Luận án Thực hiện pháp luật về kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC

NGHIÊN CỨU 9

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 9

1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần

tiếp tục nghiên cứu 24

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH 29

2.1. Khái niệm và đặc điểm của thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh 29

2.2. Nội dung pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, hình

thức và chủ thể thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh 41

2.3. Vai trò và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa

thuận hạn chế cạnh tranh 52

2.4. Thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trên

thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam 62

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH 74

3.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở

Việt Nam hiện nay 74

3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn chế

cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay 82

3.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay 104

CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH

TRANH Ở VIỆT NAM 120

4.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh ở Việt Nam 120

4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về kiểm soát thỏa thuận hạn

chế cạnh tranh ở Việt Nam 125

KẾT LUẬN 151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN 154

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155

PHỤ LỤC 166

pdf182 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thực hiện pháp luật về kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tố phản ánh khả năng chi phối thị trường của nhóm doanh nghiệp tham gia thỏa thuận, không đánh giá hoàn toàn được khả năng gây hạn chế cạnh tranh. Ngoài ra, trong nền kinh tế, mỗi một ngành lại có đặc điểm thị trường riêng, có thể có những thị trường mà ngưỡng thị phần kết hợp tới 30% vẫn chưa đủ tạo hệ quả 79 tác động đến thị trường. Do đó, chỉ sử dụng thị phần là cơ sở duy nhất và quy định chung về một ngưỡng thị phần kết hợp 30% cho tất cả các thị trường, các ngành nghề, lĩnh vực là bất cập của pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam. Ba là, quy định về xử lý vi phạm pháp luật chưa phân định rõ hình thức xử lý đối với từng nhóm TTHCCT bị cấm, căn cứ để xác định mức phạt chưa chính xác và những quy định về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chưa đầy đủ. Mặc dù pháp luật quy định hai nhóm TTHCCT bị cấm tuyệt đối và bị cấm có điều kiện nhưng lại quy định cùng các hình thức xử lý khi vi phạm pháp luật. Hình phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền, trong đó phạt tiền được xác định theo mức "đến 10% tổng doanh thu trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm" đối với từng doanh nghiệp tham gia TTHCCT. Tuy nhiên, pháp luật chỉ quy định về tổng doanh thu một cách chung chung chứ không quy định rõ tổng doanh thu để xác định mức phạt phải là doanh thu trên thị trường liên quan, trong khi "một trong những ý nghĩa quan trọng của việc xác định thị trường liên quan là nhằm xác định mức độ, phạm vi tác động, gây hạn chế cạnh tranh của hành vi thỏa thuận" [15, tr.42]. Các quy định về xử lý vi phạm đối với TTHCCT quy định mức phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm, nhưng lại không quy định về mức phạt tiền tối thiểu. Tuy có quy định nhiều tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng nhưng pháp luật chưa có quy định về giảm nhẹ cho những người vô tình tham gia hoặc những người đã ngưng ngay hành vi TTHCCT khi cơ quan quản lý cạnh tranh can thiệp cũng như chưa có tình tiết tăng nặng cho những người khởi xướng, những người tổ chức, những người đóng vai trò chủ chốt trong một TTHCCT. Bốn là, các quy định về miễn trừ thiếu bao quát, cách tiếp cận về các điều kiện miễn trừ còn đơn giản chưa thực sự đi vào bản chất của TTHCCT. Luật Cạnh tranh 2004 qui định chỉ áp dụng miễn trừ đối với các TTHCCT bị cấm có điều kiện. Trường hợp được xem xét miễn trừ có thời hạn phải đáp ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng: hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh 80 doanh; thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ; thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá; tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa và tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Như vậy, quy định để được miễn trừ bao gồm hai điều kiện: 1) Phải đáp ứng một trong sáu điều kiện cụ thể luật định, 2) Phải đạt được mục đích cuối cùng là hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng. Quy định về miễn trừ được xây dựng theo phương thức liệt kê nên có kết cấu khép kín. Ưu điểm của liệt kê là cụ thể, rõ ràng nhưng nhược điểm chính là khả năng bỏ sót những trường hợp TTHCCT có thể "hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng" nhưng không chứng minh được là thuộc một trong sáu điều kiện xác định trên. Luật Cạnh tranh 2018 (sửa đổi) vẫn tiếp tục theo phương thức liệt kê này. Về tiêu chí, "hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng" là các tiêu chí tích cực, nhưng tích cực đến mức nào đi nữa cũng không bù lại được tác hại của một TTHCCT có thể gây ra, bởi bản chất của TTHCCT là luôn làm hạn chế cạnh tranh trên thị trường, khi đó hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng chỉ là lợi ích ngắn hạn, về lâu dài khi thị trường bị hạn chế cạnh tranh thì chính người tiêu dùng sẽ phải chịu tác hại từ giá độc quyền. Pháp luật cạnh tranh của Liên minh Châu Âu (EU) về miễn trừ cũng đề cao yếu tố "chia sẻ lợi ích cho người tiêu dùng", nhưng đó chỉ là "điều kiện cần", để được hưởng miễn trừ phải kèm theo "điều kiện đủ", đó là những điều khoản về hạn chế trong thỏa thuận phải là những điều khoản cần thiết, không thể thiếu được để đạt được những hiệu quả tích cực trên và thỏa thuận phải không loại bỏ cạnh tranh trên thị trường liên quan [64, tr.48]. Kinh nghiệm của EU có thể là bài học để Việt Nam tham khảo trong quá trình hoàn thiện pháp luật về miễn trừ đối với TTHCCT. Năm là, một số nội dung quan trọng chưa được pháp luật điều chỉnh, dẫn đến pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam thiếu hoàn thiện. Cụ thể như sau: - Chính sách khoan hồng là nội dung phổ biến trong pháp luật về kiểm soát TTHCCT của nhiều nước, được sử dụng như một công cụ quan trọng trong cuộc 81 chiến chống các-ten, nhưng vắng bóng ở Việt Nam. Luật Cạnh tranh 2018 (sửa đổi) đã khắc phục thiếu sót này, nhưng Luật chưa có hiệu lực thi hành. - Thiếu các quy định về trách nhiệm pháp lý cho các cá nhân là quản lý, lãnh đạo doanh nghiệp tham gia TTHCCT và trách nhiệm pháp lý cho hiệp hội. Theo quy định tại Luật Cạnh tranh 2004, đối tượng bị xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát TTHCCT là các doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam. Tuy Bộ luật Hình sự đã quy định hình phạt cho cá nhân tham gia TTHCCT vi phạm nhưng pháp luật cạnh tranh chưa cụ thể hóa về biện pháp xử phạt dành riêng cho lãnh đạo, quản lý của doanh nghiệp để có tác dụng ngăn chặn cao hơn. Luật Cạnh tranh 2004 quy định hiệp hội ngành nghề bao gồm hiệp hội ngành hàng và hiệp hội nghề nghiệp, là đối tượng áp dụng của Luật, tuy nhiên hiện quy định về xử lý vi phạm đối với TTHCCT chưa xem xét chế tài đối với đối tượng hiệp hội ngành nghề. Bộ luật Hình sự 2015 cũng chỉ áp dụng cho đối tượng cá nhân và pháp nhân thương mại. Do đó, chủ thể đặc biệt hiệp hội đã bị bỏ sót trong các quy định về chế tài của pháp luật về kiểm soát TTHCCT. - Quy định về bồi thường thiệt hại trong vụ việc TTHCCT quá chung chung, không đủ cơ sở pháp lý để thực hiện. Tại Điều 117 Luật Cạnh tranh 2004 về các hình thức xử phạt vi phạm pháp luật về cạnh tranh và các biện pháp khắc phục hậu quả có quy định rằng "Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật" và Nghị định số 71/2014/NĐ- CP cũng quy định việc bồi thường thiệt hại được thực hiện theo các quy định của pháp luật về dân sự. Tuy nhiên bồi thường thiệt hại trong vụ việc TTHCCT có điểm khác biệt so với bồi thường thiệt hại của pháp luật dân sự, đó là bồi thường thiệt hại không phải cho các bên tham gia thỏa thuận, mà cho bên thứ ba bị thiệt hại, có thể là người tiêu dùng, các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận, khách hàng và thậm chí là nhà nước; xác định thiệt hại để yêu cầu bồi thường 82 trong vụ việc TTHCCT rất khó vì đòi hỏi phải có phân tích thực tế và kinh tế phức tạp... nên nếu chỉ trên cơ sở các quy định của pháp luật về dân sự thì không đủ để có thể áp dụng bồi thường thiệt hại trong thực tế, hay nói cách khác, hiện đang thiếu một quy định về bồi thường thiệt hại mang tính "chuyên ngành" khi áp dụng bồi trường thiệt hại trong vụ việc TTHCCT. Tóm lại, pháp luật về kiểm soát TTHCCT của Việt Nam chỉ mới hình thành và phát triển trong hơn một thập kỷ qua, nhưng đã có được những kết quả bước đầu trong việc tạo dựng hành lang pháp lý để góp phần bảo vệ môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh, bảo vệ quyền cạnh tranh tự do bình đẳng, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể hoạt động trên thị trường. Những phân tích về các hạn chế, bất cập sẽ là cơ sở để góp phần hoàn thiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT Việt Nam. Thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT là quá trình đưa pháp luật về kiểm soát TTHCCT vào thực tiễn. Những thành tựu, những hạn chế của pháp luật về kiểm soát TTHCCT như trên đều có những tác động tích cực và tiêu cực đến thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay. 3.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Thực trạng thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT được đánh giá thông qua việc thực hiện các nội dung pháp luật với các hình thức thực hiện đa dạng như tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. 3.2.1. Thực trạng thực hiện các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm 3.2.1.1. Thực trạng triển khai thực hiện các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm - Về phía cơ quan quản lý cạnh tranh: Kể từ khi Luật Cạnh tranh 2004 có hiệu lực thi hành, cơ quan quản lý cạnh tranh đã có nhiều nỗ lực để đưa pháp luật về kiểm soát TTHCCT đi vào thực tiễn và tăng cường sự tiếp cận của cộng đồng và doanh nghiệp với các quy định về hành vi TTHCCT và những TTHCCT bị cấm. Chính các chủ thể kinh doanh 83 "cũng đánh giá cao nỗ lực của các cơ quan thực thi pháp luật về cạnh tranh, mà cụ thể là Bộ Công Thương và Cục CT&BVNTD, trong việc đưa các quy định luật vào đời sống doanh nghiệp" [50, tr.43]. + Trong bối cảnh pháp luật về kiểm soát TTHCCT là lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ ở Việt Nam, cơ quan quản lý cạnh tranh đã đặc biệt chú trọng đến công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật nhằm tăng cường sự tiếp cận của cộng đồng và doanh nghiệp. Cơ quan quản lý cạnh tranh đã phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, với các tổ chức khác để tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị và các khóa tập huấn với chủ đề đa dạng, phong phú nhằm trao đổi kiến thức, chia sẻ kinh nghiệm về pháp luật cạnh tranh cho cộng đồng, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước khác. Các hội thảo, tập huấn này không chỉ được tổ chức ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn được tổ chức ở nhiều địa phương khác như Thanh Hóa, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Cần Thơ. Đặc biệt, cơ quan quản lý cạnh tranh đã có sáng kiến thực thi những hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật tập trung hướng tới những doanh nghiệp trong ngành nhất định, đó là các hội thảo về thực thi pháp luật cạnh tranh trong ngành xây dựng (ba hội thảo năm 2012), ngành dược phẩm (2012, 2013), vận tải biển (2013), truyền hình trả tiền (2013), ngành vật liệu xây dựng (2014) và hai hội thảo với chủ đề "10 năm thực thi Luật Cạnh tranh - Góc nhìn từ phía doanh nghiệp" tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 11/2015 đều được nhiều doanh nghiệp quan tâm tham dự. Những hội thảo theo từng chuyên đề để đóng góp cho việc sửa đổi Luật Cạnh tranh 2004 được cơ quan quản lý cạnh tranh tích cực triển khai đã trở thành vấn đề thời sự đối với các nhà nghiên cứu, các hiệp hội và doanh nghiệp thời gian qua. Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng rất chú trọng việc thông tin trên trang web. Trang web của Cục CT&BVNTD ra đời từ tháng 4/2007, thông tin rất đa dạng và phong phú, từ phổ biến pháp luật cơ bản, nghiên cứu nâng cao, thông tin hợp tác quốc tế... đến các chuyên đề chuyên sâu về các-ten, các hành vi thông đồng đấu thầu, kỹ năng điều tra và kinh nghiệm xử lý TTHCCT vi phạm pháp luật và đã được doanh nghiệp đánh giá rằng "Trang web của Cục CT&BVNTD, với kết cấu hợp lý và lượng thông tin đa dạng, thực sự là một nguồn tư liệu hữu 84 ích cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu về pháp luật cạnh tranh và thực tiễn thi hành pháp luật" [50, tr.43]. Ngoài ra, các ấn phẩm cũng là công cụ tuyên truyền phổ biến về pháp luật cạnh tranh hữu hiệu của cơ quan quản lý cạnh tranh. Cơ quan quản lý cạnh tranh đã rất nỗ lực để mà trong bối cảnh một số quy định của luật vẫn còn chưa được quy định cụ thể hóa, thì "các báo cáo thường niên về thực thi luật cạnh tranh... và gần đây nhất là báo cáo rà soát các quy định của luật cạnh tranh của Cục CT&BVNTD đã cung cấp các thông tin bổ ích, và quan trọng cho doanh nghiệp trong việc định hướng và theo dõi các thể chế luật cạnh tranh" [67, tr.16]. Một số ấn phẩm chuyên sâu về kiểm soát TTHCCT như Bộ tài liệu đào tạo "Kỹ năng điều tra cạnh tranh", Sổ tay hướng dẫn quy trình điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh, Báo cáo "Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh hành vi phản cạnh tranh trong hệ thống Dược phẩm tại thị trường Việt Nam"... chứa đựng nhiều thông tin bổ ích. Bản tin cạnh tranh cũng "dần dần đã được cộng đồng độc giả đánh giá cao, mang tính thiết thực trong việc phổ biến pháp luật và chính sách cạnh tranh tới các cơ quan quản lý và cộng đồng xã hội" [68, tr.106]. + Cơ quan quản lý cạnh tranh cũng tích cực thực thi trách nhiệm của mình trong hoạt động tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp. Về hoạt động tư vấn, hỗ trợ gián tiếp, cơ quan quản lý cạnh tranh đã tiến hành nghiên cứu và công bố rất nhiều báo cáo có giá trị tham vấn, như báo cáo tình hình cạnh tranh trong các ngành, lĩnh vực kinh tế năm 2010-2015, các báo cáo rà soát Luật Cạnh tranh các năm 2011, 2012, báo cáo rà soát pháp luật cạnh tranh với pháp luật chuyên ngành năm 2014... Những báo cáo đánh giá này cung cấp cho các chủ thể kinh doanh bức tranh tổng quan về các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, về cấu trúc thị trường, thực tiễn cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường, khung pháp lý, từ đó có thể hỗ trợ cho doanh nghiệp trong xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh của mình. Hoạt động tư vấn, hỗ trợ trực tiếp đã được Cục CT&BVNTD tích cực triển khai, tuy nhiên do phía doanh nghiệp chưa chú trọng sử dụng quyền của mình nên cơ quan quản lý cạnh tranh hiện chủ yếu thực hiện tham vấn, tư vấn cho các lĩnh vực cạnh tranh khác. 85 + Để giám sát hành vi TTHCCT trên thị trường, chấn chỉnh hành vi TTHCCT của doanh nghiệp trong giới hạn pháp luật cho phép, phát hiện các TTHCCT bị cấm, Cục CT&BVNTD đã có rất nhiều nỗ lực trong việc nghiên cứu cấu trúc thị trường, nghiên cứu hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong thực tiễn, từ kết quả hoạt động giám sát tình hình cạnh tranh có thể nhắc nhở chấn chỉnh doanh nghiệp và cũng có thể tiến hành điều tra tiền tố tụng với các hành vi nghi vấn vi phạm pháp luật. Những hoạt động nổi bật như nhắc nhở Hiệp hội Thép Việt Nam về thỏa thuận thống nhất giữ giá thép, phối hợp với Cục Hàng hải (Bộ Giao thông vận tải) rà soát, giám sát việc các hãng tàu biển nước ngoài thu các loại phụ phí đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, tham gia đoàn công tác liên ngành về hiện tượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thao túng thị trường thức ăn thủy sản tại Việt Nam, nghiên cứu vụ việc liên quan đến giá sữa trên thị trường, phối hợp và tổ chức làm việc với các cơ quan, đơn vị có liên quan về tình trạng một số doanh nghiệp bảo hiểm có dấu hiệu thỏa thuận trên thị trường bảo hiểm tàu cá, giám sát các doanh nghiệp truyền hình trả tiền có hành vi thống nhất giá đàm phán mua bản quyền phát sóng chương trình giải bóng đá ngoại hạng Anh, thu thập thông tin để báo cáo Lãnh đạo Cục ra văn bản khuyến cáo Hiệp hội Mía đường Việt Nam về văn bản của Hiệp hội gởi cho các thành viên khuyến cáo không tự ý tăng giá thu mua mía nguyên liệu... Khi cơ quan quản lý cạnh tranh tích cực thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, kết quả là đã góp phần nâng cao ý thức của cộng đồng, giảm thiểu các hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật, môi trường cạnh tranh được lành mạnh hơn. - Về phía doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp Để thực hiện hành vi TTHCCT đúng pháp luật, tránh thực hiện các TTHCCT bị cấm, nhiều doanh nghiệp đã có ý thức chủ động trang bị kiến thức pháp luật, tích cực tham gia các khóa tập huấn, hội thảo về pháp luật cạnh tranh "Chúng tôi đã được tham gia cũng như được biết về hàng loạt các cuộc hội thảo, seminar, trao đổi, thảo luận sôi nổi về Luật Cạnh tranh trong nhiều năm qua" [50, tr.43], qua đó doanh nghiệp không những tham gia để nâng cao kiến thức pháp luật mà còn đóng góp ý kiến để hoàn thiện pháp luật, thể hiện trách nhiệm của mình. 86 Để thực hiện các hành vi TTHCCT theo đúng quy định pháp luật, không rơi vào các TTHCCT bị cấm, trong giai đoạn đầu thực hiện Luật Cạnh tranh 2004, rất ít doanh nghiệp nhận thức và thực hiện theo các quy định này, tuy thế tình hình đã có sự thay đổi rõ rệt trong những năm gần đây, khi nhận thức của doanh nghiệp tăng lên, từ sau năm 2012 đến nay doanh nghiệp đã chủ động tìm hiểu, nhận tư vấn, tham vấn từ các công ty luật, luật sư, bộ phận pháp chế "Chúng tôi cũng đã sắp xếp cho nhiều khách hàng có những buổi làm việc, tham vấn ý kiến của Cục CT&BVNTD về các quy định pháp luật có liên quan" [50, tr.44]. Một số doanh nghiệp đã có ý thức phổ biến pháp luật, xây dựng quy chế tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT ngay trong nội bộ của mình, kết quả điều tra xã hội học của tác giả cho thấy có 18,5% doanh nghiệp sử dụng chuyên gia pháp lý/luật sư tư vấn để thông tin pháp luật cho Hội đồng quản trị, ban giám đốc, tập huấn cho nhân viên về pháp luật cạnh tranh. Tuy nhiên, con số đó còn rất khiêm tốn, thực tế thì "tỷ lệ các doanh nghiệp không biết, không quan tâm đến Luật Cạnh tranh cao, việc áp dụng Luật Cạnh tranh trong kinh doanh chưa được chú trọng..." [50, tr.46]. Vào năm 2009, trong Chiến dịch truyền thông về các hành vi p7hản cạnh tranh do Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam phối hợp với Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên EU-Việt Nam tổ chức từ ngày 14-22/9, tại Hội thảo "Pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh: Kinh nghiệm EU và bài học cho Việt Nam", Cục CT&BVNTD cho biết 01 năm sau khi Luật Cạnh tranh có hiệu lực, Cục có làm một cuộc điều tra và kết quả cho thấy, chỉ có 30% doanh nghiệp biết là có Luật Cạnh tranh, 70% doanh nghiệp không hề biết gì về luật này [26]. Sau 07 năm, 92,8% trong số 500 doanh nghiệp được khảo sát vẫn "chưa hiểu rõ" về Luật Cạnh tranh, chưa kể một lượng lớn doanh nghiệp đã được loại bỏ ra khỏi cuộc khảo sát do "không biết gì", không sẵn sàng trả lời các câu hỏi hoặc từ chối tham gia khảo sát [18]. 87 Đơn vị tính: % Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ doanh nghiệp "hiểu về Luật Cạnh tranh Nguồn: Báo cáo khảo sát doanh nghiệp và phỏng vấn chuyên gia về pháp luật cạnh tranh Việt Nam [18]. Kết quả điều tra xã hội học của tác giả cũng cho thấy dù đã qua hơn 13 năm thi hành pháp luật, vẫn còn có 9,2% doanh nghiệp chưa biết về Luật Cạnh tranh 2004, cho thấy số doanh nghiệp chủ động trang bị kiến thức pháp luật, chấp hành các quy định pháp luật về hành vi TTHCCT và TTHCCT bị cấm rất hạn chế. 3.2.1.2. Thực trạng thực hiện các quy định về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm qua những vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vi phạm pháp luật đã được xử lý Bên cạnh những động thái tích cực triển khai thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT của cơ quan quản lý cạnh tranh, hiệp hội và doanh nghiệp như trên, thực tiễn cho thấy vẫn có rất nhiều hành vi công khai hoặc ngầm từ phía doanh nghiệp, từ các chủ thể khác không đảm bảo tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT. Trong thời gian qua, Cục CT&BVNTD đã ra quyết định điều tra với 04 vụ việc TTHCCT, trong đó có 02 vụ việc đã được Hội đồng Cạnh tranh ra quyết định xử lý. - Vụ việc Thỏa thuận hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới vào năm 2008. Ngày 15 tháng 9 năm 2008, tại Resort Sài Gòn - Mũi Né, số 56, Nguyễn Đình Chiểu, Hàm Tiến, Phan Thiết, Bình Thuận, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam 88 (HHBHVN) đã chủ trì tổ chức Hội nghị các Tổng Giám đốc Phi nhân thọ lần thứ VI (Hội nghị CEO PNT VI). Đây là Hội nghị định kỳ, được tổ chức 6 tháng/lần với nội dung, thời gian được xác định trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị CEO PNT trước đó. Tại Hội nghị CEO PNT VI nêu trên, sau khi nghiên cứu và thảo luận về dự thảo các văn bản thỏa thuận hợp tác, 15 doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) phi nhân thọ tham gia Hội nghị đã thống nhất ký Bản Thỏa thuận hợp tác giữa các DNBH trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới và Điều khoản Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô (sau đây gọi chung là Bản Thoả thuận). Tiếp sau đó, trên cơ sở văn bản của HHBHVN số 226/HHBH/2008 ngày 18 tháng 9 năm 2008 về việc ký kết các văn bản thỏa thuận, thêm 04 DNBH phi nhân thọ khác đã tham gia ký Bản Thỏa thuận nêu trên, nâng tổng số DNBH phi nhân thọ tham gia ký Bản Thỏa thuận lên 19 doanh nghiệp. Bản Thỏa thuận nêu trên có hiệu lực kể từ 01 tháng 10 năm 2008. Cơ quan quản lý cạnh tranh đã vào cuộc và đây là vụ việc TTHCCT đầu tiên được xử lý ở Việt Nam sau khi Luật Cạnh tranh 2004 có hiệu lực thi hành. Hội đồng Cạnh tranh đã quyết định xử phạt các doanh nghiệp tham gia vào Thỏa thuận [41]. Trong vụ việc trên, các doanh nghiệp bảo hiểm chính là các đối thủ cạnh tranh trên cùng một thị trường liên quan, hành vi của các bên thống nhất ký Bản Thỏa thuận hợp tác giữa các DNBH trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới và Điều khoản Biểu phí bảo hiểm vật chất xe ô tô chính là hành vi thỏa thuận có sự thống nhất ý chí giữa các bên, do đó có thể xác định đây là một TTHCCT, cụ thể được quy định tại Khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 "Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp". Cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ cần xác định thị phần kết hợp của các bên ký kết thỏa thuận, nếu "các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên" như quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh 2004 là đủ để xác định các bên đã thực hiện một hành vi TTHCCT bị cấm. Có bốn điều đáng lưu ý từ việc các doanh nghiệp thực hiện hành vi TTHCCT vi phạm pháp luật trên: 89 Thứ nhất, hành vi không tuân thủ pháp luật là công khai, bản Thỏa thuận được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và các thành viên tham gia thỏa thuận đều không hề nhận biết đây là hành vi vi phạm; Thứ nhất, vai trò tổ chức của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam trong việc không tuân thủ pháp luật của các doanh nghiệp thành viên là rõ ràng, tuy nhiên không có chế tài áp dụng để xử lý hiệp hội; Thứ ba, có một số doanh nghiệp (chủ yếu là các hãng bảo hiểm nước ngoài) cũng là thành viên của Hiệp hội Bảo hiểm như AIG, Groupama, UIC, VNI, ACE, Fubon, Liberty và QBE chưa ký vào Bản Thỏa thuận dù Tổng thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam đã có văn bản nhắc nhở, lý do từ chối ký vào Bản thỏa thuận được đưa ra là các doanh nghiệp này nhận thấy Bản thoả thuận có dấu hiệu vi phạm Luật Cạnh tranh. Thứ tư, các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia TTHCCT trên có “nhiều doanh nghiệp bảo hiểm liên đới là doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Bộ Tài chính. Một số doanh nghiệp bảo hiểm đã đến Bộ Tài chính để xin được hỗ trợ” [62, tr.45]. Cơ quan chủ quản của doanh nghiệp, cụ thể là Bộ Tài chính đã không can thiệp vào quá trình phát hiện, điều tra và xử lý vi phạm trong vụ việc TTHCCT này, nhưng qua đó có thể cảnh báo khả năng có sự can thiệp hành chính của các cơ quan chủ quản doanh nghiệp trong thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT ở Việt Nam hiện nay. Như vậy có thể nhận thấy rằng 19 doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm các quy định về hành vi TTHCCT và cấm TTHCCT là do nhận thức. Trong khi các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đã có quá trình, kinh nghiệm tuân thủ pháp luật về kiểm soát TTHCCT thì các doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có những doanh nghiệp hàng đầu, hiểu biết về lĩnh vực pháp luật này rất hạn chế, đó là lý do chính dẫn tới vụ việc vi phạm trên. Vụ việc cũng cho thấy vai trò rất lớn của một hiệp hội trong việc thực hiện pháp luật về kiểm soát TTHCCT, tuy nhiên chính bản thân Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cũng không am hiểu pháp luật về kiểm soát TTHCCT cũng như chưa làm đúng vai trò, chức năng của mình. 90 - Vụ việc TTHCCT trong bảo hiểm học sinh vào năm 2011 tại Khánh Hòa. Vào năm 2011, nhằm tránh cạnh tranh với nhau, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Khánh Hòa đã cùng thống nhất thực hiện một số chế độ và chính sách bảo hiểm học sinh trên toàn địa bàn tỉnh Khánh Hòa, trong đó có mức phí bảo hiểm học sinh, mức trách nhiệm bảo hiểm và chính sách chiết khấu đối với đại lý bảo hiểm và nhà trường. Xuất phát từ thông tin trong bài báo "Hoa hồng bảo hiểm vào trường học" trên báo Tuổi trẻ online ngày 25/9/2011 về việc đại diện công ty, chi nhánh 12 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa đã cùng thỏa thuận tăng phí bảo hiểm học sinh từ 60.000 đồng lên 80.000 đồng. Cục Quản lý cạnh tranh đã tiến hành điều tra và xử lý vụ việc. Kết quả là Quyết định đình chỉ vụ việc TTHCCT do các thành viên tham gia thỏa thuận đã tự nguyện chấm dứt hành vi và khắc phục thiệt hại [42]. Việc "cùng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_thuc_hien_phap_luat_ve_kiem_soat_thoa_thuan_han_che.pdf
Tài liệu liên quan