Luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - Nhìn từ góc độ thể loại

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU.1

1. Lý do chọn đề tài.1

2. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu .2

3. Phương pháp nghiên cứu.3

4. Đóng góp của luận án .4

5. Cấu trúc của luận án .4

NỘI DUNG .5

Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .5

1.1. Các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam.5

1.2. Các quan niệm về đặc trưng thể loại .14

1.2.1. Quan niệm về kết hợp hài hòa giữa lịch sử và hư cấu nghệ thuật.15

1.2.2. Quan niệm đề cao yếu tố “hư cấu” như là đặc trưng của tiểu thuyết lịch sử.17

1.2.3. Quan niệm coi trọng yếu tố “lịch sử” hơn “hư cấu”. .19

1.3. Quan niệm của luận án về tiểu thuyết lịch sử và các xu hướng tiểu thuyết lịch

sử Việt Nam đương đại.21

1.3.1. Quan niệm của luận án về tiểu thuyết lịch sử và cơ sở lý thuyết để nghiên cứu đề

tài.21

1.3.2. Quan niệm về các xu hướng tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.24

Tiểu kết chương 1.31

Chƣơng 2. XU HƢỚNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ BÁM SÁT SỬ LIỆU .32

2.1. Khái quát xu hướng tiểu thuyết lịch sử bám sát sử liệu.32

2.2. Một số đặc điểm nội dung của xu hướng tiểu thuyết lịch sử bám sát sử

liệu.34

2.2.1. Nguyên lí chính nghĩa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc .34

2.2.2. Xây dựng hình tượng con người mang khát vọng lịch sử theo nguyên mẫu .39

2.2.3. Chuyện thế sự đời tư với hình tượng con người trần thế.44

2.3. Một số đặc sắc nghệ thuật cơ bản của xu hướng tiểu thuyết lịch sử bám sát sử

liệu.48

2.3.1. Đổi mới cấu trúc tiểu thuyết lịch sử chương hồi.48

2.3.2. Kỹ thuật đa điểm nhìn .52

2.3.3. Kết cấu cốt truyện ghép mảnh .59

2.3.4. Ngôn ngữ đa phong cách .63

2.3.5. Cấu trúc các lớp không gian tạo khung cốt truyện.65Tiểu kết chương 2.69

Chƣơng 3. XU HƢỚNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ DỤ NGÔN HÓA SỬ LIỆU70

3.1. Khái quát về xu hướng tiểu thuyết lịch sử dụ ngôn hóa sử liệu.70

3.2. Nội dung giáo huấn thực tiễn mang ý nghĩa thời sự .73

3.2.1. Giáo huấn về lòng yêu nước.73

3.2.2. Giáo huấn về chính trị - tôn giáo .81

3.2.3. Giáo huấn về đại đoàn kết dân tộc.86

3.2.4. Giáo huấn về chủ nghĩa nhân đạo.91

3.3. Các hình thức nghệ thuật nổi bật của tiểu thuyết lịch sử dụ ngôn hóa sử liệu.96

3.3.1. Đan xen người kể chuyện toàn tri và hạn tri .96

3.3.2. Ngôn ngữ chính luận.99

3.3.3. Thời gian tuyến tính biên niên sử .102

3.3.4. Hư cấu các lớp thời gian đa chiều .105

Tiểu kết chương 3.110

Chƣơng 4. XU HƢỚNG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ĐỐI THOẠI VỚI SỬ

LIỆU.111

4.1. Khái lược về xu hướng tiểu thuyết lịch sử đối thoại với sử liệu.112

4.2. Nội dung luận giải cụ thể trên tinh thần đối thoại .115

4.2.1. Đối thoại về các vấn đề tâm linh .115

4.2.2. Đối thoại về lịch sử đổi mới và thống nhất đất nước .120

4.2.3. Đối thoại về bản thể con người.126

4.2.4. Đối thoại về lịch sử kết đọng trong chiều sâu số phận con người .127

4.3. Một số phương diện nghệ thuật đối thoại .130

4.3.1. Đối thoại giải thiêng thần tượng là nhân vật có thật qua những góc khuất lịch

sử .130

4.3.2. Hư cấu, dự phóng về “lịch sử mới” qua nhân vật hư cấu hoàn toàn.138

4.3.3. Ngôn ngữ biện giải .143

 

pdf176 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 640 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - Nhìn từ góc độ thể loại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h có thể thắng lợi nhưng không chắc chắn trăm phần trăm [...] Võ Nguyên Giáp kết luận: Đó là sự tự sát nếu đưa chiến sĩ vào một trận đánh mà không chuẩn bị chống pháo binh, xe tăng và máy bay của địch. Tôi ra lệnh hoãn trận đánh mở màn [...] Tôi yêu cầu chấp hành tuyệt đối không thảo luận, không giải thích. Chúng ta đã kiên quyết chọn phương châm đánh chắc tiến chắc [...] Quyết định thay đổi kế hoạch tác chiến là một trong những quyết định quan trọng nhất, một trong những quyết định khó khăn nhất trong đời làm tướng của tôi” [53; 282, 283]. Một nhà sử học nổi tiếng người Pháp tên là Georges Boudarel đã ghi lại sự thật lịch sử nói về quyết định mang tính lịch sử- quyết định khó khăn nhất của tướng Giáp trong một trình nghiên cứu lịch sử của ông: “sau 9 đêm kéo pháo vào trận địa theo 12 km đường mòn xuyên qua rừng rậm đến tận đỉnh núi, 77 các cỗ pháo đã sẵn sàng nhả đạn thì được lệnh kéo pháo xuống núi rút về vị trí an toàn. Tướng Giáp và Bộ Chính trị quyết định hoãn lệnh tiến công để chuyển sang phương châm đánh chắc bằng một loạt trận tiến công từng bước, chậm hơn nhưng liên tục, chắc thắng hơn một cuộc tiến công nhanh và ồ ạt” [42; 203]. Võ Nguyên Giáp chỉ huy đo đếm khoảng cách rải pháo đến các cứ điểm của Pháp rất chính xác, đào hệ thống hầm hào như những vòi bạch tuộc tỏa ra rồi chụm lại, tiến vào vị trí trung tâm, cô lập quân Pháp. Tướng Giáp lăn lộn trên chiến trường, “quyết liệt ở trên những căn hầm sở chỉ huy” và “không khoan nhượng ở bàn nghị sự quốc tế”. Qua đó, người đọc tự rút ra được nhiều bài học quý báu về nghệ thuật quân sự, lòng yêu nước, chống xâm lược, tự giải phóng đời mình dưới ánh sáng của cách mạng. Nhìn chung, cấu trúc cốt truyện của các tác phẩm trong xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu thường có hàng loạt nhân vật lịch sử là những con người có thật trong đời sống quá khứ, có những vai trò khác nhau được lồng ghép trong cốt truyện và các lớp cấu trúc thể loại, mà ở đó các nhà văn tập trung vào nội dung trung tâm là sự thử thách của nhân vật lịch sử trong việc chọn lựa lẽ sống, đường đời theo quy chuẩn đạo đức ở những tình huống quyết định của lịch sử có liên quan đến vận mệnh của toàn dân tộc trước nạn ngoại xâm. Chủ thể trần thuật hiện lên như một người đi tìm lại lịch sử và sẽ miêu tả, đưa ra những đánh giá về kết quả của sự lựa chọn, thử thách được bắt đầu và kết thúc ở các nhân vật có thật theo đúng quy luật khách quan của lịch sử, câu chuyện lịch sử được kể trên tinh thần đặc biệt coi trọng tính chân thực, khách quan mà sử liệu đã ghi chép, song một số chi tiết cũng được hư cấu hợp lý trong giới hạn của nguyên tắc thể loại. Khi đọc “Không phải huyền thoại”, người đọc sẽ nhận ra những bài học về lòng yêu nước, chiến lược binh pháp, công tác giáo dục chính trị tư tưởng được đúc rút từ hiện thực lịch sử gắn với các sự kiện và nhân vật có thật, được tái hiện lại trong những “hiện thực kinh nghiệm” của các nhà văn theo nguyên tắc thể loại và những đặc trưng riêng của văn học. Từ đó, người đọc buộc phải nhìn thấy hiện thực lịch sử trong các sự kiện và nhân vật có thật, tin vào lịch sử bằng thái độ trân trọng, tôn kính, tìm ra phương hướng cho thực tiễn qua nhiều bài học lịch sử sinh động, hấp dẫn, thú vị được đúc rút từ các hình tượng nghệ thuật tiêu biểu cho những tấm gương người thật việc thật trong vô vàn mối quan hệ của đời sống quá khứ. Nhà văn đã miêu tả cụ thể, chân thực, sống động chân dung, tính cách của hình tượng nhân vật Võ Nguyên Giáp trong mối quan hệ với Bác Hồ, quần chúng nhân dân, các văn nghệ sĩ, những sĩ quan, binh sĩ, các cố vấn quân sự nước ngoài và kẻ thù xâm lược, làm sống lại không khí lịch sử thời đại. Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn là người đã biết huy động, nhân lên sức mạnh đoàn kết của toàn quân, toàn dân, hiểu binh sĩ, phát huy sự sáng tạo của từng người lính ở những thời điểm quyết định để bày binh bố trận tài tình, thực hiện “lối đánh du kích” chiến lược để từng người dân tham gia đánh địch trên mọi mặt trận, làm tiêu hao sinh lực địch, tiến tới tổng tiến công khi thời cơ đến, làm nên chiến thắng 78 Điện Biên Phủ lịch sử “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Dưới sự chỉ huy của Đại tướng, những người lính cần cù, sáng tạo đã đưa ra nhiều phát kiến mới, họ đã tạo ra lối đánh mới, góp phần vô hiệu hóa vũ khí hiện đại của giặc ngoại xâm. Ví như sáng kiến dùng “con cúi để chống đạn bắn thẳng”; “đào hào đánh lấn xuyên qua hàng rào dây thép gai dày đặc của địch”, rồi bất ngờ “đội đất chui lên tiêu diệt địch” [207]. Hữu Mai đã miêu tả trong những thời khắc quyết định của lịch sử, những anh hùng đã lấy thân mình chèn pháo để kéo pháo lên mặt trận là những đồi cao, vực sâu, thậm chí có người anh hùng đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai để tạo điều kiện thuận lợi đồng đội xông lên diệt kẻ thù xâm lược. Đại tướng chỉ huy khắc phục sự khắc nghiệt của địa hình bằng việc dùng xe đạp thồ để tiếp lương tải đạn, “vô hiệu hóa hỏa lực của Pháp”, đánh sập “pháo đài bất khả xâm phạm” của Pháp đặt tại núi rừng Tây Bắc. Điều này được thể hiện qua những dòng viết của Võ Nguyên Giáp mà sử liệu còn ghi chép, trích dẫn trực tiếp: “Quân đội của chúng ta vượt núi, xuyên rừng để làm đường kéo pháo lên Điện Biên Phủ. Ở đó không thể có đường sá, các khẩu pháo chỉ nhờ có mồ hôi và công sức của chiến sĩ mà được đưa vào vị trí” [53; 285]. Nhà văn Hữu Mai đã dụ ngôn hóa sử liệu để truyền đến người đọc nhiều bài học giáo huấn sâu sắc qua các hình tượng nghệ thuật là nhân vật lịch sử có thật như Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh. Sử liệu vẫn còn ghi chép lại tư tưởng giáo huấn của Võ Nguyên Giáp một cách khách quan, chân thực từ góc nhìn của một nhà sử học nổi tiếng của Hoa Kỳ- con người đã chứng kiến hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của Việt Nam: “Võ Nguyên Giáp biết rằng ông không thể một sớm một chiều biến những người dân quê thành những người lính quân đội quốc gia nếu không giáo dục cho họ một tinh thần trung thành và hăng hái phục vụ cách mạng. Ông biết thiếu giáo dục chính trị, sự chạm trán đầu tiên với một kẻ thù có trang bị tốt hơn sẽ dẫn đến sự tháo chạy tán loạn. Ông phải rèn quân đội không những về ý chí mà còn phải rèn luyện cả về thể chất. Ông viết: Một sự giáo dục sâu sắc về mục tiêu của Đảng, trung thành trong mọi thử thách với lý tưởng dân tộc và giai cấp, một tinh thần hy sinh tất cả là những điểm căn bản đối với quân đội [...] Từ đó công tác chính trị có tầm quan trọng hàng đầu. Đó là linh hồn của quân đội. Phân tích đến cùng, trong mọi cuộc chiến tranh, thắng lợi được quyết định bởi quần chúng sẵn sàng đổ máu trên chiến trường” [53; 239]. Một nhà sử học người Pháp Georges Boudarel cũng cho rằng chiến dịch giáo dục tư tưởng của Võ Nguyên Giáp được mở trên cùng một mặt trận giữa lúc chiến đấu khốc liệt là “một trong những thành công lớn của công tác chính trị trong lịch sử chiến đấu của quân đội ta” [42; 209]. Qua hình tượng Võ Nguyên Giáp được miêu tả trong nhiều tình huống của tác phẩm, người đọc còn nghiệm ra nhiều bài học trong công tác giáo dục thể hiện lòng yêu nước qua chính những lời nói, quan điểm của Đại tướng mà sử sách vẫn còn ghi: “Đào tạo đội ngũ thầy giáo có trình độ quốc tế là vấn đề quyết định để đổi mới, hiện đại hóa nền giáo dục nước nhà. Coi trọng việc lựa chọn đúng 79 cán bộ quản lý giáo dục [...] Những cán bộ ấy phải là những người có tâm và có tầm, có phẩm chất đạo đức và năng lực, trí tuệ năng động, sáng tạo, không bảo thủ giáo điều, có uy tín, có cách làm việc tập hợp được nhân tài, phát huy được trí tuệ của chuyên gia giỏi, hết lòng vì sự nghiệp giáo dục [...] giáo dục [...] còn có sức mạnh tạo ra những định hướng giá trị về văn hóa, đạo đức, thẩm mĩ và tinh thần thúc đẩy sự phát triển tiến bộ cả xã hội” [236; 354]. Nhìn chung, xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu thực hiện mục đích giáo huấn gián tiếp qua các hình tượng lịch sử, nên tính chất dụ ngôn được hình thành ổn định trong lòng thể loại gắn với việc trần thuật chuỗi sự kiện lịch sử với nhiều nhân vật có thật để truyền đến người đọc những bài học kinh nghiệm qua các nhân vật lịch sử có thật trong những bối cảnh sử cụ thể. Như vậy có thể nói, tính chất dụ ngôn hóa sử liệu được thể hiện qua các bài học giáo huấn ngầm ẩn trong hình tượng nhân vật lịch sử có thật được miêu tả xuyên suốt tác phẩm. Một dẫn chứng khác trong “Tám triều vua Lý”, Hoàng Quốc Hải đã kết hợp tài tình giữa yếu tố lịch sử và hư cấu để sắp xếp, miêu tả nhiều hình tượng nghệ thuật mang tư tưởng giáo huấn đạo trị bình, giáo dục truyền thống yêu nước như hình tượng nhân vật vua Lý Thái Tổ (còn gọi là Lý Công Uẩn). Đây là bậc hiền tài cứu nhân độ thế, cứu nước giúp đời, lo việc quốc gia đại sự, làm cho quốc thái dân an. Sử liệu vẫn còn ghi chép về các phẩm chất đạo đức cao đẹp của vua Lý Thái Tổ: “Vua họ Lý, húy là Công Uẩn [...] Vua ứng mệnh trời thuận lòng người, nhân thì mở vận, là người khoan từ nhân thứ, tính mật ôn nhã, có lượng đế vương” [77; 159]. Một nguồn sử liệu khác cũng ghi chép về nhân vật lịch sử này: “Lý Công Uẩn thực sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng triều Lý làm rạng danh nước Đại Việt, viết nên những trang sử oah liệt dựng nước và giữ nước” [49; 76]. Công Uẩn lúc nào cũng ghi nhớ lời giáo huấn của thầy về đạo trị bình: “Đạo làm vua phải lấy nước làm trọng. Nước phải lấy dân làm trọng, không có dân thì không có nước và không có vua”. Việc trước mắt đối với vua là “phải làm cho dân sinh được no ấm, dân trí được khai mở, dân tâm được yên định, xã hội được thái bình, cái thiện được ở ngôi” [121; 225, 257]. Lý Công Uẩn răn dạy hoàng tử nối ngôi về việc quan trọng nhất để ổn định một quốc gia là phải ổn định chính trị, kinh tế, giáo dục, ai cũng có việc làm, ai cũng có cơm ăn áo mặc, phải nuôi dưỡng hiền tài và tận dụng được hết người tài trong nước, cắt đặt đúng người đúng việc, phát huy sở trường của họ, biết dùng hiền tài vào đại nghiệp của đất nước: “Đối với kẻ sĩ thì hết lòng cung kính, tin dùng họ, sắp đặt họ vào nơi then máy của quốc gia” và “những người tài trí đều được trọng dụng”, “không phân biệt tôn giáo” [121; 275]. Vua Lý Thái Tổ chọn Lý Đức Chính (Lý Phật Mã)- con trưởng, có “tâm thiện”, “siêng năng học hành, có lòng thương kẻ khó, không xa dời dân lao khổ” để sau này nối ngôi và sử liệu đã chép lại sự kiện có thật này một cách chính xác: “Ngày Kỷ Hợi, thái tử là Phật Mã lên ngôi ở trước linh cữu, tôn mẹ là Lê thị làm Linh Hiển thái hậu, đại xá thiên hạ” [77; 170]. Vua Lý Thái Tổ “muốn trao cho con mình cái tâm thiện để chăn dắt muôn 80 dân”, phải lắng nghe những “điều nói thật” và “người làm vua phải biết gần các bề tôi trung thực, thẳng thắn thì đất nước vững mạnh. Người trung thực như một loài ngọc quý, tự thân nó đã đẹp”. Vua căn dặn, giáo huấn đạo làm tướng là “phải bảo vệ trung thần bằng cách trao cho họ những trọng trách quốc gia”, “phải học được sự thành bại của đời trước, để bước đi của ta thêm vững vàng” [121; 191, 579, 582- 587]. Lý Công Uẩn truyền dạy con về các chính sách đối ngoại với phương Bắc: “phải hết sức tỉnh giác chính sách tằm ăn dâu lấn hết đất ta”, chúng “lấn cướp phi pháp”, “rồi bắt mình phải bỏ văn hóa, phong tục, tập quán”, “cách ăn mặc”, “bỏ cả tiếng nói của mình để xong cuộc đồng hóa của họ”. Vua giáo huấn con phải làm cho dân giữ gìn tiếng mẹ đẻ, vì “mất tiếng nói, mất phong tục tập quán [] thì sẽ mất đứt dân tộc và mất luôn cả Tổ quốc” [121; 594, 595]. Lý Công đã cho các con mình đi khắp nơi mở phủ để sống chung với dân, thực hiện chính sách thân dân, bình dị gần dân để hiểu mọi nỗi niềm, hạnh phúc, đau khổ, vui, buồn của dân. Việc làm này của vua xuất phát từ lòng yêu thương dân, trọng dân trong cái tâm thiện của nhà Phật, cùng dân nghĩ theo một hướng. Trước khi trao ngôi báu, vua cha giáo huấn con mọi việc phải làm “trên nền tảng của cái thiện” và phải biết “thương dân” [121; 580]. Đối thoại với giáo dục, vua căn dặn các nhà sư phải giáo huấn các con của ngài và lớp trẻ “nuôi dưỡng nguồn tâm”, phải biết “cần lao”, “kính cẩn”, “lễ nghĩa”, “liêm sỉ”, “không làm các việc trái với đạo lý, trái với lương tâm” [121; 114, 118]. Vua Lý Thái Tổ đã chỉ ra cho con cái lợi của việc miễn thuế để hợp lòng dân, làm thế nước hưng thịnh, rồi ngài dùng chính sách “ngụ binh ư nông” [121; 622] để nông phu được rèn luyện binh khí, sẵn sàng ra trận khi có biến cố, tăng gia sản xuất của cải vật chất, thay nhau tập hợp về lộ luyện tập võ nghệ, giữ kỉ cương quân đội, ngài nói: “phải rèn luyện binh bị cho tinh, tuần cảnh nghiêm ngặt ngày đêm nơi biên ải” [121; 53, 275]. Tư tưởng đối thoại của vua Lý còn thể hiện sâu sắc trong việc ngoại giao với nước láng giềng, vua cho “những người có sức học rộng, lại biện bác giỏi sang sứ nước Tống để kết mối bang giao” [121; 67, 276]. Đối thoại với dân chúng, vua dùng các lời đối thoại rất mộc mạc, giản dị, dễ hiểu, dễ tiếp nhận, phù hợp với trình độ hiểu biết, nhận thức của quần chúng nhân dân để khích lệ mọi người hoàn thành trách nhiệm, bổn phận với quốc gia dân tộc, mang phúc hạnh đến muôn nhà. Vua di dân, phân tích thời cơ, phong thủy, địa thế để quyết định dời đô từ vùng núi Hoa Lư (Ninh Bình) chật hẹp về vùng đồng bằng rộng lớn, đất đai màu mỡ, giao thông thuận tiện, thế đất cao mà thoáng ở Đại La (Thăng Long- Hà Nội ngày nay) để “đem lại cho dân, cho nước sự an lạc và giàu thịnh”. Sử liệu vẫn còn ghi chép lại sự kiện vua Lý Thái Tổ rời đô: “Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp, chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác [...] về thành Đại La, ở giữa khu vực trời đất, có thế rồng cuộn hổ ngồi, ở giữa Nam- Bắc- Đông- Tây, tiện hình thế núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chỗ cao mà sáng sủa, dân không khổ về ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh” [77; 160]. Việc dời đô Việc dời đô hợp với ý trời và lòng dân, vì Đại La là nơi kết tụ “anh linh, tú khí” để phát triển mọi mặt, mang hạnh phúc đến muôn đời. Vua đặc biệt coi trọng “dân sinh”, “dân trí”, “dân 81 tâm”, phải làm cho dân “có cái tâm thiện” thì mới “nhìn thấu nhẽ đục trong”, “giữ tính cần cù, kiệm ước”, tuyệt đối không để cho bậc quyền thế kéo bè kết cánh mà hại dân” [121; 135, 323]. Đối thoại với lịch sử phòng thủ và giữ nước của dân tộc, khi quân Tống chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thái Tổ rất tỉnh táo, sáng suốt để điều khiển binh tướng trong chiến lược quân sự, ngài vạch ra kế sách đánh bại quân xâm lược Tống và Chiêm. Sau khi chiến tranh kết thúc, vua Lý đối nhân xử thế rất khôn khéo, vừa răn đe kẻ thù xâm lược nước ta, vừa duy trì hòa bình “không nên gieo hận cho cả nước người ta”. Vua Lý Thái Tổ cử Phùng Chân và Lý Thạc là những người “giỏi văn chương, lý sự biện bác giỏi, lại có lòng tự tôn dân tộc mình, đất nước mình” [121; 288] đi sứ Trung Quốc để thiết lập ngoại giao sau chiến tranh. Tác giả kết hợp yếu tố lịch sử và sự hư cấu tài tình để khắc họa rõ nét nhân vật có thật, miêu tả nhất quán, quản lý suy nghĩ, tâm lý, lời nói, ứng xử của nhân vật phù hợp với tâm thức người đọc đã biết trước về nhân vật lịch sử có thật theo nguồn sử liệu, việc miêu tả ấy gắn với thái độ yêu mến, kính trọng, biết ơn, cảm phục, ngợi ca và những tình cảm thẩm mỹ của nhà văn dành cho vua Lý Thái Tổ. Có thể nói, đặc điểm ổn định trong cấu trúc thể loại của các tác phẩm viết theo xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu là các bài học giáo huấn giàu ý nghĩa được hiện diện như những “ẩn ý” trong câu chuyện lịch sử cụ thể, dễ hiểu gắn với các sự kiện và nhân vật có thật theo tư tưởng, lập trường nhất định để gợi dẫn về cách cư xử đúng đắn, lẽ sống chuẩn mực dựa trên nguyên tắc đạo lí, chính nghĩa mà người đọc có thể suy luận, thảo luận để hiểu những chân giá trị mới ẩn chìm trong các hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa biểu tượng, để áp dụng trong cuộc sống đương đại đối với những điều mà họ quan tâm. Nhìn chung, tuyến nhân vật có thật gồm có các nhân vật chính diện, đóng vai trò là nhân vật chính, được xây dựng theo kiểu cấu trúc nhân vật tính cách, theo nguyên mẫu kết hợp với hư cấu, đại diện cho chính nghĩa, sự tiến bộ, cái đẹp, cái thiện, chân lí, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa của thời đại để gửi gắm các bài học giáo huấn. Lời nói và hành động, tâm lý của nhân vật tính cách được miêu tả nhất quán trong toàn tác phẩm. 3.2.2. Giáo huấn về chính trị - tôn giáo Một trong những biểu hiện của sự cách tân thể loại về mặt nội dung của các tác phẩm thuộc xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu nhằm mục đích giáo huấn, đó là đề cập đến các vấn đề tôn giáo gắn với con người tâm linh nhằm gửi gắm các bài học giáo huấn về chính trị. Trước đây, các nhà văn thường rất ngại đề cập đến các vấn đề tôn giáo gắn với con người tâm linh, sợ bị phê phán sa vào tư tưởng mê tín dị đoan mù quáng theo tà đạo. Nhưng thật ra thì không phải thế, nếu nhà văn có lập trường vững vàng, kiểm soát tốt, biết khơi sâu vào phát huy mặt tốt, ngăn chặn và lên án, phê phán các biểu hiện sai trái, cực đoan của vấn đề nói trên khi đưa vấn đề ấy vào tác phẩm, thì vẫn có thể tạo ra những sản phẩm tinh thần có ý nghĩa xã hội lớn lao, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nhìn chung, tính chất dụ ngôn hóa sử liệu thể hiện các bài học giáo huấn về chính trị thông qua các hình tượng nghệ thuật gắn với vấn đề tôn giáo là một trong những đặc điểm giúp cho giáo lí nhà Phật thâm 82 sâu, huyền diệu, nhiệm màu, giàu tính triết lí nhưng vẫn biện chứng, dễ hiểu, gần gũi với đời sống, đạo hòa với đời và phát huy vai trò tích cực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước hết, chúng tôi hiểu cụm từ “con người tâm linh” là khái niệm miêu tả con người trong các vấn đề tôn giáo, văn hóa tâm linh. Con người tìm đến với văn hóa tâm linh để định tâm, sống ung dung, tự do, tự tại, bình thản, vô vi, nhập thế, hướng thiện, an lạc giữa cuộc đời, từ bỏ tham- sân- si, biết từ bi hỉ sả, diệt dục vọng- vô minh trong con người, trút bỏ mọi khổ đau, hiểu được quy luật của sự sống trong lẽ vô thường, thấm nhuần tư tưởng Phật giáo biện chứng để tâm trong, trí sáng, hướng vào giải quyết các việc đại sự của quốc gia dân tộc và cuộc sống nhân sinh thế sự. Con người tâm linh còn được hiểu thông qua các nhân vật thiền sư nhập thế, hòa giữa đạo và đời bằng tư tưởng tích cực, các vị thiền sư vừa là thầy giáo khai mở trí huệ cho nhân dân, các bậc vua hiền, tướng giỏi, vừa là thầy thuốc chữa bệnh và dạy dân cách chữa bệnh bằng các cây thuốc vườn nhà, hướng nhân dân nuôi dưỡng tâm thiện để kiến tạo một xã hội văn minh, lịch sự, đầy yêu thương. Các thiền sư còn tham gia vào hoạt động xã hội, đóng góp công lớn trong việc cố vấn, tham mưu cho các vị vua anh minh sáng suốt giữ vững và bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Qua các hình tượng thiền sư, ta thấy sự hòa hợp giữa đạo pháp và lợi ích của quốc gia dân tộc, đạo hòa với đời, thấm đẫm tư tưởng yêu nước và nhân đạo là nét nổi bật của Phật giáo Việt Nam. Những bài kệ, lời sấm truyền của các bậc thiền sư đã góp phần khích lệ tinh thần dân tộc, làm cho nhân dân tin vào điều thiện, luôn có những suy nghĩ, hành động hướng thiện, tránh xa các điều ác, hành động vì độc lập, tự do của dân tộc. Khi chủ quyền của quốc gia dân tộc bị các thế lực ngoại bang xâm phạm, những lời sấm kệ của thiền sư, tư tưởng Phật giáo biện chứng, tích cực, thấm đẫm lòng yêu nước và các giá trị nhân văn chính là ngọn lửa truyền ý chí, nghị lực, bản lĩnh, thắp sáng niềm tin trong lòng toàn thể dân tộc Việt Nam để hướng vào nhiệm vụ cứu nước, bảo vệ chủ quyền của quốc gia. Tất cả các nhà sư đều cầm súng lên đường chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Đó là những hành động thiết thực thể hiện sự kết hợp nhuần nhị giữa đạo và đời, khẳng định vai trò của các bậc thiền sư trong buổi đầu dựng nước. Những điều nói trên thể hiện rất rõ trong “Tám triều vua Lý” của Hoàng Quốc Hải, ví dụ như sư Vạn Hạnh là hình tượng mẫu mực, kết tinh đỉnh cao của tư tưởng Phật giáo và sử liệu vẫn còn ghi lại vài dòng ngắn ngủi về vị sư này: “Vạn Hạnh với uy tín sẵn có đã thuyết phục được số người này (dân chúng bất bình với tội ác của vua Lê Long Đĩnh) đưa học trò của mình lên ngôi: con đường tiến tới ngôi vua của Lý Công Uẩn không gặp cản trở nào” [174; 168]. Một nguồn sử liệu khác cũng ghi chép về sư Vạn Hạnh: “Lúc Lý mới lập cơ nghiệp sư Vạn Hạnh đã có ảnh hưởng nhiều. Từ đời Lê, sư có tiếng là một kẻ tiên tri” [127; 300]. Vạn Hạnh là nhà sư có công lớn trong việc nuôi dạy, đào tạo ra các bậc vua thiện đức, kiến tạo bộ máy lãnh đạo của triều đình nhà Lý, đưa đất nước phát triển trong hòa bình, ổn định, giàu mạnh, gắn kết tư tưởng tích cực của các tôn giáo, nhất là tư tưởng Phật giáo biện 83 chứng, tích cực với chủ trương “Tam giáo đồng nguyên” và vận mệnh của quốc gia dân tộc. Mọi tư tưởng tôn giáo tích cực đều hướng về phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại đặt vấn đề bảo vệ quốc gia dân tộc lên hàng đầu như nhà Lý, vì thế vua Lý rất coi trọng đạo Phật và sử liệu vẫn còn ghi chép về sự thật lịch sử này: “Nhà Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nhà vua trọng đãi những người đi tu, lấy tiền kho ra để làm chùa đúc chuông”[154; 99]. Tác giả đã chọn lựa, tổ chức sắp xếp số lượng lớn các nhân vật là các nhà sư, cao tăng, thiền sư, đạo sĩ thời Lý, làm toát lên tư tưởng tôn giáo biện chứng tích cực đã thấm sâu vào cuộc đời, chứ không siêu hình, không mê tín dị đoan. Chính quan điểm biện chứng tích cực về các vấn đề tôn giáo gắn với con người tâm linh đã chi phối sự triển khai cốt truyện, tổ chức các lớp kết cấu của tác phẩm. Giáo lý nhà Phật thấm sâu trong tác phẩm, đó là thứ triết lý luôn vận động, hướng đến những điều nhân văn, sự văn minh, tiến bộ. Tư tưởng Phật giáo nguyên sơ trong sạch, cao khiết, biện chứng, tích cực luôn được các nhà văn chiêm nghiệm, đối thoại trong những khát vọng nhân bản mang tầm phổ quát của nhân loại. Một nguồn sử liệu khác cũng ghi chép về đạo Phật thời Lý: “Với tính cách ôn hòa, thần bí, Phật giáo chóng ăn sâu vào lòng tín ngưỡng người Việt [...] Ba tông giáo Nho, Lão, Phật đã sớm thành cơ bản của tín ngưỡng dân Việt, và đồng thời tiến triển. Cho nên thường gọi là Tam giáo [...] thời nhà Lý, Phật giáo chiếm bậc nhất. Sư Pháp Thuận giúp Lê Hành, sư Vạn Hạnh giúp Lý Thái Tổ, sư Khuông Việt giúp Đinh Tiên Hoàng [...] chỉ có kẻ tăng đồ có đủ thì giờ để đọc nhiều, hiểu rộng [...] Năm 1019, Lý Thái Tổ lại độ dân khắp nước để làm tăng [...], các tăng giữ những việc giảng kinh hay giáo hóa [...] ảnh hưởng các vị ấy đối với chính trị cũng không ít [...] ảnh hưởng các nhà sư ban đầu trực tiếp tới chính trị” [127; 291- 301]. Các hoạt động sinh hoạt văn hóa cộng đồng thấm đẫm bản sắc tôn giáo, tín ngưỡng của các sắc tộc được các tác giả tái hiện một cách sinh động và độc đáo trong các lễ hội truyền thống đều nhằm gắn kết để tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Chúng ta có thể tìm thấy tư tưởng tôn giáo tích cực “Tam giáo đồng nguyên” và Phật giáo, hình tượng các bậc thiền sư, đạo sĩ, cao tăng giáo huấn các vị vua nhà Lý trong đạo trị bình, chăm lo đời sống nhân dân, xây dựng và bảo vệ đất nước trong “Tám triều vua Lý” của Hoàng Quốc Hải. Các bài học giáo huấn về chính trị qua những tư tưởng đối thoại thẩm mỹ và hành động của các nhân vật theo chủ trương “tam giáo đồng nguyên” và tư tưởng Phật giáo thấm đẫm giá trị nhân văn (bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan) định hướng “nhân đạo hóa con người” là nguồn cội để xây dựng đất nước phồn thịnh ở thời Lý, ví như việc “vua sai phát chăn chiếu cho tù, và cấp cho một ngày hai bữa cơm”. Vì thế, nhiều đời vua Lý đã thấm nhuần tư tưởng nhân đạo của Phật giáo để có những hành động thiết thực, sống gần dân, lấy dân làm gốc, yêu thương dân, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân để làm thất bại các âm mưu “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “bạo loạn lật đổ” của giặc ngoài qua việc giặc xúi giục hoàng tử Húc của Đại Việt kích động dân nổi loạn. Đây là bài học giáo huấn sâu sắc 84 về chính trị- tôn giáo để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở giai đoạn đương đại, có ý nghĩa thời sự ở mọi thời đại. Để miêu tả con người tâm linh, các nhà văn thường dùng bút pháp huyền thoại hóa với nhiều yếu tố hoang đường, kì ảo, mang tính chất hư cấu tưởng tượng để tạo sức hấp dẫn người đọc qua cách dẫn dắt các câu chuyện khéo léo tài tình, đan cài cõi dương thế và chốn âm phủ, thần tiên, ma quái, Trời, Phật, tôn giáo, tín ngưỡng, phong thủy, lễ bái, sự gặp gỡ, đối thoại, kết nối giữa người sống và người chết theo kiểu trần sao âm vậy... Từ đó, tạo nên các hình tượng thực ảo trong không khí tâm linh huyền bí đặc biệt của xu hướng TTLS dụ ngôn hóa sử liệu, kích thích trí tưởng tượng, làm người đọc nửa tin nửa ngờ với vô vàn trạng thái cảm xúc. Qua đó, người đọc suy cảm về cuộc đời và số phận con ngườ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_tieu_thuyet_lich_su_viet_nam_duong_dai_nhin_tu_goc_d.pdf
  • pdfQUYẾT ĐỊNH NN VÀ DS HỘI ĐỒNG.pdf
  • pdfTHÔNG TIN TÓM TẮT VỀ NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN.pdf
  • pdfTÓM TẮT ENGLISH, BV CẤP TRƯỜNG.pdf
  • pdfTÓM TẮT TV, BV CẤP TRƯỜNG.pdf
Tài liệu liên quan