Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục phụ lục
MỞ ĐẦU .1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT NGHIÊN CỨU.7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu .7
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu.19
KẾT LUẬN CHưƠNG 1 .21
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
VỤ VIỆC HẠN CHẾ CẠNH TRANH .22
2.1. Những vấn đề lý luận về thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh .22
2.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế
cạnh tranh.49
KẾT LUẬN CHưƠNG 2 .65
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ
VIỆC HẠN CHẾ CẠNH TRANH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY .66
3.1. Thực trạng các quy định pháp luật về chủ thể tiến hành và tham gia thủ
tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh và thực tiễn áp dụng .66
3.2. Thực trạng các quy định pháp luật trong giai đoạn tiếp nhận, đánh giá
các thông tin, khiếu nại làm cơ sở pháp lý cho việc điều tra vụ việc hạn chế
cạnh tranh và thực tiễn áp dụng .81
3.3. Thực trạng các quy định pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ việc hạn
chế cạnh tranh và thực tiễn áp dụng .92
3.4. Thực trạng các quy định pháp luật trong giai đoạn xử lý vụ việc hạn
chế cạnh tranh và thực tiễn áp dụng .112
174 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 373 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thủ tục giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trƣớc pháp luật về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình; 5) Tham gia PĐT; 6) Thực hiện các biện
pháp nghiệp vụ điều tra trong quá trình điều tra phù hợp với quy định của
pháp luật; 7) Kiến nghị Thủ trƣởng Cơ quan điều tra VVCT quyết định
gia hạn, đình chỉ và kết luận điều tra VVCT, trƣng cầu giám định, thay
đổi ngƣời giám định, ngƣời phiên dịch trong quá trình điều tra; 8) Báo
cáo để Thủ trƣởng Cơ quan điều tra VVCT kiến nghị Chủ tịch UBCTQG
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm
xử lý vi phạm hành chính trong quá trình điều tra.
+ Theo quy định tại Điều 64 Luật Cạnh tranh (2018) thì vai trò, nhiệm vụ,
quyền hạn của Thƣ ký PĐT khi tham gia thủ tục giải quyết vụ việc HCCT không có
gì thay đổi so với Luật Cạnh tranh (2004).
Về trách nhiệm của ngƣời tiến hành TTCT trong việc tuân thủ các quy định
pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
trong quá trình tiến hành TTCT, Khoản 3 Điều 56 Luật Cạnh tranh (2004) quy định:
“Trong quá trình tiến hành TTCT, điều tra viên, Thủ trưởng cơ quan QLCT, thành
viên HĐCT trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải giữ bí mật kinh
doanh của doanh nghiệp, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
liên quan”. Điều 54 Luật Cạnh tranh (2018) cũng quy định: Cơ quan tiến hành
TTCT; ngƣời tiến hành TTCT; ngƣời tham gia TTCT trong phạm vi trách nhiệm,
quyền hạn của mình, phải giữ bí mật về thông tin liên quan tới VVCT, bí mật kinh
doanh của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, đồng thời tôn trọng quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân liên quan.
Cũng cần lƣu ý rằng, theo quy định của Luật Cạnh tranh (2018), các quyết
định liên quan đến việc giải quyết VVCT do Chủ tịch UBCTQG, Hội đồng xử lý
VVCT ban hành cũng là đối tƣợng bị khiếu nại, khởi kiện ra Toà án. Đồng thời, để
đảm bảo sự khách quan, vô tƣ của ngƣời tiến hành TTCT, pháp luật còn quy định
những trƣờng hợp mà ngƣời tiến hành tố tụng là thành viên Hội đồng xử lý vụ việc
HCCT, điều tra viên VVCT, thƣ ký PĐT phải từ chối hoặc bị thay đổi khi họ là
76
ngƣời thân thích với bên bị điều tra hoặc bên khiếu nại hoặc ngƣời có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến VVCT hoặc có căn cứ rõ ràng cho rằng họ không khách
quan khi làm nhiệm vụ (Điều 65 Luật Cạnh tranh (2018)). Quy định hoàn toàn phù
hợp với quy định của pháp luật cạnh tranh các nƣớc trên thế giới và cũng khá phổ
biến trong các hình thức tố tụng khác (hình sự, hành chính, dân sự...).
Đánh giá về các quy định liên quan tới cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng và ngƣời tiến hành tố tụng trong quá trình
giải quyết vụ việc HCCT theo pháp luật cạnh tranh hiện nay, tác giả Luận án có một
số nhận xét nhƣ sau:
+ Cơ quan cạnh tranh là cơ quan hành chính bán tƣ pháp. Tính chất "bán tƣ
pháp" đƣợc thể hiện ở chức năng điều tra, xử lý VVCT theo một trình tự, thủ tục
chặt chẽ và điều này về cơ bản đã đƣợc thể hiện trong Luật Cạnh tranh (2018).
+ Việc xây dựng UBCTQG thuộc Bộ Công Thƣơng đƣợc thực hiện trên cơ
sở tái cơ cấu hai cơ quan hiện hành, gồm Cục QLCT và HĐCT theo hƣớng sáp
nhập thành một cơ quan duy nhất, mà không phải là xây dựng một cơ quan hoàn
toàn mới. Bên cạnh chức năng quản lý Nhà nƣớc về cạnh tranh, chức năng chính
của UBCTQG là tổ chức điều tra và tiến hành TTCT để xử lý, giải quyết VVCT
trong đó có vụ việc HCCT. Với chức năng chính là tổ chức điều tra và xử lý các vụ
việc HCCT, UBCTQG cần phải độc lập, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật khi
thực hiện chức năng của mình [58, tr. 45-48]. Nhƣ vậy, mặc dù Luật Cạnh tranh
(2018) đã quy định UBCTQG thuộc Bộ Công Thƣơng, nhƣng về lâu dài việc xây
dựng một cơ quan cạnh tranh thuộc Chính phủ vẫn là phƣơng án tối ƣu nhất để đảm
bảo sự độc lập và tính hiệu quả trong hoạt động của cơ quan này.
+ Luật Cạnh tranh (2004) không quy định cụ thể về thành phần, cơ cấu của
HĐCT mà chỉ đƣa ra các tiêu chuẩn cụ thể để bổ nhiệm thành viên HĐCT. Trong
quá trình thực thi thời gian qua, việc đề nghị và bổ nhiệm các thành viên HĐCT hầu
hết là các cán bộ lãnh đạo, công chức kiêm nhiệm từ các Bộ, ngành khác nhau dẫn
đến một số khó khăn trong việc giải quyết vụ việc HCCT. Hạn chế này nên đƣợc
khắc phục trong Luật Cạnh tranh (2018) bằng cách quy định cụ thể vào nội dung
văn bản hƣớng dẫn thi hành về số lƣợng các thành viên hoạt động chuyên trách
(không kiêm nhiệm) để đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của UBCTQG.
3.1.3. Người tham gia tố tụng cạnh tranh
Theo quy định của Luật Cạnh tranh (2004) thì ngƣời tham gia TTCT gồm có:
Bên khiếu nại; bên bị điều tra; luật sƣ; ngƣời làm chứng; ngƣời giám định; ngƣời
phiên dịch; ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Luật Cạnh tranh (2018) bổ sung
77
thêm một loại chủ thể là “bên bị khiếu nại” và thay thế vai trò của “luật sƣ” bằng
“ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại” khi tham gia TTCT.
Theo nội dung của Điều 65 Luật Cạnh tranh (2004) và Điều 66 Luật Cạnh
tranh (2018) thì:
+ Bên khiếu nại là tổ chức, cá nhân có hồ sơ khiếu nại hợp pháp đƣợc
UBCTQG tiếp nhận, xem xét để điều tra theo quy định của Luật Cạnh tranh.
+ Bên bị khiếu nại là tổ chức, cá nhân bị khiếu nại về hành vi vi phạm pháp
luật về cạnh tranh.
+ Bên bị điều tra là tổ chức, cá nhân bị UBCTQG quyết định tiến hành điều
tra trong trƣờng hợp thỏa mãn những căn cứ mà Luật Cạnh tranh quy định.
Khi tham gia thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, bên khiếu nại, bên bị điều tra
đều có các quyền:
1) Tham gia vào các giai đoạn trong quá trình TTCT; 2) Đƣa ra
thông tin, tài liệu, đồ vật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; 3)
Đƣợc biết về thông tin, tài liệu, đồ vật mà bên khiếu nại hoặc Cơ quan
điều tra VVCT đƣa ra; 4) Đƣợc nghiên cứu tài liệu trong hồ sơ VVCT và
đƣợc ghi chép, sao chụp tài liệu cần thiết có trong hồ sơ VVCT để thực
hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trừ tài liệu, chứng cứ
không đƣợc công khai theo quy định của pháp luật; 5) Tham gia và trình
bày ý kiến tại PĐT; 6) Đề nghị triệu tập ngƣời làm chứng; 7) Đề nghị
trƣng cầu giám định; 8) Kiến nghị thay đổi ngƣời tiến hành TTCT, ngƣời
tham gia TTCT; 9) Ủy quyền cho ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
tham gia TTCT; 10) Đề nghị Cơ quan điều tra VVCT, Hội đồng xử lý vụ
việc HCCT chấp nhận đƣa ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào
tham gia TTCT. (Khoản 3 Điều 67 Luật Cạnh tranh (2018)).
Ngoài ra, bên khiếu nại còn có quyền kiến nghị Chủ tịch UBCTQG yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành
chính trong điều tra, xử lý vụ việc HCCT (Khoản 1 Điều 67 Luật Cạnh tranh (2018)).
Đồng thời, khi tham gia thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, bên khiếu nại và
bên bị điều tra cũng có các nghĩa vụ:
1) Cung cấp đầy đủ, trung thực, chính xác, kịp thời các thông tin,
tài liệu, đồ vật cần thiết liên quan đến kiến nghị, yêu cầu của mình; 2) Có
mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra VVCT và Hội đồng xử lý vụ
việc HCCT; 3) Không đƣợc tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết trong quá
trình tham gia TTCT; không đƣợc sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp
78
trong hồ sơ VVCT vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nƣớc, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; 4) Thi hành quyết định của
UBCTQG, Hội đồng xử lý vụ việc HCCT và Cơ quan điều tra VVCT”
(Khoản 4 Điều 67 Luật Cạnh tranh (2018)).
Bên bị khiếu nại do chƣa phải là đối tƣợng bị điều tra theo quyết định điều
tra của UBCTQG nên có vai trò tham gia một cách hạn chế vào hoạt động TTCT.
Tuy nhiên, họ cũng có các quyền pháp lý để bảo vệ mình là đƣợc biết thông tin về
việc bị khiếu nại và đƣợc giải trình về các nội dung bị khiếu nại (Khoản 2 Điều 67
Luật Cạnh tranh (2018)).
+ Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị khiếu
nại, bên bị điều tra, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ngƣời đƣợc bên khiếu
nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu
bằng văn bản tham gia TTCT để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhƣ
vậy, luật sƣ theo quy định của pháp luật về luật sƣ (Luật Luật sƣ 2006 và Luật Luật
sƣ sửa đổi 2012) hoặc công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có
kiến thức pháp luật, không trong thời gian bị khởi tố hình sự, không có án tích đều
có thể trở thành ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị
khiếu nại, bên bị điều tra, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị điều tra,
ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhiều bên trong cùng một vụ việc nếu quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đó
không đối lập với nhau. Nhiều ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có thể cùng
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một bên trong vụ việc (Điều 68 Luật Cạnh
tranh (2018)). Khi tham gia thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, ngƣời bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra, ngƣời có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền tham gia vào các giai đoạn trong quá trình
TTCT, xác minh, thu thập thông tin, chứng cứ và cung cấp thông tin, chứng cứ để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên mà mình đại diện, nghiên cứu tài liệu
trong hồ sơ VVCT và đƣợc ghi chép, sao chụp tài liệu cần thiết có trong hồ sơ
VVCT để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên mà mình đại
diện, đƣợc thay mặt bên mà mình đại diện kiến nghị thay đổi ngƣời tiến hành
TTCT, ngƣời tham gia TTCT. Đồng thời, họ cũng có nghĩa vụ tôn trọng sự thật và
pháp luật, không đƣợc mua chuộc, cƣỡng ép hoặc xúi giục ngƣời khác khai báo gian
dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, không đƣợc tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết
trong quá trình tham gia TTCT, không đƣợc sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp
79
trong hồ sơ VVCT vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 68 Luật Cạnh tranh (2018)).
+ Ngƣời làm chứng là ngƣời biết các tình tiết có liên quan đến nội dung
VVCT đƣợc Cơ quan điều tra VVCT, Hội đồng xử lý vụ việc HCCT triệu tập tham
gia TTCT. Ngƣời mất năng lực hành vi dân sự không thể là ngƣời làm chứng. Khi
tham gia TTCT, ngƣời làm chứng có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều
69 Luật Cạnh tranh (2018). Trong trƣờng hợp ngƣời làm chứng từ chối khai báo,
khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật hoặc khi đƣợc Cơ quan điều tra
VVCT hoặc Hội đồng xử lý vụ việc HCCT triệu tập mà vắng mặt không có lý do
chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật, trừ trƣờng hợp
thông tin, tài liệu cần khai báo liên quan đến bí mật Nhà nƣớc, bí mật nghề nghiệp,
bí mật kinh doanh, bí mật đời tƣ hoặc việc khai báo có ảnh hƣởng xấu, bất lợi cho
bên khiếu nại hoặc bên bị điều tra là ngƣời có quan hệ thân thích với mình.
+ Ngƣời giám định là ngƣời am hiểu và có kiến thức cần thiết về lĩnh vực
cần giám định đƣợc Thủ trƣởng Cơ quan điều tra VVCT, Hội đồng xử lý vụ việc
HCCT trƣng cầu hoặc đƣợc các bên liên quan đề nghị giám định. Khi tham gia thủ
tục giải quyết vụ việc HCCT, ngƣời giám định có các quyền và nghĩa vụ đƣợc quy
định cụ thể tại Điều 70 Luật Cạnh tranh (2018). Trong trƣờng hợp không có lý do
chính đáng mà ngƣời giám định từ chối kết luận giám định hoặc vắng mặt khi đƣợc
cơ quan tiến hành TTCT triệu tập hoặc kết luận giám định sai sự thật thì phải chịu
trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo sự khách quan khi thực hiện
nhiệm vụ giám định, Điều 70 Luật Cạnh tranh (2018) cũng quy định ngƣời giám
định phải từ chối tham gia TTCT hoặc bị thay đổi trong các trƣờng hợp nhất định.
+ Ngƣời phiên dịch là ngƣời có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng
Việt và ngƣợc lại trong trƣờng hợp có ngƣời tham gia TTCT không sử dụng đƣợc
tiếng Việt. Ngƣời phiên dịch có thể đƣợc Cơ quan điều tra VVCT, Hội đồng xử lý
vụ việc HCCT yêu cầu để phiên dịch hoặc do bên khiếu nại, bên bị điều tra hoặc
ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan lựa chọn hoặc do các bên thỏa thuận lựa
chọn nhƣng phải đƣợc Cơ quan điều tra VVCT, Hội đồng xử lý vụ việc HCCT chấp
thuận. Khi tham gia thủ tục giải quyết vụ việc HCCT, ngƣời phiên dịch có các
quyền và nghĩa vụ đƣợc quy định tại Khoản 2 Điều 71 Luật Cạnh tranh (2018).
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 71 Luật Cạnh tranh (2018), ngƣời phiên dịch cũng
phải từ chối tham gia TTCT hoặc bị thay đổi trong các trƣờng hợp là bên khiếu nại,
bên bị điều tra, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc là ngƣời thân thích của
bên khiếu nại, bên bị điều tra, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc đã tham
80
gia TTCT với tƣ cách là ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, ngƣời làm chứng,
ngƣời giám định trong cùng một VVCT hoặc trong trƣờng hợp có căn cứ rõ ràng
cho rằng họ có thể không vô tƣ khi làm nhiệm vụ.
+ Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, theo Điều 72 Luật Cạnh tranh
(2018), đƣợc hiểu là ngƣời không có khiếu nại trong VVCT, không phải là bên bị
điều tra nhƣng việc giải quyết VVCT có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ
nên họ tự mình đề nghị hoặc đƣợc bên khiếu nại, bên bị điều tra đề nghị và đƣợc Cơ
quan điều tra VVCT, Hội đồng xử lý vụ việc HCCT chấp nhận đƣa họ vào tham gia
tố tụng với tƣ cách là ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc đƣợc Cơ quan
điều tra VVCT, Hội đồng xử lý vụ việc HCCT đƣa họ vào tham gia tố tụng với tƣ
cách là ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có thể yêu cầu độc lập hoặc tham gia TTCT với bên khiếu nại hoặc bên bị điều
tra. Thủ tục yêu cầu độc lập của ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đƣợc thực
hiện theo thủ tục khiếu nại VVCT.
Nhƣ vậy, theo quy định của Luật Cạnh tranh (2004) và Luật Cạnh tranh
(2018), trừ bên khiếu nại, bên bị khiếu nại, bên bị điều tra có những đặc thù riêng
khi tham gia TTCT, những ngƣời tham gia TTCT còn lại có địa vị pháp lý tƣơng
đối giống với địa vị pháp lý của những ngƣời tham gia tố tụng trong các hình thức
tố tụng dân sự hay hình sự. Với quan điểm cho rằng không chỉ có Luật sƣ mới có
thể tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị điều tra,
Luật Cạnh tranh (2018) đã bổ sung "ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bên khiếu nại, bên bị điều tra" vào danh sách ngƣời tham gia TTCT thay cho luật sƣ
nhƣ trong Luật Cạnh tranh (2004). Quy định về ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bên khiếu nại, bên bị điều tra đƣợc xây dựng trên cơ sở sự thống nhất, phù
hợp với các quy định về ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự trong
pháp luật tố tụng hành chính và dân sự. Việc chi trả cho các khoản phí đi lại của
ngƣời làm chứng, ngƣời phiên dịch đƣợc thực hiện theo pháp luật về chi phí giám
định, định giá, chi phí cho ngƣời làm chứng, ngƣời phiên dịch trong tố tụng. Theo
đó, trƣờng hợp ngƣời làm chứng, ngƣời phiên dịch do cơ quan tiến hành tố tụng
triệu tập thì cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm thanh toán chi phí cho những
ngƣời này. Trƣờng hợp ngƣời làm chứng, ngƣời phiên dịch đƣợc triệu tập theo yêu
cầu của đƣơng sự (bên khiếu nại, bên bị điều tra) thì đƣơng sự có trách nhiệm thanh
toán chi phí cho những ngƣời này.
Có thể nói, trên cơ sở các quy định về ngƣời tham gia TTCT đƣợc quy định
trong Luật Cạnh tranh (2004) và các văn bản hƣớng dẫn thi hành, Luật Cạnh tranh
81
(2018) đã bổ sung, hoàn thiện rất đầy đủ và hợp lý về thành phần và địa vị pháp lý của
từng loại ngƣời tham gia TTCT phù hợp theo thông lệ quốc tế, các yêu cầu về quyền
dân sự theo Tuyên ngôn nhân quyền thế giới, đồng thời đảm bảo cho TTCT nói chung
và thủ tục giải quyết vụ việc HCCT đƣợc diễn ra một cách có hiệu quả. Chẳng hạn nhƣ
Luật Cạnh tranh đã cho phép bên bị điều tra đƣợc biết về các thông tin, tài liệu, đồ vật
(chứng cứ) mà bên khiếu nại hoặc Cơ quan điều tra VVCT đƣa ra để chống lại mình,
đƣợc đƣa ra chứng cứ có giá trị chứng minh ngƣợc lại để bảo vệ mình, đƣợc nghiên
cứu tài liệu trong hồ sơ VVCT và đƣợc ghi chép, sao chụp tài liệu cần thiết có trong hồ
sơ VVCT để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (trừ tài liệu,
chứng cứ không đƣợc công khai theo quy định của pháp luật) Thậm chí, ngay từ giai
đoạn đầu tiên của TTCT, bên bị khiếu nại đƣợc hiểu là bên chƣa bị điều tra theo thủ tục
điều tra cũng đã đƣợc thông báo về việc mình bị khiếu nại và có quyền giải trình về các
nội dung bị khiếu nại. Đây là những quy định rất tiến bộ, thể hiện tính “tranh tụng” cao
trong TTCT và chặt chẽ nhƣ trong thủ tục tƣ pháp.
Các quyền của ngƣời tham gia TTCT đƣợc quy định trong Luật Cạnh tranh
(2018) đã cung cấp đầy đủ các đảm bảo về mặt pháp lý cho họ có thể tham gia vào
thủ tục giải quyết vụ việc HCCT phù hợp với các nguyên tắc căn bản của loại tố
tụng này nhƣ: đảm bảo quyền tranh tụng; quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện; quyền
đƣợc xét xử công bằng; quyền đƣợc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, bảo vệ bí
mật kinh doanh trong thủ tục giải quyết vụ việc HCCT.
3.2. Thực trạng các quy định pháp luật trong giai đoạn tiếp nhận, đánh
giá các thông tin, khiếu nại làm cơ sở pháp lý cho việc điều tra vụ việc hạn chế
cạnh tranh và thực tiễn áp dụng
3.2.1. Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh trên cơ sở yêu cầu của bên
khiếu nại
Nhƣ đã phân tích tại Chƣơng 2 của Luận án, việc điều tra vụ việc HCCT theo
yêu cầu của bên khiếu nại là một quy định phổ biến trong pháp luật cạnh tranh của
các nƣớc trên thế giới, đảm bảo quyền khiếu nại của các doanh nghiệp hay ngƣời
tiêu dùng khi họ bị hành vi HCCT trái pháp luật gây thiệt hại, thể hiện tính chất “tƣ
pháp” của thủ tục giải quyết vụ việc HCCT.
Theo quy định của pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, cơ quan có
thẩm quyền sẽ ra quyết định điều tra vụ việc HCCT khi có đơn khiếu nại đã đƣợc
thụ lý theo quy định. Theo Điều 86 Luật Cạnh tranh (2004), việc hồ sơ khiếu nại
VVCT đã đƣợc cơ quan QLCT thụ lý sẽ là một trong hai căn cứ để Thủ trƣởng cơ
quan QLCT ra quyết định điều tra sơ bộ. Điều 80 Luật Cạnh tranh (2018) cũng quy
82
định Thủ trƣởng Cơ quan điều tra VVCT ra quyết định điều tra VVCT trong trƣờng
hợp việc khiếu nại VVCT đã đáp ứng yêu cầu theo quy định và đƣợc thụ lý (không
thuộc trƣờng hợp bị trả lại hồ sơ khiếu nại).
Điều 58 Luật Cạnh tranh (2004) và Điều 77 Luật Cạnh tranh (2018) đều xác
định: “Tổ chức, cá nhân cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại
do hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh (sau đây gọi chung là bên
khiếu nại) có quyền khiếu nại đến cơ quan QLCT (hoặc UBCTQG theo Luật cạnh
tranh (2018))”. Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ khiếu
nại, cơ quan QLCT có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho bên khiếu nại về
việc thụ lý hồ sơ khi nhận đƣợc hồ sơ khiếu nại đầy đủ theo quy định, hồ sơ khiếu
nại đảm bảo tính đầy đủ, hợp lệ và tính có căn cứ, hợp pháp.
Để khiếu nại đƣợc chấp nhận, theo Khoản 3 Điều 58 Luật Cạnh tranh (2004),
bên khiếu nại ngoài việc nộp đơn khiếu nại theo mẫu của cơ quan QLCT còn phải
cung cấp chứng cứ về hành vi vi phạm của bên bị khiếu nại, đồng thời, phải chịu
trách nhiệm về tính trung thực của các chứng cứ đã cung cấp cho cơ quan QLCT.
Theo Luật Cạnh tranh (2018), ngoài các yêu cầu kể trên, bên khiếu nại còn phải
cung cấp các thông tin, chứng cứ liên quan khác mà bên khiếu nại cho rằng cần thiết
để giải quyết vụ việc (Khoản 3 Điều 77).
Điều 45 Nghị định 116 hƣớng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh (2004) quy định
cụ thể đơn khiếu nại trong hồ sơ khiếu nại VVCT phải có các nội dung chính sau
đây: Ngày, tháng, năm làm đơn khiếu nại; danh tính và địa chỉ của bên khiếu nại;
danh tính và địa chỉ của bên bị khiếu nại; danh tính và địa chỉ của ngƣời có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có); những vấn đề cụ thể yêu cầu cơ quan QLCT giải
quyết; danh tính và địa chỉ của ngƣời làm chứng (nếu có); chứng cứ để chứng minh
đơn khiếu nại là có căn cứ và hợp pháp; các thông tin khác mà bên khiếu nại xét
thấy cần thiết cho việc giải quyết VVCT; chữ ký của bên khiếu nại trong trƣờng hợp
bên khiếu nại là cá nhân; chữ ký và dấu của đại diện hợp pháp của bên khiếu nại
trong trƣờng hợp bên khiếu nại là tổ chức.
Sau khi tiếp nhận hồ sơ khiếu nại, Điều 46 Nghị định 116 quy định trong thời
hạn 07 ngày làm việc, cơ quan QLCT tiến hành kiểm tra tính đầy đủ và hợp pháp
của hồ sơ. Trƣờng hợp hồ sơ khiếu nại VVCT không có đủ các tài liệu theo quy
định, cơ quan QLCT thông báo cho bên khiếu nại bổ sung trong thời hạn không quá
30 ngày, trong trƣờng hợp đặc biệt, cơ quan QLCT có thể gia hạn 1 lần không quá
15 ngày theo đề nghị của bên khiếu nại.
Về việc nộp tạm ứng phí xử lý VVCT gắn với thụ lý hồ sơ khiếu nại, Điều 47
83
Nghị định 116 quy định: “Sau khi nhận hồ sơ khiếu nại VVCT đầy đủ, hợp lệ, cơ quan
QLCT phải thông báo ngay cho bên khiếu nại nộp tiền tạm ứng chi phí xử lý VVCT
trong thời hạn 15 ngày”. Cơ quan QLCT chỉ thụ lý hồ sơ khiếu nại VVCT sau khi
nhận đƣợc biên lai nộp tiền tạm ứng phí xử lý VVCT, trừ trƣờng hợp bên khiếu nại
đƣợc miễn tiền tạm ứng phí xử lý VVCT theo quy định tại Điều 56 Nghị định 116.
Cơ quan QLCT sẽ không thụ lý và trả lại hồ sơ khiếu nại VVCT trong các
trƣờng hợp: Một là, đã hết thời hiệu khiếu nại; hai là, vụ việc không thuộc thẩm quyền
điều tra của cơ quan QLCT; ba là, bên khiếu nại không sửa đổi, bổ sung hồ sơ theo yêu
cầu của cơ quan QLCT đúng thời hạn quy định (Khoản 2 Điều 46 Nghị định 116).
Bên khiếu nại có quyền khiếu nại việc không đƣợc thụ lý đơn khiếu nại lên
Bộ trƣởng Bộ Công Thƣơng trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đƣợc
hồ sơ khiếu nại bị trả lại. Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận đƣợc
khiếu nại, Bộ trƣởng Bộ Công Thƣơng phải ra một trong các quyết định là giữ
nguyên việc trả lại hồ sơ khiếu nại VVCT hoặc yêu cầu cơ quan QLCT tiến hành
thụ lý hồ sơ khiếu nại VVCT (Khoản 3 Điều 46 Nghị định 116).
Về nội dung tiếp nhận và xem xét hồ sơ khiếu nại của bên khiếu nại, Luật
cạnh tranh (2018) có một số quy định khác so với Luật Cạnh tranh (2004), đó là:
- Sau khi tiếp nhận hồ sơ khiếu nại, UBCTQG trong thời hạn 07 ngày chỉ
xem xét tính đầy đủ, hợp lệ của hồ sơ. Nếu hồ sơ đảm bảo đầy đủ, hợp lệ theo yêu
cầu, UBCTQG sẽ thông báo cho bên khiếu nại về việc tiếp nhận hồ sơ khiếu nại.
Trong thời hạn 15 ngày tiếp theo, UBCTQG tiếp tục xem xét hồ sơ khiếu nại có
thỏa mãn hay không (Khoản 1 Điều 78) để yêu cầu bổ sung hồ sơ trong thời hạn tối
đa là 45 ngày (kể cả trƣờng hợp gia hạn 15 ngày). Mặc dù tiêu chí đánh giá trong
lần thứ hai này không đƣợc quy định rõ, nhƣng ta có thể hiểu rằng việc xem xét hồ
sơ khiếu nại sẽ theo các “tiêu chí nội dung” trên cơ sở việc đánh giá kỹ càng các căn
cứ, thông tin mà hồ sơ khiếu nại đã cung cấp. Vấn đề này nếu đƣợc làm rõ trong
văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh (2018) sẽ là một điểm tiến bộ so với
Luật Cạnh tranh (2004) trong việc đảm bảo quyền khiếu nại của tổ chức, cá nhân bị
thiệt hại, bởi vì bản thân các các quy định tại Điều 56 và 57 của Nghị định 116 đã
không có sự thống nhất về yêu cầu đối với Cơ quan QLCT khi xem xét hồ sơ khiếu
nại theo tiêu chí hợp lệ, đầy đủ (tiêu chí hình thức) hay tính hợp pháp (tiêu chí nội
dung), điều này sẽ gây khó khăn hoặc tạo ra sự “tùy tiện” cho Cơ quan QLCT trong
việc đánh giá về hồ sơ khiếu nại, ảnh hƣởng tới hành vi tố tụng tiếp theo của cơ
quan QLCT là thụ lý hay không thụ lý đơn khiếu nại.
- Việc tiếp nhận hồ sơ khiếu nại của UBCTQG sẽ đƣợc thông báo đồng thời
84
cho cả bên khiếu nại và bên bị khiếu nại (Khoản 1 Điều 78). Đây có lẽ cũng là một
quy định thể hiện rõ hơn sự chặt chẽ, tính chất “tƣ pháp” của thủ tục giải quyết vụ
việc HCCT theo Luật Cạnh tranh (2018) so với Luật Cạnh tranh (2004), bởi lẽ, khi
đƣợc thông báo sớm về việc bị khiếu nại sẽ đảm bảo hơn quyền “bào chữa” cho bên
bị khiếu nại, đảm bảo tính “tranh tụng” trong TTCT, mặc dù tại thời điểm đó, thủ
tục điều tra vụ việc HCCT (điều tra trong tố tụng) hoàn toàn chƣa đƣợc áp dụng.
Chính quy định này đã tạo ra một “loại ngƣời tham gia tố tụng mới” là bên bị khiếu
nại để phân biệt với bên bị điều tra (bên bị khiếu nại chỉ trở thành bên bị điều tra
trong trƣờng hợp UBCTQG ra quyết định điều tra) theo Luật Cạnh tranh (2018).
Luật Cạnh tranh (2018) còn quy định, trong thời gian UBCTQG xem xét và
yêu cầu bổ sung hồ sơ, bên khiếu nại có quyền rút đơn khiếu nại và hành vi này sẽ
dẫn đến hệ quả pháp lý là UBCTQG dừng việc xem xét hồ sơ khiếu nại. Trên cơ sở
đó, Điều 79 Luật Cạnh tranh (2018) quy định UBCTQG sẽ trả lại hồ sơ khiếu nại
VVCT trong các trƣờng hợp: Thứ nhất, thời hiệu khiếu nại đã hết; thứ hai, khiếu nại
không thuộc thẩm quyền giải quyết của UBCTQG; thứ ba, bên khiếu nại không bổ
sung đầy đủ hồ sơ theo quy định; thứ tư, bên khiếu nại xin rút hồ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_thu_tuc_giai_quyet_vu_viec_han_che_canh_tranh_o_viet.pdf