chil có sự thay đổi mạnh mẽ. Trong
truyền thống, trên mỗi đám rẫy ngƣời Chil thƣờng trồng xen canh nhiều loại cây
khác nhau và toàn là những cây ng n ngày. Ngày nay, trên mỗi đám rẫy ngƣời Chil
cũng trồng xen canh nhƣng vừa có cây lâu năm vừa có cây ng n ngày. Thậm chí
nhiều đám rẫy chỉ trồng chuyên canh một loài cây nhất định. Trƣớc kia, b p là cây
chủ lực trong đời sống của ngƣời Chil nhƣng hiện nay cây cà phê mới là cây trồng
chính của ngƣời Chil.
Cây cà phê du nhập vào Lâm Đồng khá sớm ngay từ thời Mỹ - Ngụy. Thời
kỳ đầu, cây cà phê chỉ đƣợc trồng trong các đồn điền ngƣời Pháp có sử dụng sức lao
động của cƣ dân địa phƣơng. Sau giải phóng, nhất là những năm đầu thập niên
1980, giá cà phê tăng mạnh, tạo ra nguồn thu nhập cao hơn rất nhiều so với các loại
cây trồng truyền thống khác. Hơn nữa cây cà phê rất phù hợp với đất đai, thổ
nhƣỡng ở huyện Lạc Dƣơng nên không cần tốn nhiều công chăm sóc. Do đó, nhiều
ngƣời Chil đ chủ động chuyển sang trồng cây cà phê trên rẫy và cho thu nhập khá
cao. Cùng với đó, chính quyền địa phƣơng cũng có chủ trƣơng khuyến khích ngƣời
Chil nói riêng, các cƣ dân địa phƣơng nói chung đang sinh sống trên địa bàn huyện
Lạc Dƣơng chuyển đổi giống cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên của huyện.
Từ đó, tạo nên phong trào trồng cây cà phê rộng kh p cả huyện.
Việc mở rộng diện tích canh tác và cơn sốt giá cà phê trong những thập niên
80, 90 đ làm thay đổi đời sống nhiều hộ gia đình ngƣời Chil. Nó góp phần chuyển
hƣớng nền kinh tế của ngƣời Chil từ tự cung tự cấp trong truyền thống sang sản
xuất hàng hóa, g n chặt với thị trƣờng tiền tệ.
Người Chil trồng cây cà phê là chủ yếu. Người dân được Nhà nước hỗ trợ giống
và kỹ thuật từ những năm 1995. Cà phê thu hoạch mỗi năm một lần. Có những lúc
cà phê được thu mua với giá 20 ngàn/kg. Năm 2014 là 12 ngàn nhưng năm 2015
cà phê bị rớt giá xuống chỉ còn một nữa còn khoàng 7 ngàn. Ở đây người Chil
không có tưới cho cà phê mà chỉ cần mưa thôi là cây cà phê đã đủ nước. Sau khi
thu hoạch, người dân thường bán lại cho các tiệm tạp hóa và tiệm phân bón nơi
77
mà họ thiếu nợ tiền mua hàng. – [PVS Bon Dơng K’Trang, 65 tuổi, Đạ Sar].
Những mùa đầu tiên cà phê cho năng suất rất cao khoảng 5-6 tạ/ha. Sau đó
khoảng vài năm thì năng suất sẽ giảm dần còn khoảng 3-4 tạ. Sau khi thấy năng
suất cây cà phê của mình ngày càng thấp thường là khoảng 15-20 năm nếu ai có
đất nhiều thì sẽ thay giống luân phiên từng sào để bảo đảm thu nhập kinh tế gia
đình do nguồn thu cà phê đem lại. – [PVS Liêng Trăng Ha Srôn, 51 tuổi, Đạ Sar].
Hồng du nhập muộn hơn cà phê, khoảng năm 1995 nhƣng vì nó là giống
cây trồng ít cần công chăm sóc, hiệu quả kinh tế cũng tƣơng đối nên đƣợc ngƣời
Chil ƣa chuộng. Sau thử nghiệm một thời gian, nhận thấy loại cây này có khả năng
chịu đƣợc thời tiết lạnh khá tốt, đặc biệt là sƣơng muối. Hồng cũng hiếm khi bị
các loại sâu bệnh nên phong trào trồng hồng diễn ra trên diện rộng. Hồng thƣờng
đƣợc trồng xen với các loại cây trồng khác nhƣ cà phê nên khi bón phân cho cà
phê, hồng cũng hấp thu đƣợc lƣợng phân này mà không cần bón phân riêng. Hồng
không cần tƣới mà chỉ sống bằng nƣớc mƣa và nƣớc ngầm do rễ cây tự hấp thụ.
Khi hồng trồng đƣợc khoảng 3 năm ngƣời Chil tiến hành c t tán để cây không cao
nhƣng ra đƣợc nhiều cành. Hồng trồng đƣợc 6-7 năm b t đầu cho trái. Trong năm
hồng sẽ có một đợt thay lá vào tháng 3, khi đến tháng 4-5 cây ra hoa và khoảng
tháng 8, 9 thu hoạch.
Trong những năm gần đây, xu thế trông hoa trong nhà kín ở tỉnh Lâm Đồng
nói chung, huyện Lạc Dƣơng nói riêng đang có xu hƣớng gia tăng. Đất trồng hoa
thƣờng phải chọn những nơi tƣơng đối bằng phẳng. Khi trồng, hoa sẽ đƣợc trồng
vào các ổ đất, mỗi ổ đất để vào một ô lƣới (trên mỗi luống thƣờng đƣợc đóng cọc ở
hai đầu và căn lƣới, mỗi luống có chiều dài 150 ô, ngang 8 ô). Mục đích của lƣới là
giúp cây không bị ng . Trƣớc khi trồng công việc đầu tiên là xới đất cho tơi xốp để
dễ thoát nƣớc sau đó bón một lớp phân lân. Khi cây đạt độ cao khoảng 80cm tiến
hành c t đọt để hoa ra nhiều đọt mới và nhiều hoa hơn. Hoa đƣợc tƣới bằng hệ
thống tự động dẫn nƣớc từ suối lên bằng máy bơm. Trong tuần sẽ tƣới hoa hai lần
vào thứ 3, thứ 6 và vào buổi sáng để cây có thời gian hấp thu. Nếu tƣới vào buổi
chiều nƣớc không thấm và bốc hơi kịp sẽ dẫn đến các nấm bệnh. Ngoài hệ thống
78
phun sƣơng, phải l p thêm hệ thống th p đèn tự động vào ban đêm. Hệ thống này tự
bật từ lúc 8 giờ tối và t t vào 2 giờ tối mỗi đêm. Mục đích là giúp sƣởi ấm để hoa ra
đều, to hơn và hạn chế các nấm bệnh. Khi hoa phát triển lƣới dùng cố định hoa cũng
đƣợc kéo lên cao cho phù hợp với chiều cao của hoa. Khi hoa đạt độ cao khoảng
1,2m, tiến hành thu hoạch. Với hai loại hoa cúc vàng và cúc tr ng giá hiện tại đƣợc
công ty Ngọc Mai Trang thu mua với 3 mức giá. Hoa loại 1: 2.000đ/hoa, loại 2 là
1.200đ/hoa và loại 3 là 800đ/hoa. Mỗi cây hoa cho từ 3-4 bông hoa. Sau khi c t, hoa
đƣợc vận chuyển về công ty Ngọc Mai Trang và phân phối.
Mô hình trồng hoa trong nhà kín thƣờng đạt hiệu quả kinh tế cao, ổn định và
phòng tránh đƣợc sâu bệnh, đặc biệt là sƣơng muối. Công ty hoa Ngọc Mai Trang là
đơn vị cung cấp cây giống và bao tiêu sản phẩm nên ngƣời dân không phải lo đầu
ra. Tuy nhiên, Đa Du Ha Brong, (Đạ Sar) cho biết nhƣợc điểm của mô hình này là
vốn lớn, kỹ thuật cao nên rất ít ngƣời Chil đầu tƣ vào lĩnh vực này mà chủ yếu là
ngƣời Kinh “Trên một sào đất canh tác trong một đợt hoa kéo dài 3 tháng trừ đi chi
phí cây giống, điện nước, phân bón có thể lãi từ 10-20 triệu đồng. Hạn chế của mô
hình này là chi phí đầu tư cao, đất trồng phải là đất bằng phẳng để có thể xây nhà
kín, vì nếu đất đồi sẽ không dựng nhà kín được. Ngoài ra thì vốn đầu tư của mô
hình này là khá cao. Nếu diện tích một sào đất thì vốn chi phí đầu tư và khoảng 130
triệu đồng. Vì vậy trên địa bàn ngoài công ty Ngọc Mai Trang thì chỉ có một số hộ
gia đình áp dụng mô hình này”. Trong 669 mẫu tham gia khảo sát chỉ có 10 ngƣời
chiếm tỷ lệ 1,5% trả lời có trồng hoa. Mặc dù tỷ lệ nhỏ nhƣng cho thấy sự biến đổi
trong nhận thức của ngƣời Chil trong quá trình thích ứng với xu thế chung của tỉnh
là phát triển bền vững thân thiện với môi trƣờng theo hƣớng ứng dụng công nghệ
cao vào sản xuất.
Ngoài các cây trồng kể trên ngƣời Chil còn trồng b p, khoai, s n, rau củ,...
phục vụ nhu cầu hằng ngày, nếu có dƣ đem bán để tăng thêm thu nhập.
Về kỹ thuật canh tác
Trong truyền thống, kỹ thuật canh tác của ngƣời Chil rất thô sơ, thƣờng chọc
lỗ bỏ hạt không dùng phân bón, nhƣng nay để trồng cây ngƣời Chil phải đào hố,
79
cuốc xới, bón phân để tránh bị rữa trôi và giữ ẩm vào mùa khô cũng nhƣ tăng độ
màu cho đất. Tùy mỗi loại cây mà áp dụng kỹ thuật canh tác khác nhau.
Để trồng cây cà phê, hồng ngƣời Chil phải đào hố, bón phân theo từng chu
kỳ. Ví dụ, đối với cây cà phê thƣờng sẽ bón một năm 3 đợt: Đợt đầu là bón phân
Urê khi cây ra hoa ; đợt hai, bón phân NPK khi cây kết trái ; đợt 3, bón phân NPK
trƣớc khi thu hoạch.
Đối với trồng hoa trong nhà kín đòi hỏi kỹ thuật phức tạp hơn. Đầu tiên phải
dựng hệ thống giàn giáo, khung sƣờn của nhà kín đƣợc làm bằng tre. Dƣới những
thân cột đƣợc đổ bê tông nhằm cố định chống đổ ng . Bên trên đƣợc lợp bằng
nilông hai lớp. Xung quanh đƣợc bọc bằng nilong 1 lớp và lƣới lỗ nhỏ (nửa phía
trên là nilông, nửa phía dƣới là lƣới). Lƣới lỗ nhỏ có mục đích để không khí lọt vào
đƣợc bên trong. Công cụ để dựng nhà kín là dùng cƣa để c t và cuốc để đào.
Kỹ thuật canh tác trong truyền thống thƣờng là dựa vào kinh nghiệm, tri thức
địa phƣơng của ngƣời đi trƣớc truyền lại cho thế hệ sau. Hiện nay, kỹ thuật canh tác
đƣợc Nhà nƣớc hỗ trợ trên cơ sở khoa học nên năng suất cây trồng không ngừng
đƣợc nâng cao. Mỗi hộ gia đình đƣợc chính quyền phát cho cuốn sổ tay về kỹ thuật
gieo trồng và chăm sóc các loại cây trồng. Ngoài ra, họ còn đƣợc cán bộ khuyến
nông cho đi học tập, tham quan các mô hình làm ăn hiệu quả, để học hỏi thêm
kinh nghiệm. Bên cạnh đó, ngƣời Chil còn đƣợc nghe hƣớng dẫn kỹ thuật canh tác
qua hệ thống truyền thanh, truyền hình của tỉnh, huyện,
Có thể nói, so với truyền thống kỹ thuật canh tác hiện nay của ngƣời Chil đ
có sự biến đổi rõ rệt. Trƣớc kia, kỹ thuật trồng trọt đƣợc lƣu truyền qua duy nhất
một kênh là truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày nay, ngƣời Chil đ
ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt qua nhiều kênh nhƣ tập huấn,
cán bộ hƣớng dẫn, xem ti vi, đài phát thanh, sách vỡ,
Về dụng cụ sản xuất
Trong truyền thống, ngƣời Chil sử dụng công cụ sản xuất đƣợc làm từ các
loại cây trong rừng nên khá thô sơ nhƣ rìu, xà gạc, gậy chộc lỗ, gùi,... và do ngƣời
Chil tự làm lấy. Hiện nay, những dụng cụ sử dụng trong sản xuất của ngƣời Chil về
80
cơ bản vẫn không thay đổi nhiều nhƣng họ không còn tự làm lấy mà mua ở các cửa
tiệm, hàng tạp hóa. Ngoài ra, các dụng cụ sản xuất hiện đại nhƣ: máy cày, máy bơm
nƣớc, máy bóc vỏ cà phê,... vẫn xuất hiện trong những gia đình ngƣời Chil khá giả.
Trƣớc kia để vận chuyển lƣơng thực ngƣời Chil tự mình gùi thì này họ sử dụng xe
máy thay cho sức ngƣời. Tuy nhiên số lƣợng này không nhiều, một phần do điều
kiện kinh tế của ngƣời Chil chƣa thật sự tốt, một phần do điều kiện địa hình không
thuận lợi. Do đó, ngƣời Chil hiện nay vẫn sử dụng các công cụ sản xuất thô sơ nhƣ
xà gạc, kéo, cƣa, cuốc,... “Tất cả các quá trình từ chọn giống, sản xuất, thu hoạch,
phân phối (bán ra) đều sử dụng hình thức phi cơ giới không có bất kỳ loại máy móc
gì để hỗ trợ, toàn bộ bằng sức người và những công cụ thô sơ vì điều kiện kinh tế
không cho phép mua những máy móc hỗ trợ như máy bơm nước”, Liêng Trăng
Ha Srôn (51 tuổi, Đạ Sar) cho biết.
Nhƣ vậy, so với trong truyền thống thì công cụ sản xuất hiện này cơ bản
không biến đổi nhiều. Tuy nhiên, ngày nay thay vì tự làm họ có thể mua các dụng
cụ này ngoài chợ hay tiệm tạp hóa. Các công cụ phi cơ giới đƣợc ngƣời Chil sử
dụng trong sản xuất nông nghiệp không nhiều một phần vì điều kiện kinh tế, một
phần là do địa hình nơi họ sinh sống, sản xuất không thuận lợi.
Các nghi lễ
Trong truyền thống hoạt động sinh kế của ngƣời Chil phụ thuộc hoàn toàn
vào điều kiện tự nhiên nên gặp rất nhiều khó khăn. Do đó, họ có rất nhiều nghi lễ
liên quan đến các hoạt động sinh kế với niềm tin cầu xin các vị thần che chở, ban
cho mƣa thuận gió hòa, mùa màng tốt tƣơi, gia đình, cộng đồng sức khỏe, bình an.
Hiện nay, các hoạt động sinh kế của ngƣời Chil đ có nhiều thay đổi nên các nghi lễ
cũng có nhiều thay đổi so với truyền thống.
Hiện nay, ngƣời Chil ở Khu dự trữ sinh quyển Lang Biang chỉ còn lễ hội
mừng lúa mới và bỏ mã là lễ hội có quy mô lớn nhất, mang tính cộng đồng cao. Tuy
nhiên, hiện nay nghi lễ này cũng có nhiều thay đổi so với truyền thống. Trƣớc đây,
lễ hội vốn là một sinh hoạt văn hóa, tín ngƣỡng độc đáo của ngƣời Chil. Ngoài ra,
do cuộc sống du canh du cƣ cùng với hoạt động sinh kế nƣơng rẫy truyền thống,
81
việc canh tác hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Phƣơng thức canh tác
nƣơng rẫy đƣợc thực hiện theo một chu kì khép kín từ chọn đất làm rẫy, phát rẫy,
đốt rẫy, dọn rẫy, gieo hạt, làm cỏ, thu hoạch. Mỗi công đoạn nhƣ vậy cũng nhƣ
trong suốt chu kì phát triển của cây lúa, họ đều tổ chức các nghi lễ với mục đích
cúng các thần (Yàng) để mong đƣợc phù hộ, đặc biệt là Yàng Còi (thần lúa). Ngày
nay, do định canh định cƣ, để thích ứng với cuộc sống mới ngƣời Chil từng bƣớc
tiếp thu khoa học, kĩ thuật hiện đại trong sản xuất nông nghiệp, đi đôi với việc
chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi cùng với phƣơng thức canh tác mới. Mặt khác,
hiện nay thay vì canh tác lúa rẫy, họ đ chuyển sang chuyên canh các loại cây công
nghiệp nhƣ cà phê, hồng, hoa, rau,. Vì thế các lễ nghi nông nghiệp theo chu kì
phát triển của cây lúa cũng không còn. Một số nghi lễ nhƣ cúng thần núi, thần lửa,
thần rừng, thần mƣa cũng theo đó mà biến mất, kéo theo sự mai một của lễ hội.
Ngoài ra, sự xuất hiện của các tôn giáo nhƣ Phật giáo, Công giáo, Tin Lành
cũng đ ảnh hƣởng đến đời sống văn hóa truyền thống của ngƣời Chil. Các tôn giáo
nhất thần đ làm cho vai trò của các vị thần truyền thống cũng nhƣ các quan niệm
“vạn vật hữu linh” ngày càng mờ nhạt. Việc từ bỏ tín ngƣỡng đa thần theo tín
ngƣỡng nhất thần đ giảm bớt sự trói buộc vào các lực lƣợng siêu nhiên và tổ chức
các nghi lễ rƣờm rà, tốn kém của họ. Đây cũng là nguyên nhân chính làm mai một
đi các nghi lễ, lễ hội. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển của kinh tế xã hội,
đƣợc tiếp xúc với các yếu tố văn hóa mới, đƣợc học tập và tiếp cận với cuộc sống
hiện đại thông qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ đài báo, internet, Sự
tiếp biến văn hóa của các dân tộc cộng cƣ bên cạnh cũng đ làm thay đổi lớn trong
nhận thức của ngƣời Chil. Đa số họ đ quen dần với lối sống mới, đặc biệt là giới
trẻ, nhiều giá trị văn hóa truyền thống đ trở nên xa lạ với họ. Một số giá trị văn hóa
vẫn còn tồn tại nhƣng không thực sự bền vững trong cuộc sống hiện tại. “Thời cha
mẹ thì còn có cúng các thần chứ bữa nay hết rồi. Bữa nay chỉ có làm lễ ở nhà thờ
thôi, không cúng kiếng gì hết” – [PVS K’Doang, 50 tuổi, TT Lạc Dƣơng].
Nhƣ vậy, kết quả khảo sát điền dã cho thấy, hoạt động sinh kế sản xuất hiện
nay của ngƣời Chil có rất nhiều biến đổi. Thứ nhất, chuyển từ canh tác nƣơng rẫy
82
du canh du cƣ sang định canh định cƣ. Thứ hai, trƣớc kia b p là cây chủ lực thì nay
cà phê mới là cây trồng chính. Thứ ba, mục tiêu của sản xuất nông nghiệp hiện nay
là chuyển từ tự cung tự cấp trong truyền thống sang phục vụ sản xuất hàng hóa với
100% sản phẩm đƣợc bán ra thị trƣờng để lấy tiền và dùng tiền để mua lại các sản
phẩm phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống. Thứ tƣ, cách thức tiếp cận kỹ thuật
chuyển từ truyền miệng trong cộng đồng sang quan sát cách làm của ngƣời nơi khác
chuyển đến, hoặc qua sách báo, từ cán bộ khuyến nông thông qua các lớp tập huấn,
tham quan,....
3.2.2. Biến đổi trong chăn nuôi
Do dân số tăng lên, diện tích rừng giảm dần, đồng cỏ ngày càng khan hiếm
nên chăn nuôi gia súc lớn theo lối truyền thống trƣớc đây mất dần điều kiện tồn tại.
Kỹ thuật chăn nuôi đang trong quá trình chuyển đổi từ thả rông sang thả rông nữa
chăm sóc và nhốt chuồng có chăm sóc, từ giống cũ địa phƣơng sang giống mới
ngoại nhập. Tuy nhiên, cũng nhƣ trong truyền thống, chăn nuôi vẫn đƣợc tiếp tục
duy trì và phát triển. Chăn nuôi cung cấp nguồn thực phẩm, phục vụ các dịp lễ tết,
tụ họp bạn bè,... Thỉnh thoảng, nếu cần họ vẫn có thể mang ra chợ bán để lấy tiền
trang trải cuộc sống, mua s m các vật dụng cần thiết. Nhƣng hiện nay, quy mô chăn
nuôi của ngƣời Chil vẫn mang tính nhỏ lẻ, manh múm trong phạm vi gia đình. Khảo
sát 669 hộ gia đình ngƣời Chil về hoạt động chăn nuôi cho kết quả nhƣ sau:
Bảng 3.7: Hoạt đ ng chăn nuôi của h gia đình
Trả lời Số ngƣời (N) Phần trăm (%)
Có 402 60.1
Không 267 39.9
Tổng 669 100.0
Nguồn: Đề tài NCKTVHXH.
Ở bảng trên cho thấy, có 402 hộ trả lời có chăn nuôi, chiếm 60,1%. Theo đó,
những hộ sống ở vùng lõi có tỷ lệ chăn nuôi là 46,5%, vùng đệm là 64,3% và vùng
chuyển tiếp là 84,7%.
83
Bảng 3.8: Hoạt đ ng chăn nuôi của h gia đình theo vị trí nhà
Vị trí nhà ở trong khu dự trữ sinh quyển
Tổng Vùng lõi Vùng đệm vùng chuyển tiếp
Có N 133 175 94 402
% 46.5% 64.3% 84.7% 60.1%
Không N 153 97 17 267
% 53.5% 35.7% 15.3% 39.9%
Tổng N 286 272 111 669
% 100.0% 100.0% 100.0% 100.0%
Nguồn: Đề tài NCKTVHXH.
Qua đây cho thấy, có sự khác nhau về tỷ lệ chăn nuôi theo vị trí nhà ở của
các hộ ngƣời Chil. Theo chúng tôi có sự chênh này là vì những gia đình ngƣời Chil
sống ở vùng l i và vùng đệm đa số là làm nƣơng rẫy và đi rừng nên không có thời
gian chăm sóc, trông coi vật nuôi, hơn nữa họ chăn nuôi mục đích chủ yếu là phục
vụ nhu cầu trong gia đình. Điều này đƣợc minh chừng khi đa số những phụ nữ
ngƣời Chil mà chúng tôi phỏng vấn đều cho rằng, chăn nuôi chỉ nhằm mục đích lấy
thịt. Ngoài ra theo họ, đây cũng là hình thức tận dụng thời gian nhàn rỗi, thức ăn
thừa đồng thời tạo phân bón nhằm cải tạo đất. Những hộ ngƣời Chil sống ở vùng
chuyển tiếp, làm các nghề phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ tƣơng đối lớn nên có thời
gian chăn nuôi. Hơn nữa, sự giao thƣơng ở vùng chuyển tiếp cũng dễ dàng hơn nên
những hộ gia đình ngƣời Chil ở đây thƣờng chăn nuôi để bán lấy tiền mua nhu yếu
phẩm và những vật dụng cần thiết. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, giá trâu bò
tăng cao nên ngƣời Chil chăn nuôi ngày càng nhiều.
Về vật nuôi: Cũng nhƣ trong truyền thống, những con vật thƣờng đƣợc ngƣời
Chil nuôi gồm có trâu, bò, lợn, gà, vịt. Hầu hết các giống vật nuôi của ngƣời Chil là
giống địa phƣơng dù kinh tế không cao nhƣng những loại này có sức đề kháng tốt,
không phải chăm sóc nhiều.
Lợn ngƣời Chil nuôi là giống lợn đen, mang nhiều đặc điểm và tập tính của
lợn rừng nhƣ nhiều nạc, chân dài, da dày, chạy nhanh, khả năng thích nghi cao
nhƣng chậm lớn, trọng lƣợng tối đa của loài lợn này là khoảng 60-70 kg, dài khoảng
84
80cm. Giống lợn này có đặc tính là nếu nhốt nó ở trong chuồng sẽ không mập
nhƣng để cho nó lang thang tự kiếm ăn (có khi là cây cỏ ở đƣờng đi hay thức ăn
thừa ở nhà ngƣời khác đổ) thì nó sẽ lớn nhanh và mập hơn. Chính vì đặc tính lợn
nhƣ vậy nên ngƣời Chil chăn nuôi lợn theo phƣơng thức thả rong có chăm sóc. Ban
ngày lợn tự đi kiếm ăn. Buổi sáng sớm hay buổi chiều chúng quần tụ dƣới gầm sàn
nhà để ăn cám hay tấm thừa do phụ nữ làm gạo h t xuống. Ngƣời Chil thƣờng cho
lợn ăn vào những khoảng giờ nhất định (8 giờ sáng, 4 giờ chiều) để lợn quen nếp trở
về nhà đúng giờ tránh bị lạc. Riêng lợn nái mới đẻ đƣợc phụ nữ nấu cám từ gạo và
rau rừng hay thân cây chuối cho ăn. Thời gian nuôi cũng khá dài từ 6 tháng đến một
năm. Ngƣời Chil chỉ mổ lợn trong những dịp quan trọng nhƣ nhà có lễ cƣới, dịp
Noel,... Khi đƣợc hỏi vì sao không nuôi giống lợn tr ng, ngƣời Chil cho biết, do
nuôi lợn tr ng phải làm chuồng, chăm sóc kỹ nếu không lợn sẽ chết vì không chịu
đƣợc lạnh, sức khỏe yếu còn lợn đen sức đề kháng tốt nên ít bị bệnh, hơn nữa nuôi
lợn đen sẽ tận dụng đƣợc rau cỏ quanh nhà, nó rất dễ ăn không tốn công chăm sóc.
Do là giống lợn thả rong nên thịt nó rất ngon ít mỡ và dai.
Hiện nay, cũng có một số ngƣời Chil chuyển sang nuôi lợn giống ngoại nhập
cho năng suất cao. Nhƣng nhìn chung, ngƣời Chil ở đây vẫn thích nuôi lợn giống
địa phƣơng vì nó sức đề kháng tốt, ít bị dịch bệnh, đỡ công chăm sóc, không phải
làm chuồng trại. Hơn nữa giống lợn địa phƣơng đ g n bó với bao thế hệ ngƣời dân
nơi đây nên nó cũng trở nên thân thuộc. Đối với giống heo địa phƣơng nó tự phối
giống và sinh sản không cần sự can thiệp của con ngƣời.
Trƣớc kia ngƣời Chil thƣờng nuôi bò cỏ nhƣng thời gian gần đây, khi đƣợc
cán bộ khuyến nông hƣớng dẫn kỹ thuật, ngƣời Chil b t đầu có xu hƣớng chuyển
sang nuôi bò lai cho năng suất cao hơn. Bò cỏ trƣởng thành cao khoảng 1m2- 1m3,
bò lai thì cao khoảng 1m5- 1m6. Để giữ ấm phòng bệnh, ngƣời Chil làm chuồng
cho bò nhƣng ban ngày vẫn dẫn bò ra đồng cho ăn cỏ, đến chiều thì dẫn về. Bò nuôi
khoảng hơn năm có thể bán. Cũng nhƣ lợn, bò ở đây đƣợc phối giống tự nhiên.
Bên cạnh chăn nuôi trâu, bò, lợn thì hầu nhƣ nhà nào cũng có nuôi gà. Số
lƣợng từ vài con đến vài chục con/nhà. Cũng nhƣ lợn, gà ở ngƣời Chil là giống gà
85
địa phƣơng, mang những đặc điểm và tập tính của gà rừng: nhỏ con, ít mỡ, chậm
lớn và bay cao. Ban ngày, gà tự kiếm ăn trong làng, buổi tối chúng ngủ dƣới gầm
sàn hay trên các cành cây. Gần đây ngƣời Chil cũng b t đầu có xu hƣớng làm
chuồng cho gà ngủ vào ban đêm để tránh mất trộm. Gà đƣợc nuôi để lấy trứng hay
làm quà biếu, dùng vào các dịp lễ, tiếp khách mà ít khi đƣợc đem bán hay trao đổi.
Ngoài ra, mỗi gia đình ngƣời Chil đều nuôi chó. Chó là ngƣời bạn thân thích
trong cuộc sống hàng ngày của con. Theo tập quán, ngƣời Chil không ăn thịt chó,
không phải vì kiêng kỵ mà vì coi chó là ngƣời bạn thân thiết của ngƣời, một quan
niệm phổ biến ở nhiều cƣ dân nói ngôn ngữ Môn Khơ me dọc Trƣờng Sơn Tây
Nguyên.
Về kỹ thuật chăn nuôi: Do quy mô chăn nuôi nhỏ nên ngƣời Chil cũng ít
quan tâm đến việc làm chuồng trại mà chủ yếu nuôi theo hình thức thả rông, hoặc
vừa kết hợp thả rông vừa làm chuồng. Quy mô chăn nuôi còn nhỏ lẻ, khép kín trong
hộ gia đình, phục vụ nhu cầu đời sống. Hầu nhƣ ở ngƣời Chil chƣa có chăn nuôi
quy mô hàng hóa, chƣa tạo bầy theo quy trình và đầu ra đƣợc lên kế hoạch trƣớc.
Việc chăn nuôi vẫn còn mang tự phát thiếu tính ổn định.
Bảng 3.9: Kỹ thuật đƣợc sử dụng trong chăn nuôi
Hình thức chăn nuôi Ngƣời Phần trăm (%)
Thả rong 154 38,4
Nuôi chuồng 91 22,7
Cả thả rông và nuôi chuồng 152 37,9
Nuôi trong ao/ vuông/ lồng bè 5 1,0
Tổng 402 100,0
Nguồn: Đề tài NCKTVHXH.
Qua bảng trên cho thấy, tỷ lệ sử dụng kỹ thuật thả rong và thả rong kết
hợp nuôi chuồng trong chăn nuôi của ngƣời Chil chiếm tỷ lệ tƣơng đối bằng
nhau và cũng khá cao. Ngoài hai kỹ thuật trên thì cũng có đến 22,7% ngƣời Chil
chăn nuôi chuồng. Điều này chứng tỏ đ có sự biến đổi về kỹ thuật trong chăn
nuôi của ngƣời Chil.
86
Trâu bò trƣớc kia đƣợc thả trong rừng ở b i chăn thả chung của làng, tự đi
kiếm ăn, thỉnh thoảng ngƣời Chil mới lên thăm hoặc khi cần mới lên lùa trâu về thì
nay do diện tích rừng giảm, đồng cỏ khan hiếm nên khi chăn thả trâu bò cần có
ngƣời coi sóc kẻo trâu bò ăn lúa, b p, hoa màu của ngƣời dân. “Nhà mình có nuôi
mười mấy con bò nhưng mới bán vì không có người chăn. Nếu thả cho nó đi ăn tự
do nó ăn lúa, bắp, hoa màu của người ta mình đền không nổi”. [PVS Mi Sa, 35
tuổi, TT Lạc Dƣơng]
Liêng Hót KWăn (38 tuổi, Đạ Sar) cho biết, đối với những hộ chăn nuôi nhỏ
lẻ thƣờng mang trâu bò lên rừng thả, cho ăn cỏ chứ không nuôi nhốt vì không có
điều kiện làm chuồng trại hay cung cấp thức ăn. Trâu bò đƣợc đƣa lên rừng, đƣợc
cột lại tại một vị trí nhất định, “trung bình vài ngày đến một tuần sẽ lên thăm một
lần. Khi đi khoảng 1-2 ngày, do phải đi xa, nên chồng chị phải mang theo gạo để
nấu cơm. Đặc biệt, mỗi lần đi sẽ ngủ ở nhà di động, tức là ngôi nhà được dựng
bằng cây rừng dùng nhánh cây để lót. Đi đến đâu dựng nhà để ngủ đến đó. Khi bán,
trâu bò được bán cả con chứ không cần xẻ thịt. Giá cả sẽ tùy thuộc vào thương
lượng giữa bên mua và bên bán”. Bên cạnh những hộ đƣa trâu bò lên thả trên rừng
thì cũng có một số hộ làm chuồng để nhốt khi đêm xuống. Chuồng nhốt trâu bò
đƣợc làm xa nhà, thƣờng là làm trên rẫy để có ngƣời trông coi, chăn d t. Cũng nhƣ
chuồng lợn, kỹ thuận làm chuồng bò cũng rất thô sơ. Thƣờng thì chuồng bò đƣợc
ghép từ các tấm gỗ thành khối hình vuông bên trên có mái che.
Theo tri thức địa phƣơng, trong quá trình nuôi bò, lâu ngày bò vẫn ốm mà
không mập lên đƣợc thì hàng ngày sáng và chiều dùng muối pha loãng với nƣớc
cho bò uống. Nếu bò bị đau bụng hay tiêu chảy thì tìm lá cây Đăng (cây Harl) cho
bò ăn. Bò nuôi đƣợc khoảng 1 năm rƣỡi thì có thể giết thịt.
Cũng nhƣ bò, chăn nuôi lợn đang trong quá trình chuyển đổi từ thả rông sang
nửa thả rong nửa chăm sóc và nhốt chuồng. Một số ngƣời Chil ở thị trấn Lạc Dƣơng
nuôi lợn theo hình thức vừ