MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 6
1.1. Tình hình nghiên cứu ở Lào 6
1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam 15
1.3. Những vấn đề đặt ra tiếp tục nghiên cứu 24
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 26
2.1. Khái niệm và nội dung điều chỉnh pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào 26
2.2. Khái niệm, hình thức, vai trò thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài 35
2.3. Các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào 43
Chương 3: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VÀ
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI Ở NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 55
3.1. Sự hình thành phát triển pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào 55
3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào 66
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC CỘNG HÒA DÂN
CHỦ NHÂN DÂN LÀO HIỆN NAY 96
4.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở
Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào hiện nay. 96
4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay 108
KẾT LUẬN 134
NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 137
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 138
PHỤ LỤC
165 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 543 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành hoặc nhiều địa phương, dự án sử dụng công nghệ
cao, dự án liên quan đến lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, viễn thông, hàng
không, chủ quyền quốc gia, năng lượng, khoáng sản, dầu thô, khí đốt
(gas)..v..v.. .theo quy định của Chính phủ và dưới sự phối hợp giữa tổ chức
cấp phép với các ngành hữu quan liên quan và chính quyền địa phương.
Chính quyền địa phương có nhiệm vụ tham gia theo chức năng vai trò
của mình trong việc quản lý dự án đầu tư đặt tại địa phương mình do Trung
ương cấp phép.
Việc phân cấp quản lý đã được quy định rõ trong luật của các ngành, do
đó thực hiện theo như các luật đã định [36, tr.36-43]. (Luật 2009)
(1) Cấp Trung ương:
Cục tổ chức việc thực hiện pháp luật về đầu tư nước ngoài, văn
phòng thường trực Ủy ban thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài cấp
trung ương. Vai trò của Ủy ban thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài sẽ
được quy định riêng.
Văn phòng Ủy ban kế hoạch và Đầu tư là Ban Thư ký Ủy ban thực hiện
pháp luật đầu tư nước ngoài cấp trung ương do Chánh văn phòng làm trưởng
ban Thư ký.
(2) Cấp địa phương:
Sở kế hoạch và Đầu tư của tỉnh, Thủ đô là Văn phòng thường trực của
Ủy ban thực hiện pháp luật về ĐTNN.
Văn phòng tỉnh, Thủ đô là Ban Thư ký Ủy ban thực hiện pháp luật
ĐTNN cấp địa phương.
- Vai trò, nhiệm vụ của Ban Thư ký Ủy ban tổ chức thực hiện pháp
luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài do Chánh văn phòng làm Trưởng ban
Thư ký gồm: Phối hợp với Sở kế hoạch và đầu tư thường trực địa phương
để chuẩn bị thời gian tổ chức cuộc họp thường kỳ và bất thường của Ủy
ban thực hiện pháp luật về ĐTNN cấp của mình, cùng các hồ sơ giấy tờ cần
70
thiết khác đề nghị lên Chủ tịch Ủy ban thực hiện pháp luật đầu tư nước
ngoài tự mở phiên họp.
Tham dự cuộc họp Ủy ban thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài và dự
thảo biên bản về nghị quyết cuộc họp Ủy ban thực hiện luật đầu tư nước ngoài
đề nghị xin chữ ký của Chủ tịch hoặc phó Chủ tịch Ủy ban thực hiện luật đầu
tư nước ngoài theo quy định. Gửi biên bản cuộc họp Ủy ban thực hiện pháp
luật ĐTNN cho các thành phần liên quan biết và tổ chức thực hiện.
Theo dõi và thúc đẩy Cục thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài và Sở
kế hoạch và đầu tư địa phương trong việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của
cuộc họp Ủy ban thực hiện pháp luật ĐTNN và báo cáo lên Đoàn Chủ tịch Ủy
ban thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài thường trực [97, tr.82-92].
Thực hiện nhiệm vụ theo sự giao phó của Ủy ban thực hiện pháp luật
về đầu tư nước ngoài.
Vai trò trách nhiệm cụ thể của Ban thư Ủy ban thực hiện pháp luật đầu
tư nước ngoài các cấp giao cho Ủy ban thực hiện luật đầu tư nước ngoài các
cấp quy định riêng nếu thấy cần thiết.
Đối với tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Lào hiện
nay vẫn còn hạn chế và chưa được chú ý đúng mức. Điều đó do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là ở Lào hiện nay còn
thiếu những người chuyên gia, người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
liên quan đến tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài. Vì vậy để đạt
hiệu quả cao trong tổ chức thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài cần phải
đào tạo đội ngũ chuyên gia, người có nghiệp vụ chuyên môn tốt về lĩnh vực
này trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các tổ chức thành phần
kinh tế khác nhau.
3.2.1.3. Sử dụng pháp luật đầu tư nước ngoài
Sử dụng pháp luật ĐTNN ngoài là một hình thức thực hiện pháp luật về
đầu tư trong đó chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện
71
những hành vi mà pháp luật cho phép). Theo nội dung chính của pháp luật về
đầu tư là đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước CHDCND Lào về hợp
tác quốc tế đặc biệt là kinh tế đối ngoại. Cho nên, thực hiện pháp luật đầu tư
nước ngoài là một cách thức duy nhất của Đảng và nhà nước để khuyến khích
và đẩy mạnh cho việc ĐTNN tại CHDCND Lào được cụ thể hóa. Mục tiêu
của pháp luật đầu tư nước ngoài là tranh thủ vốn và kỹ thuật hiện đại, kinh
nghiệm và phương pháp quản lý thực tiễn, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý
chuyên gia và đội ngũ công nhân chuyên nghiệp cao; nhanh chóng tạo chỗ
đứng ngày càng vững chắc trong sự phân công lao động quốc tế tạo được thế
mạnh trên thị trường quốc tế. Hệ quả của những mục tiêu đó là việc khai thác
có hiệu quả nguồn tài nguyên đất nước, tạo thêm công ăn việc làm cho người
lao động, đẩy mạnh xuất khẩu và các dịch vụ thu ngoại tệ, tăng tích lũy cho
sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Vì vậy, để khuyến khích các tổ chức
và cá nhân của các nhà đầu tư vốn và kỹ thuật vào Lào, pháp luật ĐTNN Lào
đã xác định được một khung pháp lý khá hoàn chỉnh và hấp dẫn trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền của Lào, bình đẳng và các bên cùng có lợi, phù hợp
với luật lệ kinh tế trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế thị trường và
phù hợp với phong tục, tập quán và thông lệ quốc tế. Điều 7: Hợp tác quốc
tế. Nhà nước hợp tác với nước ngoài, khu vực và quốc tế nhằm khuyến khích
đầu tư thông qua trao đổi kinh nghiệm, thông tin, kỹ thuật và kinh nghiệm
trong việc khuyến khích và quản lý đầu tư, thị trường, thương mại, nguồn
vốn, hội nhập khu vực và quốc tế [36, tr. 5].
Sử dụng pháp luật ĐTNN, trước hết cần khẳng định rằng doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài được đối xử bình đẳng so với các tổ chức kinh
doanh khác của Lào, có toàn quyền quyết định chương trình và kế hoạch kinh
doanh của mình phù hợp với giấy phép đầu tư đã được cấp và thực hiện đúng
các nghĩa vụ mà pháp luật Lào quy định. Chính phủ nước CHDCND Lào bảo
hộ việc đầu tư và sở hữu của nhà ĐTNN trên cỏ sở pháp luật của Lào. Nhà
72
đầu tư nước ngoài có quyền thuê đất ở Lào, có quyền chuyển nhượng các tài
sản lưu động và tài sản cố định mà đã xây dựng hoặc cải tạo trên mảnh đất
thuê đó. Nhà ĐTNN được tự do hoạt động kinh doanh dưới pháp luật của
Lào. Nhà nước sẽ can thiệp vào việc quản lý kinh doanh của nhà ĐTNN.
Trong việc tuyển dụng lao động, trước hết các nhà đầu tư nước ngoài phải ưu
tiên cho công dân Lào; nếu thấy cần thiết về chuyên môn, nhà đầu tư nước
ngoài có thể nhận thêm người nước ngoài vào làm việc sau khi nhận được sự
đồng ý của cơ quan hữu quan của Chính phủ nước CHDCND Lào. Nhà đầu tư
nước ngoài có đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn cho những người lao
động Lào theo hình thức đào tạo tại chỗ hoặc đào tạo nước ngoài.
Chính phủ CHDCND Lào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc các nhà
đầu tư nước ngoài, người lao động nước ngoài kể cả các thành viên gia đình
của họ trong việc xuất nhập cảnh và nghỉ ngơi ở Lào vì mục đích kinh doanh
hoặc vì công việc gia đình, nhưng họ phải tôn trọng và tuân theo pháp luật
của Lào trong xuất thời gian ở CHDCND Lào. Nhà đầu tư nước ngoài phải
mở tải khoản bằng tiền Kíp và tiền nước ngoài tại Ngân hàng của Lào hoặc
ngân hàng nước ngoài đặt tại Lào. Trong việc quản lý kinh doanh, nhà đầu tư
nước ngoài phải áp dụng chế độ kế toán của Lào và chịu sự kiểm soát thường
xuyên theo chế độ quản lý, kế toán của Chính phủ Lào.
Các nhà đầu tư nước ngoài được phép chuyển lợi nhuận và vốn thu
được từ hoạt động đầu tư của mình về nước hoặc sang nước thứ ba thông
qua Ngân hàng đặt tại Lào, theo tỷ giá hối đoái ngân hàng Nhà nước Lào
quy định trong từng giai đoạn. Đối với người nước ngoài làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Lào, sau khi đã nộp thuế thu
nhập, các loại thuế và lệ phí khác cũng được phép chuyển lợi nhuận của
mình về nước mình hoặc sang nước thứ ba. Các nhà đầu tư nước ngoài phải
phải nộp thuế thu nhập cho Chính phủ Lào mỗi năm 20% lợi nhuận thu
73
được, còn các loại thuế và lệ phí khác thì thực hiện theo pháp luật của Lào.
Đối với hoạt động kinh doanh về tài nguyên thiên nhiên và năng lượng của
Lào thì thực hiện theo hợp đồng đã thỏa thuận giữa Chính phủ Lào với nhà
đầu tư nước ngoài (Điều 16). Các thiết bị, máy móc và phương tiện sản xuất
khác chuyên dùng trong công trình hoặc trong sản xuất kinh doanh mà các
nhà ĐTNN nhập khẩu vào Lào phải nộp thuế nhập khẩu cho Chính phủ Lào
1% giá trị của thiết bị, máy móc đó. Riêng nguyên liệu và bán thành phẩm
nhập vào để chế biến hoặc tái sản xuất thành sản phẩm hoàn chỉnh để xuất
khẩu thì sẽ được miễn thuế xuất khẩu. Còn nguyên liệu và bán thành phẩm
nhập vào để chế biến hoặc tái sản xuất thành sản phẩm hoàn chỉnh để thay
thế hàng nhập khẩu sẽ được giảm thuế nhập khẩu theo chính sách của Chính
phủ Lào. Trong trường hợp đặc biệt được sự đồng ý của Chính phủ Lào, các
nhà đầu tư nước ngoài có thể được hưởng các quyền và lợi ích từ việc đầu tư
có tác động tốt hoặc đầu tư với quy mô lớn và ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của Lào dưới hình thức được giảm miễn thuế thu
nhập hoặc thuế nhập khẩu các thiết bị, máy móc và các phương tiện sản xuất
khác như đã nêu ở trên.
Nhà ĐTNN ngoài việc nộp thuế thu nhập hàng năm đúng đắn và đầy
đủ, còn phải trích một phần lợi nhuận để lập quỹ dự phòng hoặc các quỹ khác
để đảm bảo cho hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh của mình có chất
lượng ngày một tốt hơn theo chính sách và quy định trong điều lệ của doanh
nghiệp mà mình làm chủ đầu tư. Các hoạt động đầu tư của nước ngoài tại Lào
phải được thực hiện với việc chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp
luật của Lào, với các biện pháp bảo vệ môi trường thiên nhiên, sức khỏe an
toàn cho người lao động và trật tự công cộng ở xung quanh cơ sở sản xuất
kinh doanh của mình. Các nhà đầu tư phải tham gia bảo hiểm và phúc lợi xã
hội cho người lao động theo chính sách và pháp luật của Lào.
74
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp giữa các nhà đầu tư nước ngoài với
nhau hoặc giữa nhà đầu tư nước ngoài với bên Lào thì các bên phải tìm cách
giải quyết theo hợp đồng của mình thông qua thương lượng và hòa giải. Nếu
hòa giải không thành thì các bên tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận với nhau đề
nghị lên tổ chức trọng tài kinh tế của Lào hoặc sử dụng hình thức giải quyết
khác của Lào, của nước ngoài hoặc của quốc tế [74, tr.80-110].
3.2.1.4. Áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài
Sau khi pháp luật về ĐTNN tại CHDCND Lào, đã được phát triển
và hoàn thành tốt bao nhiêu, thì là phải đem lại trên bản chất của nó như:
Áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài luôn gắn liền với việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước với hoạt động
quản lý nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì lẽ đó, áp
dụng pháp luật ĐTNN là hình thức pháp luật quan trọng được khoa học
pháp lý xã hội chủ nghĩa chú trọng nghiên cứu, trong đó có những vấn đề
đáng chú ý sau: Điều 6. Phạm vi áp dụng. Luật này áp dụng với cá nhân hoặc
pháp nhân liên quan đến mọi loại hình đầu tư để tiến hành sản xuất kinh doanh
nhằm tạo giá trị gia tăng, trừ kinh tế gia đình và người buôn bán nhỏ [36, tr.5].
Ví dụ: Điều 58. Khuyến khích bằng quyền sử dụng đất. Nhà đầu tư
nước ngoài đến đầu tư với số vốn đăng ký từ 500.000 đô la Mỹ trở lên có
quyền mua quyền sử dụng đất của nhà nước đã trong quy hoạch theo quy định
của thời gian đầu tư dự án để xây dựng nhà ở hoặc cơ sở kinh doanh, nhưng
cần được sự đồng ý của tổ chức quản lý đất đai địa phương theo quy định
pháp luật.Chính phủ là cơ quan ban hành các quy định và cơ chế phân cấp
quản lý đối với việc ưu đãi quyền sử dụng đất của nhà đầu tư nước ngoài đến
đầu tư tại Lào [36, tr.26].
- Pháp luật tác động vào các quan hệ xã hội, vào cuộc sống với hiệu
quả cao nhất chỉ khi những quy phạm của nó phản ánh chính xác ý nguyện
của nhân dân, phù hợp quy luật xã hội và được thực chính xác, triệt để.
75
Nhưng, nếu chỉ thông qua các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật
và sử dụng pháp luật thì sẽ rất nhiều quy phạm pháp luật không được thực
hiện. Lý do có thể là các chủ thể không muốn thực hiện hoặc không đủ khả
năng tự thực hiện nên thiếu sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Mặt khác, pháp luật là cơ sở tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, điều
chỉnh quan hệ giữa cơ quan nhà nước với nhau. Toàn bộ việc tổ chức và hoạt
động ấy đều liên quan và đòi hỏi việc thực hiện pháp luật, chủ yếu là dưới
hình thức áp dụng pháp luật. Có thể khái quát việc áp dụng pháp luật ĐTNN
trong các trường hợp sau:
Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước, hoặc áp dụng các
chế tài đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Một công dân
thực hiện một hành vi phạm tội thì không phải ngay sau đó trách nhiệm hình
sự tự động phát sinh và người vi phạm tự giác chấp hành phạt tương ứng. Vì
vậy, cần có hoạt của Tòa án và các quan bảo vệ pháp luật có liên quan nhằm
điều tra, truy tố, đối chiếu với pháp luật để xét xử, ra bản án, trong đó xác
định rõ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và buộc họ phải chấp
hành nghiêm bản án.
Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tụ giải quyết được.
Trong trường hợp này, quan hệ pháp luật phát sinh, những quyền và nghĩa vụ
của các bên không được thực hiện vì có sự tranh chấp. Ví dụ, tranh chấp giữa
những bên tham gia hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự.
Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham
gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó,
hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự
kiện thực tế. Ví dụ, việc xác nhận di chúc, chứng thực thế chấp... Tóm lại, áp
dụng pháp luật ĐTNN là hoạt động thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà
76
nước mà biểu hiện cụ thể là một hình thức thực pháp luật, hoặc là cách thức
nhà nước tổ chức các chủ thể thực hiện pháp luật.
- Trước hết, áp dụng pháp luật là động lực mang tính tổ chức, thể hiện
quyền lực nhà nước. Việc áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước hay
nhà chức trách trong phạm vi thẩm quyền. Mỗi cơ quan nhà nước nhà chức trách
trong phạm vi thẩm quyền được giao thực hiện một số những hoạt động áp dụng
pháp luật nhận định. Trong quá trình áp dụng pháp luật mọi khía cạnh, mọi tình
tiết của vụ việc cần giải quyết đều phải được xét cẩn trọng để áp dụng pháp luật
chính xác. Như vậy, pháp luật là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng pháp luật thực hiện chức năng của mình. Có một số trường hợp cá
biệt, một số tổ chức không phải cơ quan nhà nước nhưng được nhà nước trao cho
một số nhiệm vụ thuộc chức năng quản lý nhà nước cũng có thể tiến hành áp dụng
pháp luật. Việc áp dụng pháp luật với đặc điểm trên được xem là sự tiếp tục thể
hiện ý chí, quyền lực của của nhà nước.
Áp dụng pháp luật ĐTNN được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn
phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí
của chủ thể bị áp dụng pháp luật.
Áp dụng pháp luật ĐTNN có tính chất bắt buộc (trong trường hợp
cưỡng chế) đối với chủ thể bị áp dụng và các chủ thể có liên quan.
- Văn bản áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là văn bản chứa đựng
các quyết định áp dụng pháp luật chỉ do các cơ quan hay nhà trách có thẩm
quyền áp dụng pháp luật ban hành. Văn bản áp dụng pháp luật mang tính bắt
buộc phải thực hiện đối với nhưng tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong
những trường hợp cần thiết, văn bản áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài
được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà nước.
Áp dụng luật pháp luật ĐTNN được thực hiện theo một quy trình,
thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Do tính chất quan trọng và phức
tạp của hoạt động áp dụng pháp luật, chủ thể bị áp dụng pháp luật có thể
77
được hưởng những lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải chịu những hậu
quả rất nghiêm trọng nên pháp luật xác định xác định rõ ràng quy trình,
thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình áp dụng pháp luật.
Ví dụ, việc giải quyết một vụ án hình sự phải phải tiến hành theo
những quy định cụ thể của pháp luật tố tụng hình sự; việc xử phạt hành
chính được điều chỉnh bởi những quy phạm thủ tục xử phạt hành chính.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các bên có liên quan trong quá
trình áp dụng pháp luật ĐTTNN phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định
đó, để tránh những sự tùy tiện có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật
không đúng, không chính xác. Điều 97: Xử phạt. Cá nhân, tập thể vi phạm
pháp luật về khuyến khích đầu tư sẽ bị xử phạt với các biện pháp: giáo dục bồi
dưỡng, kỷ luật, xử phạt, bồi thường dân sự hoặc truy tố theo từng trường hợp nặng
hoặc nhẹ, theo quy định của pháp luật [36, tr. 44].
Áp dụng pháp luật ĐTNN là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối
với các quan hệ xã hội xác định. Đối tượng của hoạt động áp dụng pháp luật
đầu tư nước ngoài là những quan hệ xã hội cần đến sự điều chỉnh cá biệt, trên
cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hoạt động áp
dụng pháp luật những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hóa một
cách cụ thể và chính xác.
Áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo,
khi áp dụng pháp luật này, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải nghiên
cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ bản chất pháp lý của nó để từ đó lựa chọn
đúng, chính xác quy phạm, ra văn bản áp văn bản áp dụng pháp và tổ chức thi
hành kịp thời. Trong trường hợp pháp luật chưa quy hoạch quy định chưa rõ thì
cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền phải hết sức thận trọng trong việc ra
quyết định. Đây cũng là điều đòi hỏi các nhà chức trách phải có ý thức pháp
luật cao, có trí thức tổng hợp, có kinh nghiệm và trách nhiệm trong quản lý.
78
Như vậy, áp dụng pháp luật đầu tư nước ngoài là hoạt động mang tính
tổ chức, tính quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoạt các tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền thực hiện nhằm đưa các
quy phạm pháp luật vào cuộc sống và lợi ích cho người dân toàn diện.
3.2.2. Hạn chế của thực hiện pháp luật đầu tư nước ngoài ở Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào
Một là, việc tuân thủ pháp luật đầu tư của một số chủ thể liên quan đầu
tư nước ngoài còn hạn chế.
- Công tác quản lý và xúc tiến các dự án ĐTNN tại Lào còn yếu kém:
Trong thời gian qua, sự trao đổi thông tin, phối hợp giữa các Bộ ngành từ
trung ương đến địa phương nhằm hướng dẫn cung cấp thông tin, thỏa thuận
cần thiết tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài còn chưa tốt,
đặc biệt là trong công tác quản lý sau cấp phép. Công tác xúc tiến đầu tư nước
ngoài tại Lào mặc dù đã có nhiều chuyển biến tốt như tiến hành các chương
trình kêu gọi xúc tiến ĐTNN, song chưa được tổ chức thường xuyên và khâu
tổ chức thực hiện chưa thực sự đem lại hiệu quả, do thiếu kinh nghiệm cũng
như kinh phí trong việc thiết lập các chương trình xúc tiến. Ngoài ra, những
thông tin đưa ra để nhà đầu tư tham khảo về tình hình hoạt động của các dự
án đầu tư còn thiếu đầy đủ. Số liệu có thể do rất nhiều các cơ quan tổng hợp
cho nên có sự khác biệt. Nhà đầu tư cần số liệu đúng và các thông tin chi tiết
hơn về các lĩnh vực ngành nghề trước khi họ quyết định đầu tư.
- Năng lực của một số nhà ĐTNN còn hạn chế: Do năng lực kinh
doanh của một số nhà ĐTNN bị hạn chế, nhiều dự án FDI đã triển khai bị lỗ
kéo dài ảnh hưởng không nhỏ đến thực hiện pháp luật FDI ở Lào. Một số
nhà đầu tư nước ngoài những năm đầu vào Lào xin cấp giấy phép đầu tư với
mục đích làm dịch vụ bán giấy phép để kiếm lời. Các nhà đầu tư nước ngoài
với mục đích trên, tìm đối tác Lào để ký kết hợp đồng, sau khi được giấy
79
phép đầu tư thì họ chào bán lại cho các hãng khác có nhu cầu. Quá trình
chuẩn bị dự án chưa được quan tâm và thực hiện đúng mức, nhà ĐTNN chưa
chú ý tuân thủ theo những quy định của Nhà nước Lào, nên chất lượng của
một số dự án kém hiệu quả. Một số nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng kẽ hở
của cơ chế, chính sách và luật pháp Lào để làm ăn bất chính, lợi dụng sự yếu
kém về chuyên môn, nghiệp vụ của người Lào trong các liên doanh mà bên
nước ngoài chiếm ưu thế. Phần lớn việc mua thiết bị, dàn xếp các hợp
đồng, điều kiện vay vốn, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm... đều do bên nước
ngoài đảm nhiệm, nên một số dự án, hình thức là liên doanh nhưng thực
chất phía Lào chỉ làm gia công cho phía nước ngoài, không nắm được hiệu
quả thực sự của dự án. Họ đã dùng nhiều thủ đoạn để vô hiệu hóa cán bộ
Lào, đưa liên doanh vào tình trạng thua lỗ thời gian ban đầu, nhằm mục
đích được miễn hoặc giảm thuế.
Hai là, việc áp dùng pháp luật đầu tư chưa được nhất quán. Việc thu hút
và hợp tác ĐTTNN cùng với việc khuyến khích đầu tư trong nước là vấn đề mà
Đảng và Chính phủ Lào đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, tình hình hoạt động đầu
tư thường xuyên thay đổi. Những thay đổi đó không thể không ảnh hưởng trực
tiếp đến việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật trong lĩnh vực này. Hệ
thống chính sách, luật pháp về đầu tư của Lào đang trong quá trình hoàn thiện
nên còn thiếu tính đồng bộ và ổn định, nhiều qui định chưa rõ ràng, thậm chí có
những nội dung mâu thuẫn, chồng chéo. Một số vấn đề cấp bách tuy đã được
nghiên cứu đề xuất từ lâu nhưng vẫn chậm được luật hóa. Một số trường hợp,
tuy đã luật hóa rồi nhưng sau một thời gian dài vẫn chưa có văn bài hướng dẫn
thi hành. Một số quy định còn thiếu cụ thể, dẫn tới những cách hiểu khác nhau,
có những chỗ dẫn chiếu chung chung như: "phải phù hợp với pháp luật Lào"
nhưng thực tế khó có thể tìm thấy các quy định để xác định tính phù hợp đấy
nằm trong những văn bản nào [35, tr.9].
80
Sự thiếu cụ thể của các quy định dẫn đến việc áp dụng pháp luật đầu
tư chưa nhất quán, làm cho các nhà đầu tư cả trong và nước ngoài thiếu an
tâm đầu tư. Mặt khác, thực trạng này làm các cơ quan nhà nước thiếu sự
thống nhất trong thẩm định và cấp phép dự án đầu tư, trong quản lý nhà
nước đối với các dự án đã cấp phép, gây lãng phí công sức và thời gian
nhưng chưa mang lại kết quả mong muốn. Vì vậy, nâng cao tính cụ thể của
pháp luật đầu tư Lào thực sự là yêu cầu bức xúc hiện nay. Pháp luật chỉ có
tác dụng thực sự khi nó không dừng lại ở các quy định chung chung, có
tính nguyên tắc mà phải quy định các mối quan hệ cụ thể giữa những chủ
thể cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể: Đối với CHDCND Lào, Luật
khuyến khích đầu tư trong nước năm 2004 đang có hiệu lực chỉ có 8
chương và 26 điều. Tương tự, Luật khuyến khích và đầu tư trực tiếp nước
ngoài năm 2004 cũng chỉ gồm 8 chương và 32 điều: Nếu so sánh với những
yêu cầu điều chỉnh quan hệ đầu tư thì vẫn còn thiếu. Chỉ riêng tính về số
lượng, có thể thấy ngay rằng các luật này khó có thể tiên liệu được hết các
vấn đề phức tạp phát sinh từ quan hệ đầu tư, điều này càng trở nên rất đặc
biệt bất cập khi hiện nay Lào đang tăng cường chính sách thu hút đầu tư
trong và nước ngoài đầu tư tại Lào. Thực trạng hiện tại của pháp luật đầu
tư chưa cho phép điều chỉnh những vấn đề mới, phức tạp đang nảy sinh và
cần được giải quyết kịp thời và hiệu quả [12, tr. 39].
Hạn chế lớn khác của hệ thống pháp luật đầu tư của nước Lào là sự
thiếu thống nhất của pháp luật trong việc điều chỉnh hoạt động đầu tư. Cụ
thể là chế độ pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư tại Lào được cấu tạo
thành hai bộ phận tương ứng với hai thể loại đầu tư trong nước và ĐTNN.
Giữa hai bộ phận pháp luật đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài có sự
khác biệt tương đối lớn về phạm vi lĩnh vực, thời hạn, thủ tục đầu tư, quyền
và nghĩa vụ của nhà đầu tưĐặc biệt là có sự chênh lệch khá lớn trong
81
chính sách, biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư. Ví dụ: những ưu đãi về
thuế dành cho các nhà ĐTNN là quá lớn so với nhà đầu tư trong nước. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng mức thuế suất, thuế
thu nhập đầu tư nước ngoài là 25%. Trong khi đó, các doanh nghiệp trong
nước phải chịu mức thuế này là 32%. Ngược lại, pháp luật cũng có quy
định về sự hỗ trợ đầu tư, tạo điều kiện đầu tư ưu đãi cho doanh nghiệp
trong nước hơn nhiều so với doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Ví dụ, Nhà nước
hỗ trợ về tín dụng, về giá và phí dịch vụ rẻ... cho các nhà đầu tư trong
nước, nhất là cho doanh nghiệp nhà nước trọng điểm của CHDCND Lào.
Nhìn chung, sự thiếu thống nhất trong pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu
tư tại CHDCND Lào tạo nên tình trạng giữa các nhà đầu tư luôn có tâm lý
suy bì, nảy sinh tư tưởng lo lắng về sự phân biệt, đối xử của Nhà nước. Các
nhà nước đầu tư trong nước nhìn vào các ưu đãi về thuế dành cho nhà đầu
tư nước ngoài mà kêu ca, ngược lại các nhà đầu tư nước ngoài nhìn nhận
các biện pháp hỗ trợ mà Nhà nước dành cho doanh nghiệp trong nước như
một sự phân biệt đối xử. Chính các nguyên nhân trên đã gây ảnh hưởng
không nhỏ tới tình hình đầu tư và thu hút đầu tư ở Lào thời gian qua.
Các quy định về thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư là vấn đề mà các
nhà đấu tư luôn đặc biệt chú ý. Những quy định về lĩnh vực này chủ yếu quy
định dưới luật, rất phức tạp và khó thực thi. Tốc độ xử lý hành chính nói chung
của các cơ quan có trách nhiệm còn rất chậm và phiền hà. Điều này làm chậm
thời gian hình thành và triển khai dự án, cũng đồng nghĩa việc làm mất cơ hội
kinh doanh của nhà đầu tư. Thời gian
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tv_thuc_hien_phap_luat_ve_dau_tu_nuoc_ngoai_o_nuoc_cong_hoa_dan_chu_nhan_dan_lao_hien_nay_8277_19162.pdf