MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN. .i
LỜI CẢM ƠN . . .ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT. .v
DANH MỤC CÁC BẢNG. .vi
DANH MỤC CÁC HÌNH . .vii
PHẦN MỞ ĐẦU . .1
TỔNG QUAN. . .6
CHƯƠNG 1 .9
MỘT SỐ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ LẠM PHÁT THEO CÁCH TIẾP CẬN MÔ
HÌNH .9
1.1. Giới thiệu chung về lạm phát. . .9
1.1.1. Khái niệm lạm phát . 9
1.1.2. Các chỉ số đo lường lạm phát . 10
1.1.3. Cách tính tỷ lệ lạm phát. 16
1.1.4. Phân loại lạm phát. 16
1.1.5. Tác động của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế . 18
1.2. Một số mô hình phân tích động thái giá cả - lạ m phát .21
1.2.1. Một số mô hình phân tích giá cả - lạm phát theo lý thuyết kinh tế . 22
1.2.1.1. Mô hình đường Phillips. 22
1.2.1.2. Mô hình lạm phát cầu kéo . 23
1.2.1.3. Mô hình lạm phát chi phí đẩy . 26
1.2.1.4. Mô hình lạm phát theo trường phái tiền tệ . 27
1.2.1.5. Mô hình lạm phát theo quan điểm kỳ vọng . 31
1.2.1.6. Mô hình lạm phát theo trường phái cơ cấu. 33
1.2.2. Mô hình kinh tế lượng phân tích động thái giá cả - lạm phát. 37
1.2.2.1. Một số mô hình chuỗi thời gian đơn biến phân tích động thái giá cả - lạm phát. 37
1.2.2.2. Một số mô hình chuỗi thời gian đa biến phân tích động thái giá cả - lạm phát. 41
1.3. Tóm tắt chương 1. .43
CHƯƠNG 2 . 45
PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG DIỄN BIẾN GIÁ CẢ - LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1986-2008 . 45
2.1. Diễn biến lạm phát trong thời kỳ đổi mới . . .45
2.1.1. Giai đoạn 1986-1991. 48
iv
2.1.2. Giai đoạn 1992-1998. 54
2.1.3. Giai đoạn 1999-2003. 56
2.1.4. Giai đoạn 2004-2008. 58
2.2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát Việt Nam giai đoạn gần đây.61
2.2.1. Ảnh hưởng của yếu tố tâm lý, kỳ vọng . 61
2.2.2. Ảnh hưởng của sự thay đổi sản lượng. 63
2.2.3. Ảnh hưởng của sốc giá thế giới . 66
2.2.4. Tác động của tăng trưởng tiền tệ . 68
2.3. Tóm tắt chương 2. .76
CHƯƠNG 3 . 78
XÂY DỰNG MÔ HÌNH PHÂN TÍCH ĐỘNG THÁI GIÁ CẢ - LẠM PHÁT VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN GẦN ĐÂY. 78
3.1 Một số kinh nghiệm nghiên cứu về diễn biến giá cả - lạm phát theo tiếp cận mô hình. .79
3.1.1. Một số nghiên cứu trên thế giới. 79
3.1.2. Một số nghiên cứu về diễn biến giá cả - lạm phát Việt Nam . 87
3.2. Xây dựng mô hình phân tích động thái giá cả - lạm phát theo tiếp cận đường Phillips. .92
3.2.1. Xây dựng mô hình . 93
3.2.2. Mô tả số liệu và thống kê các biến. 96
3.2.3. Đo lường khoảng chênh lệch sản lượng. 97
3.2.4. Ước lượng mô hình và phân tích kết quả . 99
3.3 Xây dựng mô hình phân tích động thái giá cả - l ạm phát theo tiếp cận mô hình kinh tế lượng đơn
biến. . .105
3.3.1. Mô hình ARIMA mùa vụ để dự báo lạm phát ViệtNam. 105
3.3.2. Mô hình phục hồi trung bình phân tích động thái giá cả . 109
3.4. Tóm tắt chương 3. .11 2
KẾT LUẬN. 115
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ . 116
KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO. 119
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ . 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 121
PHỤ LỤC. 128
v
159 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2569 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tiếp cận và phân tích động thái giá cả - lạm phát của Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới bằng một số mô hình toán kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chính phủ đã thực thi
chính sách tiền tệ nới lỏng. Trong khi đó hiệu quả đầu tư của nền kinh tế thấp,
điều này đã dẫn đến sự mất cân đối giữa hàng - tiền. Để giải quyết vấn đề này
từ giữa năm 2007 và đặc biệt là từ đầu năm 2008, Chính phủ đã rất mạnh tay
trong việc thắt chặt tiền tệ. Song cần phải có thời gian để biện pháp này phát
huy tác dụng và do chính sách tiền tệ nới lỏng được thực hiện trong một thời
gian dài nên cũng không thể ngay lập tức giải quyết dứt điểm vấn đề này.
Một trong những nhân tố làm tăng chi phí là việc giá dầu trên thế giới
tăng quá cao và quá nhanh. Tại thời điểm cuối năm 2007, khi giá dầu tăng lên
mức xấp xỉ 100 USD/thùng, thế giới đã đánh giá là quá cao và lo lắng về
những tác động tiêu cực của cuộc hoảng dầu lửa. Đến thời điểm giữa năm
2008, giá dầu đã tăng khoảng 50% lên gần 150 USD/thùng. Giá dầu trên thế
giới tăng quá cao và nhanh là một trong những nhân tố làm suy thoái kinh tế,
gia tăng lạm phát trên toàn cầu. Đối với Việt Nam, ngoài việc chịu tác động
trực tiếp từ việc giá dầu trên thế giới tăng cao thì với một nền kinh tế mà hoạt
động sản xuất dựa rất lớn và nguồn đầu vào từ nhập khẩu, Việt Nam đã buộc
phải nhập khẩu lạm phát từ các nước khác trên thế giới. Nói cách khác là chi
phí sản xuất trong nước tăng lên do giá dầu tăng và giá nhập khẩu các loại
nguyên vật liệu đầu vào của hoạt động sản xuất tăng lên.
Ngoài ra, CPI của Việt Nam tăng cao chủ yếu do sự tăng giá mạnh mẽ
của nhóm hàng lương thực, thực phẩm. Trên thực tế, không đủ căn cứ để
khẳng định cầu trong nước tăng quá nhanh dẫn đến làm tăng giá. Song cuộc
khủng hoảng lương thực trên thế giới ngày càng trầm trọng làm cho giá lương
61
thực trên thế giới tăng cao. Do vậy, mặc dù Việt Nam vẫn đảm bảo an ninh
lương thực cho hoạt động sản xuất và tiêu dùng trong nước, nhưng việc giá
lương thực trên thế giới tăng cao đã thúc đẩy các nhà sản xuất và xuất khẩu
gạo trong nước tính toán lợi ích và tìm cách tăng giá lương thực. Đối với thực
phẩm, nhất là mặt hàng thịt lợn, do tình trạng dịch bệnh có thời điểm bùng
phát đã dẫn đến thiếu cục bộ và đã đẩy giá của mặt hàng này tăng cao.
Cuối cùng, việc Chính phủ thực hiện biện pháp kiểm soát giá đối với
các mặt hàng quan trọng nhằm kiềm chế lạm phát một mặt có tác dụng tích
cực là giữ giá các mặt hàng này trong một thời gian nhất định, qua đó giảm
sức ép đầu vào đối hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Tuy nhiên,
đứng trước tình hình lạm phát tiếp tục leo thang, giá dầu thế giới tiếp tục tăng
cao, điều này cũng tạo ra tâm lý đầu cơ, chờ đợi thời điểm bãi bỏ cơ chế kiểm
soát giá, nhất là thời điểm gần tới thời điểm Chính phủ xem xét lại giá các
mặt hàng thuộc diện kiểm soát.
2.2. Phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát Việt Nam giai đoạn
gần đây
Nền kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến nay được phân ra 4 giai đoạn
như giới thiệu trong mục 2.1. Ứng với mỗi giai đoạn, lạm phát chịu ảnh
hưởng bởi các yếu tố chính khác nhau. Luận án chủ yếu tập trung phân tích
một số yếu tố tác động chính đến lạm phát Việt Nam trong thập kỷ qua.
2.2.1. Ảnh hưởng của yếu tố tâm lý, kỳ vọng
Vào đầu những năm 1990, lạm phát của Việt Nam còn cao hơn bây giờ
nhưng chiều hướng của nó ngày càng giảm. Vai trò của chính sách đúng trong
thời điểm lạm phát này tất nhiên là quan trọng, nhưng có một yếu tố được
đánh giá góp phần khá lớn đến chiều hướng của lạm phát, đó là sự kỳ vọng
của dân chúng.
62
Các kỳ vọng lạm phát tác động đến lạm phát theo 2 góc độ quan trọng.
Trước hết, chúng ảnh hưởng đến mức lãi suất thực, và vì thế mà nó ảnh
hưởng đến bất kỳ tỷ lệ lãi suất danh nghĩa cụ thể nào; thứ hai, chúng ảnh
hưởng đến giá cả và tiền lương, và vì thế nó ảnh hưởng đến lạm phát thực tế
trong giai đoạn tiếp theo.
Kỳ vọng thích nghi và kỳ vọng hợp lý có ảnh hưởng khác nhau lên hiệu
quả quyết sách kinh tế. Nếu dân chúng hành động theo kiểu kỳ vọng thích
nghi thì chính sách sẽ có công hiệu hơn là kỳ vọng hợp lý. Người làm thuê và
người sử dụng lao động không tự nhiên có kỳ vọng giá cả sẽ tăng vọt. Sự hình
thành kỳ vọng ngụ ý rằng lạm phát trong quá khứ lẫn những động thái của
Chính phủ trong hiện tại là cơ sở để tạo ra kỳ vọng lạm phát trong giai đoạn
kế tiếp.
Từ 2003 đến nay, thực hiện chính sách tiền lương tối thiểu mới theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương tám (khóa IX) và kỳ họp thứ tư, Quốc hội (khóa
IX), Chính phủ đã 2 lần điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung (sàn) theo
lộ trình đặt ra trong Đề án cải cách chính sách tiền lương. Trong đó: tháng 10-
2005 điều chỉnh từ 290.000đ lên 350.000đ/tháng (tăng 20,7%) và tháng 10-
2006 điều chỉnh từ 350.000đ lên 450.000đ/tháng (tăng 28,6%). Từ 01/1/2008,
lương tối thiểu tăng lên 540.000 đ/tháng (tăng 20%). Nếu tính cả năm 2003
(trong hơn 4 năm 2003-2008), thì đã có 4 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu
chung và đã được tăng từ 210.000 đồng lên 540.000 đ/tháng, bằng 2,571 lần,
tăng thêm 157,1%. Tuy chưa có kiểm chứng nào về tác động của tăng lương
tới sự biến động giá cả, nhưng vấn đề cải cách tiền lương cũng tạo ra tâm lý
làm giá cả sẽ bị tác động không nhỏ.
Ngoài ra, trong những năm qua NHNN cũng đã đưa vào lưu thông một số
loại tiền mới. Việc đưa vào lưu thông loại tiền mới theo giải thích của NHNN
chẳng qua chỉ là một động tác nghiệp vụ bình thường, nhưng đây cũng có thể
63
được xem như là một trong những nguyên nhân mang yếu tố tâm lý tác động đến
tăng giá tiêu dùng. Việc thông tin tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đã
không thuyết phục được không nhỏ đại bộ phận người dân nên lưu thông loại
tiền mới đã tác động tiêu cực không ít đến tăng giá do yếu tố tâm lý.
Từ năm 2004, nhiều nhà phân tích đã lên tiếng cảnh báo dấu hiệu lạm phát
tăng vọt cách đây đã mấy năm nhưng lúc đó những lời cảnh báo này có lẽ chưa
thu hút sự quan tâm của nhiều người. Việc chưa quan tâm là do việc tăng giá
khi đó đôi lúc bị che đậy bởi những nhân tố khách quan, chẳng hạn như dịch
bệnh, thiên tai và giá dầu thế giới tăng. Hoặc có thể cho rằng đó là một cú sốc
tạm thời và giá sẽ mau chóng trở lại bình thường. Nhưng giá cả đã không bình
thường và người dân có lẽ cũng đã thay đổi kỳ vọng của mình từ đó; từng
ngày, từng ngày theo kiểu kỳ vọng thích nghi. Sự tăng giá này không phải bắt
nguồn từ tăng tiền quá mức, biến động giá tương đối như tỷ giá hay sự thay đổi
cấu trúc của nền kinh tế... mà chịu tác động của yếu tố kỳ vọng, yếu tố tâm lý.
2.2.2. Ảnh hưởng của sự thay đổi sản lượng
Một điều đáng chú ý khi xem xét cơ chế tác động của CSTT đến lạm
phát, là ngoài yếu tố lạm phát kỳ vọng, cần phải xem xét mối quan hệ giữa
GDP thực tế và lạm phát. Khi GDP thực tế đạt mức tiềm năng thì mức sản
lượng không tạo ra sức ép theo hướng tăng lên hoặc đi xuống đối với lạm
phát. Trong trường hợp GDP thực tế cao hơn mức GDP tiềm năng sẽ gây sức
ép lạm phát cao, và ngược lại.
Nghiên cứu quan hệ giữa lạm phát và tốc độ tăng GDP thực tế của kinh tế
Việt Nam trong hai thập kỷ qua cho thấy gia tăng lạm phát thường gắn liền với
tăng trưởng cao hơn (giai đoạn 1992-2007). Tuy nhiên, khi lạm phát đạt đến một
ngưỡng cao nhất định, thì lạm phát bắt đầu tác động tiêu cực lên tăng trưởng
(giai đoạn trước 1992). Tính chung cả giai đoạn 1986-2008, lạm phát và tăng
trưởng có quan hệ ngược chiều. Hệ số tương quan (correlation) của lạm phát và
64
tăng trưởng Việt Nam trong giai đoạn 1986-2007 là –0,61. Giai đoạn 1992-2008,
quan hệ lạm phát và tăng trưởng là thuận chiều, có hệ số tương quan là 0,21.
Dùng phương pháp lọc Hodrick-Prescott để ước lượng sản lượng tiềm
năng trong các năm 1986-2008 (Phụ lục 3), từ đó chúng ta xem xét quan hệ
khoảng chênh lệch sản lượng (GAP) và lạm phát trong giai đoạn này. Khoảng
chênh lệch sản lượng ước lượng theo phụ lục 3 được biểu diễn trên Hình 2.7.
GAP
-0.06
-0.04
-0.02
0
0.02
0.04
0.06
19
86
19
88
19
90
19
92
19
94
19
96
19
98
20
00
20
02
20
04
20
06
20
08
Hình 2.7: Khoảng chênh lệch sản lượng giai đoạn 1986-2008
Trên Hình 2.7, xu hướng biến thiên của khoảng chênh lệch sản lượng từ
năm 1986 đến năm 2008 cũng được chia qua các mốc tương ứng với biến
động lạm phát: giai đoạn 1986-1991 có xu hướng giảm xuống, giai đoạn
1992-1998 có xu hướng tăng lên, giai đoạn 1999-2003 có xu hướng giảm
xuống và giai đoạn 2004-2007 có xu hướng tăng lên. Riêng năm 2008,
khoảng thiếu hụt có xu hướng giảm xuống. Đặc biệt, có giai đoạn thể hiện sự
giảm sút hẳn trong các hoạt động kinh tế thực là giai đoạn 1989-1991, tương
ứng tỷ lệ lạm phát thấp hơn các năm trước đó. Giai đoạn 1989-1991, do ảnh
hưởng của chính sách lãi suất thực dương nên đã hút một lượng tiền lớn gửi
vào ngân hàng, dẫn đến đầu tư giảm vì vậy sản lượng thực tế thấp hơn hẳn
sản lượng tiềm năng, tương ứng tỷ lệ lạm phát giảm. Ngoài ra, giai đoạn này
có sản lượng thực tế giảm hẳn còn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính
Châu Á năm 1997.
65
Sau những năm 2000, Chính phủ đặt ra nhiều biện pháp kích cầu để
kích thích tăng trưởng. Mục tiêu tăng trưởng giai đoạn 2000-2003 đặt ra luôn
cao hơn 7%, giai đoạn 2004-2007 có mục tiêu tăng trưởng lớn hơn 8%.
Tương ứng, tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2004-2008 lại tăng lên.
Bảng 2.2: Mục tiêu và thực tiễn của tỷ lệ tăng trưởng, lạm phát
Đơn vị: %
Năm Các chỉ tiêu Tăng trưởng Lạm phát
Mục tiêu 7,5 < 15 1993-1995
Thực hiện > 8 < 14,5
Mục tiêu 9-10 < 14 1996
Thực hiện 9,3 4,5
Mục tiêu 9-10 7-8 1997
Thực hiện 8,2 3,6
Mục tiêu 8,5-9 < 7 1998
Thực hiện 5,8 9,2
Mục tiêu 5-6 5-6 1999
Thực hiện 4,8 0,1
Mục tiêu 5,5-6 6 2000
Thực hiện 6,8 -0,6
Mục tiêu 7,5-8 < 5 2001
Thực hiện 6,9 0,8
Mục tiêu 7-7,3 3-4 2002
Thực hiện 7,1 4
Mục tiêu 7-7,5 < 5 2003
Thực hiện 7,3 3
Mục tiêu 7,5-8 < 5 2004
Thực hiện 7,7 9,5
Mục tiêu 8,5 < 6,5 2005
Thực hiện 8,4 8,4
Mục tiêu 8 < 8 2006
Thực hiện 8,17 6,6
Mục tiêu 8,5 6,5 2007
Thực hiện 8,47 12,63
Mục tiêu 8,5-9 < 12,63 2008
Thực hiện 6,23 18,89
Nguồn: NHNN, TCTK, và [13]
66
Như vậy, trong giai đoạn gần đây, đặc biệt từ năm 2004-2008, việc
thực hiện các CSTT, CSTK nới lỏng để kích thích tăng trưởng đã góp phần
tăng sản lượng thực tế làm cho sản lượng thực tế càng ngày càng có xu
hướng vượt quá sản lượng tiềm năng. Đồng thời với xu hướng này, giai
đoạn này có tỷ lệ lạm phát tăng lên, thậm chí các năm 2007-2008 có tỷ lệ
lạm phát là hai con số.
2.2.3. Ảnh hưởng của sốc giá thế giới
Do nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, kim ngạch nhập khẩu cao nên sự
biến động của giá cả thị trường thế giới sẽ tác động sâu rộng đến giá cả trong
nước. Các mặt hàng chiến lược như sắt thép, phân bón, xăng dầu ... đều là
những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu. Thép xây dựng được sản xuất trong nước
có các yếu tố từ nguồn gốc nhập khẩu chiếm tới 80-90% (gồm: phôi thép,
thép phế liệu, gạch chịu lửa chất lượng cao, điện cực graphite,…) (xem [30]).
Xăng dầu là sản phẩm phải nhập khẩu 100%. Do đó, giá nhập khẩu tăng cao
sẽ đẩy giá trong nước cao hơn. Ngoài ra, lương thực - thực phẩm là nhóm
hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 10 nhóm hàng hóa tính CPI nên các cú
sốc giá gạo thế giới trong giai đoạn gần đây cũng tác động đến sự biến động
giá trong nước. Trong phần này, Luận án chỉ phân tích đến tác động của sự
biến động giá dầu đến lạm phát ở Việt Nam.
Xăng dầu là mặt hàng rất nhạy cảm vì đây là nguồn năng lượng chính
của nhiều quốc gia trên thế giới. Sự tăng lên của giá xăng dầu thế giới gần đây
đã ảnh hưởng lên nhiều chỉ số vĩ mô của các nước nhập khẩu xăng dầu cao.
Giá dầu thế giới bắt đầu tăng mạnh từ năm 2004. Nếu giá dầu thô thế giới
trung bình trong năm 2003 là 26,84 USD/1 thùng thì năm 2004 là 35,09
USD/1 thùng (tăng 30% so với năm 2003). Giá dầu thế giới năm 2007 trung
bình là 71,55 USD/1 thùng (tăng 103,9% so với năm 2003), nghĩa là tăng hơn
67
100% trong gần 5 năm. Đầu năm 2008, giá dầu còn lên cao hơn nữa, thậm chí
đạt đến gần 150 USD/ 1 thùng. Sau khủng hoảng tài chính ở Mỹ giữa năm
2008, giá dầu trên thị trường thế giới xuống dưới 80 USD/1 thùng. Giá dầu
thô trung bình năm 2008 là 93 USD/1 thùng (xem Hình 2.8).
0
20
40
60
80
100
120
140
19
95
-M
ar
19
97
-M
ar
19
98
-M
ar
19
99
-M
ar
20
00
-M
ar
20
01
-M
ar
20
02
-M
ar
20
03
-M
ar
20
04
-M
ar
20
05
-M
ar
20
06
-M
ar
20
07
-M
ar
20
08
-M
ar
Hình 2.8: Giá dầu thô trên thế giới trong giai đoạn 1995-2008
Nguồn: Số liệu trực tuyến từ
Giá dầu thế giới tăng vọt như vậy đã kéo theo hàng loạt giá của các
mặt hàng có liên quan đến dầu tăng lên nhanh chóng, dẫn đến giá nhập
khẩu tăng lên.
Trong "rổ" tính chỉ số giá CPI với trọng số năm 2005, xăng dầu chiếm tỷ
trọng 9,2% trong đó tác động trực tiếp là 3,3%, tác động gián tiếp là 5,9% do
đó tác động của xăng dầu về mặt lý thuyết thấp, song việc tăng giá xăng dầu
luôn có tác động lan tỏa, thường là khởi nguồn từ tăng giá các mặt hàng khác,
kể cả tăng giá hợp lý hay chưa hợp lý của những hàng hóa trực tiếp bị ảnh
hưởng và mức tăng không có căn cứ của những hàng hóa không trực tiếp hoặc
rất ít liên quan đến xăng dầu. Theo nhóm nghiên cứu ở Tổng công ty xăng
dầu, tác động trực tiếp của tăng giá xăng dầu đến một số lĩnh vực nhạy cảm
của nền kinh tế Việt Nam như sau: Tác động tới giá thành nhiệt điện là tăng
100đ/lít diesel sẽ tăng giá điện thêm 0,07%, tăng giá mazut 100 đ/kg sẽ tăng
giá điện thêm 0,11%. Tác động tới cước vận tải bộ là tăng 100 đ/lít xăng ôtô
68
làm tăng 0,56% giá cước, tăng 100 đ/lít diesel làm tăng 0,3% giá cước. Tác
động tới giá lúa Đồng bằng sông Cửu long (diesel chạy máy bơm) là tăng 100
đ/lít diesel làm giá thành lúa tăng 0,37%. Tác động tới giá ximăng là tăng 100
đ/lít mazut làm giá thành ximăng tăng 0,37%. Tác động tới người dân có xe
máy là với mức tiêu hao 3 lít xăng ôtô/100 km và quãng đường bình quân từ
500-600 km/tháng, mỗi người tiêu dùng lẻ phải chi thêm từ 15.000-20.000
đ/tháng khi giá xăng ôtô tăng thêm 1000 đ/lít (xem [30]).
-3
2
7
12
17
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 0
20
40
60
80
100
120
Lạm phát Giá dầu
Hình 2.9: Quan hệ giá dầu thế giới và lạm phát Việt Nam giai đoạn 1995-2008
Hình 2.9 thể hiện một sự trùng hợp, giai đoạn lạm phát của Việt Nam
tăng vọt lên từ năm 2004 cũng là giai đoạn giá dầu thô của thế giới tăng
cao nhất kể từ cuộc chiến vùng vịnh năm 1990. Giá dầu thế giới tăng chắc
chắn không tránh khỏi có tác động tới sự tăng giá của thị trường trong
nước. Tuy nhiên, mức độ tác động còn là một vấn đề mà nhiều nhà kinh tế
đang tranh luận.
2.2.4. Tác động của tăng trưởng tiền tệ
Năm 1963, nhà kinh tế học Friedman đã tuyên bố "lạm phát luôn luôn và
lúc nào cũng là một hiện tượng của tiền tệ" (xem [21, tr. 167]). Kết hợp lý
69
thuyết số lượng tiền tệ trong mục 1.2.1.4 đưa chúng ta đến chỗ nhất trí cho
rằng tốc độ tăng khối lượng tiền tệ là nhân tố đầu tiên quyết định tỷ lệ lạm
phát. Nghĩa là việc mở rộng cung tiền kéo dài thì cũng sẽ đẩy lạm phát tăng
lên. Những người theo trường phải này xem nguyên nhân cốt lõi của lạm phát
trong nền kinh tế là từ việc in tiền quá nhiều, còn mọi nguyên nhân khác đều
là thứ yếu hoặc là một cú sốc tạm thời. Do đó, giải pháp căn bản để giảm lạm
phát là phải giảm tăng cung tiền.
Nếu theo quan điểm Friedman thì lạm phát Việt Nam trong giai đoạn
gần đây cũng có thể được xem là lạm phát tiền tệ vì có nhiều bằng chứng ủng
hộ cho cho lập luận này. Một dấu hiệu nổi bật là tốc độ tăng tiền rộng M2.
Trong gần 10 năm qua, để thực thi chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng,
Chính phủ đã thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng. Tuy nhiên việc kéo dài
chính sách nới lỏng tiền tệ đã tác động đến cân đối tiền - hàng và đẩy mặt
bằng giá của Việt Nam liên tục gia tăng. Cụ thể, trong ba năm 2005-2007,
cung tiền tăng 135% nhưng GDP chỉ tăng 27%. Tốc độ tăng tổng phương tiện
thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng năm
2006. Tính đến 31/12/2007, tổng phương tiện thanh toán tăng 46,7% so với
31/12/2006, trong đó tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng tăng
46,88%. Số dư tiền gửi của hệ thống ngân hàng năm 2007 tăng 350,431 tỷ
đồng, tương ứng 46,88% so với cuối năm 2006. Tổng dư nợ cho vay của nền
kinh tế năm 2007 tăng 57,53% so với năm 2006, trong đó dư nợ cho vay bằng
VND tăng 56,74% và cho vay bằng ngoại tệ tăng 60,5% [28, tr. 24]. Ngoài ra,
luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006
khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu
tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh
(Bảng 2.3). Đứng trước bối cảnh này, NHNN đã phải cung ứng một lượng lớn
70
tiền VND để mua vào khoảng hơn 7 tỷ USD nhằm mục tiêu ổn định và phá
giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này có
nghĩa là một lượng tiền đồng tương đương được đưa vào lưu thông làm cho
tổng phương tiện thanh toán tăng cao.
Bảng 2.3: Thay đổi dự trữ ngoại hối của Việt Nam 2000-2006
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Dự trữ 3417 3675 4121 6224 7041 9051 13384
Thay đổi 90 258 446 2103 817 2009 4334
Nguồn: [15, tr. 80]
Ngoài ra, nếu đem so sánh mức tăng tiền rộng M2 với Thái Lan và
Trung Quốc giai đoạn 1998-2007 thì thấy rằng mức tăng hàng năm này của
Việt Nam trung bình khoảng 32%, gấp đôi mức tăng của Trung Quốc và gấp
năm lần so với Thái Lan (Hình 2-4).
0.0
10.0
20.0
30.0
40.0
50.0
60.0
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Trung Quốc Thái Lan Việt Nam
Nguồn: Số liệu của ADB
Hình 2.10: Tăng trưởng M2 của Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc giai
đoạn 1998-2007
Ngoài ra, lấy tỷ phần M2/GDP để so sánh mức độ giao dịch bằng tiền
của Việt Nam giai đoạn 1998-2007 cho thấy mức độ giao dịch bằng tiền tăng
cao trong giai đoạn này (Hình 2-8).
71
28.4
35.7
50.5
58.1 61.4
67.9 74.4
82.3
94.8
118.0
0.0
20.0
40.0
60.0
80.0
100.0
120.0
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Nguồn: Số liệu của ADB
Hình 2.11: M2/GDP của Việt Nam giai đoạn 1998-2007
Với các lập luận như trên, chúng ta cũng có thể kết luận ủng hộ quan
điểm Friedman, tốc độ tăng M2 đóng vai trò khá lớn làm lạm phát Việt Nam
tăng cao trong 5 năm qua 2004-2008.
Tuy nhiên, xét một cách khách quan, tốc độ tăng cung tiền của Việt Nam
ở mức cao không chỉ xảy ra trong giai đoạn có lạm phát cao 2004-2008 mà đã
xảy ra từ năm 2000, tức là trong giai đoạn nền kinh tế có lạm phát thấp (Hình
2-9). Với số liệu mức tăng cung tiền của IMF (cũng có biểu diễn tương tự Hình
2-9 với số liệu của ADB) đều chưa khẳng định được sự biến động lạm phát phụ
thuộc nhiều vào mức tăng trưởng cung tiền. Một số nhà kinh tế còn cho rằng,
mức độ tăng cung tiền cao là một "đặc tính riêng" của Việt Nam [15, tr. 79].
-2
0
2
4
6
8
10
12
14
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
lạm phát tốc độ tăng M2
Nguồn: Số liệu lạm phát Việt Nam từ TCTK, số liệu M2 từ IMF
Hình 2.12: Lạm phát và tốc độ tăng M2 từ 1996-2007
72
Trên Hình 2.12, giai đoạn những năm 2000, cung tiền M2 tăng rất cao
nhưng tỷ lệ lạm phát ở mức thấp. Trong giai đoạn này, quan hệ tiền tệ - giá
cả không tuân theo quy luật kinh tế thông thường. Điều này lý giải việc ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế Châu Á đến kinh tế Việt Nam. Ngoài ra,
điều này góp thêm nhận định về yếu tố kỳ vọng có tác động đến biến động
giá của Việt Nam.
Theo Trương Quang Hùng và Nguyễn Hoài Bão [16], ở Việt Nam với
số liệu 2000-2003 thì quan hệ giữa tăng CPI và tăng cung tiền là không có
xu hướng như phần lý thuyết đề cập (mục 1.2.1.4), tức là cung tiền tăng
không thể hiện tác động đến lạm phát tăng. Theo các tác giả thì việc tăng
giá của Việt Nam giai đoạn đó không bị tác động nhiều bởi cung tiền tăng
mà có thể bị ảnh hưởng bởi các cú sốc cung từ việc tăng giá dầu, giá thép
nhập khẩu. Với số liệu theo quý từ 1997-2004, Bùi Duy Phú cũng tìm thấy
trong ngắn hạn, tác động của tăng cung tiền tới tăng giá cả của Việt Nam là
không lớn.
Như vậy, xem xét diễn biến lạm phát trong hơn thập kỷ qua, đặc biệt
từ năm 2004, lý giải nguyên nhân chính từ tăng trưởng cung tiền vẫn chưa
thực sự thuyết phục khi so sánh với giai đoạn lạm phát thấp mà tăng
trưởng cung tiền cao như những năm 2000. Lập luận do tăng trưởng cung
tiền bị động vì tăng dự trữ ngoại tệ của NHNN cũng chưa thuyết phục vì
khi so sánh với Trung Quốc thì thấy rằng NHTW của họ cũng phải mua
vào một lượng lớn ngoại tệ nhưng diễn biến lạm phát không giống như ở
Việt Nam (xem [15]). Ngoài ra, lập luận tỷ phần M2/GDP của Việt Nam
tăng cao cũng chưa được nhất trí vì tỷ phần M2/GDP của Trung Quốc và
Thái Lan hầu như cao hơn Việt Nam (Bảng 2.4).
73
Bảng 2.4: Tỷ phần M2/GDP của Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc
Trung Quốc Thái Lan Việt Nam
1998 133.4 102.7 28.4
1999 146.1 104.7 35.7
2000 150.5 102.2 50.5
2001 162.7 102.1 58.1
2002 175.9 98.7 61.4
2003 189.2 95.0 67.9
2004 158.9 91.5 74.4
2005 162.5 90.7 82.3
2006 165.0 87.3 94.8
2007 161.7 98.0 118.0
Nguồn: ADB
Để góp thêm một kênh nhìn nhận tác động tăng trưởng M2 trong hơn
thập kỷ qua, đặc biệt trong giai đoạn trước năm 2004 và giai đoạn lạm phát
cao 2004-2008, Luận án xét quan hệ nhân quả giữa tốc độ tăng cung tiền M2
và tỷ lệ lạm phát cho giai đoạn tháng 1 năm 1995 (1995M1) đến tháng 10
năm 2008 (2008M10) và giai đoạn 1995M1-2003M12. Xét các mô hình:
12 12
1
1 1
_ _ 2t t i t i t i t i i
i i
g CPI g CPI gM uβ β γ− − − −
= =
= + + +∑ ∑ (2.1)
12 12
1
1 1
2 _ 2t t i t i t i t i i
i i
gM g CPI gM uβ β γ− − − −
= =
= + + +∑ ∑ (2.2)
trong đó: g_CPIt = lạm phát tính theo CPI quý t so với quý t-1
gM2t = tốc độ tăng cung tiền M2 quý t so với quý t-1
74
• Nguồn số liệu: Lạm phát được tính dựa trên CPI của TCTK, tốc độ
tăng M2 được tính dựa trên số liệu M2 theo quý của IMF.
• Kiểm định tính dừng của các chuỗi thời gian bằng kiểm định ADF
được cho bởi Bảng 2.5.
Bảng 2.5: Kiểm định ADF về tính dừng của chuỗi lạm phát và tốc độ tăng
M2 giai đoạn 1995M1-2008M10
Test Statistic
Augmented Dickey-Fuller Test
Constant Constant and Trend
Variable
Level Level
g_CPI - 3,241** -3,647**
gM2 -3,399** -3,412*
Chú ý: Kí hiệu *,
**, *** cho biết biến đang xét dừng với mức ý nghĩa
tương ứng là 10%, 5%, 1%
• Ước lượng mô hình (2.1) giai đoạn 1995M1-2008M10, và kiểm tra
khuyết tật thấy mô hình không có khuyết tật tự tương quan hay phương sai
thay đổi, phần dư là nhiễu trắng. Kiểm định bác bỏ biến trễ gM2 trong mô
hình (2.1), cho thấy không nên bỏ các biến trễ gM2 ra khỏi mô hình (2.1).
Tương tự, ước lượng mô hình (2.2) và kiểm tra thấy mô hình không có khuyết
tật. Kiểm định bỏ các biến trễ g_CPI cho thấy nên bác bỏ các trễ này. Do đó,
chúng ta có thể kết luận rằng: trong giai đoạn 1995-2008, cung tiền M2 tăng
có ảnh hưởng đến sự biến động lạm phát. Bảng 2.6 về kết quả kiểm định nhân
quả Granger về quan hệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng M2 giai đoạn 1995M1-2008M10,
75
cho thấy: với mức ý nghĩa 0,10 tốc độ tăng cung tiền M2 là nguyên nhân làm tăng lạm
phát ở Việt Nam.
Bảng 2.6: Kiểm định nhân quả Granger quan hệ lạm phát và tốc độ tăng
M2 giai đoạn 1995M1-2008M10
Pairwise Granger Causality Tests
Sample: 1995M01 2008M12
Lags: 12
Null Hypothesis: Obs F-Statistic Probability
gM2 does not Granger Cause g_CPI 154 1.66248 0.08258
g_CPI does not Granger Cause gM2 1.43926 0.15630
Nguồn: Phụ lục 4.
Hoàn toàn tương tự, xét quan hệ nhân quả về tốc độ tăng trưởng cung
tiền M2 và lạm phát cho giai đoạn 1995M1-2003M12 bằng kiểm định
Granger được cho ở Bảng 2.7.
Bảng 2.7: Kiểm định nhân quả Granger quan hệ lạm phát và tốc độ tăng
M2 giai đoạn 1995M1-2003M12
Pairwise Granger Causality Tests
Sample: 1995M01 2003M12
Lags: 12
Null Hypothesis: Obs F-Statistic Probability
gM2 does not Granger Cause g_CPI 96 1.19096 0.30650
g_CPI does not Granger Cause gM2 0.87886 0.57159
Nguồn: Phụ lục 4.
76
Kết quả kiểm định nhân quả Granger cho thấy không có mối quan hệ
nhân quả nào giữa tốc độ tăng trưởng cung tiền M2 và lạm phát trong giai
đoạn 1995M1-2003M12. Điều này thống nhất với một số phân tích định tính
ở trên.
Như vậy, với chuỗi số liệu 1995M1-2003M2 cho thấy cung tiền không
phải là nguyên nhân làm biến động lạm phát. Mở rộng chuỗi số liệu 1995M1-
2008M12 thì cho thấy cung tiền có tác động lên sự biến động giá trong giai
đoạn này. Do vậy, giai đoạn 2004-2008 đã thể hiện tác động của yếu tố tiền tệ
lên lạm phát.
2.3. Tóm tắt chương 2
Với phần trình bày thực trạng diễn biến lạm phát Việt Nam giai đoạn
1986 - 2008 và phân tích một số nguyên nhân tác động đến sự biến động lạm
phát, Luận án có một số nhận xét như sau:
Trước hết, xem lại g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiếp cận và phân tích động thái giá cả - lạm phát của Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới bằng một số mô hình toán kinh tế.pdf