MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN . i
DANH MỤC CÁC CHỮ VẾT TẮT.iv
DANH MỤC HÌNH, BẢNG TRONG LUẬN ÁN. v
MỞ ĐẦU. 1
Chương 1. 9
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN. 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu . 9
1.1.1. Một số công trình nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng nói chung. 9
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về tín ngưỡng Địa Mẫu. 18
1.2. Cơ sở lý luận . 32
1.2.1. Một số khái niệm. 33
1.2.2. Các lý thuyết . 38
Tiểu kết. 42
Chương 2. 44
TÍN NGƯỠNG ĐỊA MẪU NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ THỰC TIỄN. 44
2.1. Những vấn đề chung về tín ngưỡng Địa Mẫu. 44
2.1.1. Nguồn gốc Địa Mẫu. 45
2.1.2. Danh xưng Địa Mẫu. 48
2.1.3. Hình tượng Địa Mẫu . 52
2.1.4. Kinh Địa Mẫu. 58
2.1.5. Nghi lễ thực hành . 64
2.1.6. Phân biệt giữa “Địa Mẫu” và “Mẫu Địa” . 66
2.2. Thực tiễn về nơi thờ Địa Mẫu tại Hà Nội và một số tỉnh thành Bắc Bộ . 70
2.2.1. Thờ Địa Mẫu tại Hà Nội . 71
2.2.2. Thờ Địa Mẫu tại tỉnh Hưng Yên . 80
2.2.3. Thờ Địa Mẫu tại tỉnh Hải Dương. 81
2.2.4. Thờ Địa Mẫu tại tỉnh Vĩnh Phúc. 83
2.2.5. Thờ Địa Mẫu tại tỉnh Phú Thọ . 86
2.2.6. Thờ Địa Mẫu tại tỉnh Hòa Bình . 87
Tiểu kết. 90
Chương 3. 91
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TÍN NGƯỠNG ĐỊA MẪU TẠI
ĐÌNH ỨNG THIÊN, CHÙA VÂN HỒ VÀ ĐIỆN THỜ HỌ NGUYỄN Ở HÀ
NỘI. 91
3.1. Tín ngưỡng Địa Mẫu tại Đình Ứng Thiên . 91
3.1.1. Giới thiệu về đình Ứng Thiên . 91
3.1.2. Quá trình hình thành, phát triển tín ngưỡng Địa Mẫu . 93iii
3.1.3. Nhận xét về tín ngưỡng Địa Mẫu tại đình Ứng Thiên. 103
3.2. Tín ngưỡng Địa Mẫu tại chùa Vân Hồ. 107
3.2.1. Giới thiệu về chùa Vân Hồ. 107
3.2.2. Quá trình hình thành, phát triển tín ngưỡng Địa Mẫu . 107
3.3.3. Nhận xét về tín ngưỡng Địa Mẫu tại chùa Vân Hồ . 114
3.3. Tín ngưỡng Địa Mẫu tại điện thờ tư gia họ Nguyễn. 118
3.3.1. Giới thiệu về điện thờ họ Nguyễn. 118
3.4.2. Quá trình hình thành và phát triển tín ngưỡng Địa Mẫu. 119
3.3.3. Nhận xét về tín ngưỡng Địa Mẫu tại điện thờ họ Nguyễn. 133
Tiểu kết. 135
354 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tín ngưỡng địa mẫu ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành đọc kinh Địa Mẫu của vị nữ thần nào
tại điện thờ họ Nguyễn năm 2019 và năm 2022
Chỉ tiêu Năm 2019 Năm 2022
Có Không Có Không
Điện thờ
Họ Nguyễn
Địa Mẫu 70 - 50 -
Mẫu Địa 6 64 3 47
Hậu Thổ Nguyên
Quân
6 64 2 48
Nguồn: Xử lí kết quả điều tra bảng hỏi của NCS
* Thành phần người tham dự
Tại điện thờ Họ Nguyễn thành phần tham dự các buổi nghi lễ thực hành
tín ngưỡng Địa Mẫu chủ yếu là anh chị em, con cháu trong gia đình dòng họ.
Ngoài ra một số bạn bè từ mối quan hệ của các anh em nhà ông Phương.
- Từ (bảng 3.13) thống kê về giới tính tham dự đến lễ tại điện năm 2019
thì nữ giới chiếm 71,1%, nam giới 22,9% và năm 2022 thì cũng chiếm tỷ lệ
nam chiếm 30% và nữ 70% . Kết quả này cho thấy tại điện thờ tư gia thì tỉ lệ
nữ giới đến cúng lễ cao hơn và có sự chênh lệch rõ rệt giữa nữ giới và nam giới,
mặc dù chủ điện thờ là nam giới.
Bảng 3.13: Thống kê về giới tính người đi lễ tại điện thờ họ Nguyễn
năm 2019 và năm 2022
Chỉ tiêu Năm 2019 Năm 2022
Tần số
(người)
Tần suất
(%)
Tần số
(người)
Tần suất
(%)
Điện thờ Họ
Nguyễn
Nam 16 22.9 15 30.0
Nữ 54 77.1 35 70.0
Tổng 70 100.0 50 100.0
Nguồn: Xử lí kết quả điều tra bảng hỏi của NCS
- Về độ tuổi người đi lễ tại điện thờ (bảng 3.14) năm 2019 số người từ
125
55 tuổi trở lên chiếm 47.1%, tiếp đó tới độ tuổi 35- 54 chiếm 30% và sau cùng
là độ tuổi 18-34 chiếm 22.9%. So với năm 2019 thì năm 2022 có sự thay đổi rõ
ràng số người độ tuổi 35-54 chiếm tới 66.0%, sau đó đến các độ tuổi khác. Từ
kết quả khảo sát cho thấy sau hai năm dịch bệnh thì điện thờ họ Nguyễn có sự
thay đổi về độ tuổi người tham dự lễ tại điện. Phải chăng sau dịch bệnh con
người thấy bất an và khi các cơ sở công cộng đã mở cửa nhưng họ vẫn bất an
vì sợ nơi đông người vì vậy họ đến điện thờ lễ để tránh tụ tập đông người.
Bảng 3.14: Thống kê về độ tuổi người đến lễ tại điện thờ họ Nguyễn
năm 2019 và năm 2022
Chỉ tiêu Năm 2019 Năm 2022
Tần số
(người)
Tần suất
(%)
Tần số
(người)
Tần suất
(%)
Điện thờ
Họ
Nguyễn
Từ 18-34 16 22.9 4 8.0
35-54 21 30.0 33 66.0
Từ 55 trở
lên
33 47.1 13 26.0
Tổng 70 100.0 50 100.0
Nguồn: Xử lí kết quả điều tra bảng hỏi của NCS
- Từ bản (bảng 3.15) thống kê thành phần đến lễ tại điện thờ họ Nguyễn
vào năm 2019 người đến tham dự đông hơn nhưng lại không đa dạng nghề
nghiệp như năm 2022. Trong các ngành nghề thì kinh doanh là nghề chiếm
tỷ lệ cao nhất cả năm 2019 và năm 2022, sự đa dạng ngành nghề của người
đi lễ đã cho thấy công việc nào cũng có những khó khăn nhất định và đi lễ
để giảm những bất an, lo lắng trong cuộc sống. Do vậy khi có niềm tin vào
vị thần thánh nào thì con người sẽ trao gửi và nhờ cậy vị thần đó bảo trợ cho
bản thân và gia đình họ.
126
Bảng 3.15: Thống kê về thành phần người đi lễ tại điện thờ họ Nguyễn
năm 2019 và năm 2022
Chỉ tiêu Năm 2019
Tần số (người) Tần suất
(%)
Điện thờ Họ
Nguyễn
Giáo viên 9 12.9
Hưu trí 11 15.7
Kế toán 8 11.4
Kinh doanh 23 32.9
Lái xe 9 12.9
Nội trợ 7 10.0
Thủ kho 1 1.4
Trang điểm 1 1.4
Về hưu 1 1.4
Total 70 100.0
Chỉ tiêu Năm 2022
Tần số (người) Tần suất
(%)
Điện thờ Họ
Nguyễn
Buôn bán 5 10.0
Cán bộ nhà nước 1 2.0
Công nhân 1 2.0
Giáo viên 7 14.0
Kế toán 1 2.0
Kinh doanh 20 40.0
Kỹ sư 1 2.0
Lái xe 2 4.0
Nội trợ 10 20.0
127
Nguồn: Xử lí kết quả điều tra bảng hỏi của NCS
- Mục đích các tín đồ đi lễ tại điện thì cầu về sức khỏe chiếm tỷ lệ 100%
trong cả hai năm, sau đó đến cầu cho người thân đã mất và cầu kinh doanh bất
động sản. Tại điện thờ tư gia dường như ai đến lễ tại điện cũng hiểu về nguồn
gốc của điện thờ vì vậy theo hướng giải thích thì nguồn gốc xuất hiện của điện
thờ cũng có tác động đến các tín đồ, do đó ngoài những mong cầu về sức khỏe
thì họ cũng rất mong được gặp lại người thân đã mất giống như gia đình họ
Nguyễn đã trải qua. Do đó họ đến lễ Địa Mẫu tại điện thờ họ rất chú trọng đến
cầu xin Địa Mẫu không chỉ bảo trợ cho người sống mà bảo trợ cho cả những
người đã mất.
Bảng 3.16: Thống kê mục đích mong cầu khi lễ tại điện thờ Họ Nguyễn
năm 2019 và năm 2022
Chỉ tiêu Năm 2019 Năm 2022
Có Không Không trả
lời
Có Không Không trả
lời
Điện
thờ Họ
Nguyễn
Cầu sức khỏe, bình
an
70 - - 50 - -
Cầu kinh doanh bất
động sản
45 - 25 29 - 21
Cầu cho người thân
đã mất
68 - 2 41 - 9
Cầu tình duyên 17 - 53 - - 50
Cầu công danh 40 - 30 31 - 19
Văn phòng 1 2.0
Về Hưu 1 2.0
Total 50 100.0
128
Cầu tự 15 - 55 2 - 48
Cầu buôn may bán
đắt
31 - 39 22 - 28
Nguồn: Xử lí kết quả điều tra bảng hỏi của NCS
- Có thể dễ dàng nhận thấy (bảng 3.17), các tín đồ có quan niệm giống
nhau là Địa Mẫu phù cho việc kinh doanh bất động sản, họ cho rằng Địa Mẫu
với hình tượng đứng trên trái đất thì không chỉ phù độ cho việc kinh doanh bất
động sản mà còn nhiều điều khác liên quan cả thiên tai và dịch bệnh
Bảng 3.17: Bảng thống kê Địa Mẫu phù cho việc buôn bán, kinh doanh
bất động sản tại điện thờ họ Nguyễn năm 2019 và năm 2022
Chỉ tiêu Năm 2019 Năm 2022
Tần số
(người)
Tần suất
(%)
Tần số
(người)
Tần suất
(%)
Điện thờ
Họ Nguyễn
Có 70 100.0 49 98.0
Không - - 1 2.0
Tổng 70 100.0 50 100.0
Nguồn: Xử lí kết quả điều tra bảng hỏi của NCS
Như vậy có thể thấy điện thờ tư gia họ Nguyễn thờ Địa Mẫu được khởi
nguồn từ người mẹ trong gia đình và cho tới nay điện thờ đã phát triển và lan
tỏa sang thế hệ thứ ba là thế hệ cháu. Bên cạnh đó, biểu tượng Địa Mẫu có ảnh
hưởng rất lớn đối với mỗi tín đồ, có người coi Địa Mẫu là biểu tượng về đất đai
nhưng gia đình họ Nguyễn thì lại coi Địa Mẫu là biểu tượng đầu tiên về chữ
“Hiếu” sau đó mới tới những biểu tượng khác.
Trong điện thờ tư gia họ Nguyễn, ông Phương là người trình độ học vấn
và cũng là người làm kinh tế giỏi trong gia đình, dòng họ, vì vậy ông được chị,
em và họ hàng kính trọng nể phục. Trong gia đình các chị, em của ông ai gặp
khó khăn cũng được ông giúp đỡ, khuyên bảo và định hướng trong mỗi bước
129
ngoặt khó khăn của cuộc sống. Bởi vậy khi hiện tượng tâm linh xảy ra trong
gia đình thì các em ông một lòng đi theo con đường tu tập cùng anh trai không
có chút hoài nghi, thắc mắc.
Em gái út của ông Phương là bà Dung, sinh năm 1973. Năm 1990 bà
Dung lấy chồng cùng quê, rồi cùng chồng vào thành phố Cần Thơ lập nghiệp.
Sau một tháng khánh thành điện thờ Địa Mẫu của ông Phương, chứng kiến
những sự việc kỳ lạ xảy ra với gia đình mình, bà Dung cũng lập một điện thờ
Địa Mẫu, cách thức giống như điện thờ nhà anh trai. Những ngày tụng kinh
trong tháng tại điện thờ của bà đã có rất nhiều người đến dự, trong đó có bạn
bè làm cùng doanh nghiệp với bà, con cháu và những người lân cận.
Một điện thờ nữa được lập tại nhà người em gái thứ sáu của ông Phương,
là bà Vượng, sinh năm 1965 sống tại Hà Nội. Năm 1985 bà lấy chồng cùng
quê, sau đó một thời gian bà và chồng vào Gia Lai lập nghiệp. Đến năm 1995
cuộc sống vất, khó khăn lại không có họ hàng người thân bên cạnh, bà cùng
chồng và các con về Hà Nội nhờ ông Phương giúp đỡ công việc và ở lại lập
nghiệp sinh sống tại Hà Nội. Năm 2012, bà Vượng sửa nhà mục đích chính là
để có chỗ thờ phụng Địa Mẫu và gia tiên, bà cũng xin anh trai một bức ảnh Địa
Mẫu và lập một điện thờ nhỏ ở nhà tại phố Kim Ngưu, quận Hai Bà Trưng, Hà
Nội. Tuy nhiên bà vẫn coi đây chỉ là nơi thờ vọng còn nơi khởi nguồn thờ Địa
Mẫu chính là điện thờ ở nhà ông Phương. Do vậy mà bà thường xuyên đến điện
thờ nhà anh trai để đọc kinh Địa Mẫu còn điện thờ nhà bà thì thi thoảng bà mới
đọc kinh tại nhà mình. Năm 2015, con rể bà Vượng đã lập một điện thờ Địa
Mẫu tại nhà riêng ở Hà Nội. Sau nhiều năm con rể cùng bà đến nhà ông Phương
đọc kinh, công việc kinh doanh ngày càng phát đạt. Anh mua được nhiều nhà,
nhiều đất vì vậy anh nghĩ đó là nhờ công ơn của Địa Mẫu đã bảo trợ và độ cho
anh. Vào tháng 6 năm 2014 anh cùng mẹ vợ đã quyết định ăn chay trường để
tỏ lòng biết ơn, cũng như hướng tới con đường tu theo Địa Mẫu mong được
130
Mẫu che chở nhiều hơn.
Một em gái thứ ba của ông Phương tên là Lượng, sinh năm 1958, lấy
chồng và lập nghiệp trên tỉnh Lào Cai. Bà là người phụ nữ chịu khó, chăm chỉ
và hiền lành. Về việc tâm linh, ngoài việc cúng lễ tổ tiên vào những ngày rằm,
mồng một và các ngày giỗ của gia đình bên chồng cũng như bên ngoại thì bà
không quan tâm đến những chuyện vong, hay thần linh, ma quỷ. Bà không ở gần
anh trai để biết tường tận những chuyện xảy ra trong gia đình, dòng họ, bà chỉ
nghe anh chị em trong gia đình kể lại, nhưng bà cũng không mấy quan tâm vì
đối với bà chết là hết, mình hãy lo cuộc sống tốt của hiện tại là được. Ông Phương
đã nhiều lần khuyên nhủ bà nên thờ và đọc kinh Địa Mẫu để gặp nhiều tốt lành,
nhưng bà vẫn chưa làm được. Đến năm 2013, trong gia đình bà gặp một vài
chuyện không thuận lợi, bà đã nghe lời anh trai thờ Địa Mẫu, hàng tháng bà đọc
kinh Địa Mẫu tại ban thờ gia tiên với tâm nguyện mong cho gia đình của mình
được Địa Mẫu gia hộ bảo trợ và gặp nhiều may mắn.
Ông Phương có một người em trai tên là Phong sinh năm 1961. Tuy là
anh em nhưng tính tình của ông Phong và ông Phương lại trái ngược nhau, ông
Phong là người nóng tính, bộc trực. Ngày ông còn trẻ, sau thời gian đi quân
ngũ về ông cũng đi làm tại một số tỉnh thành, rồi lái xe Bắc Nam, với tính cách
con người ông dường như không chịu nhịn được những điều bất bình trong
cuộc sống. Vài năm sau khi ông Phương lên Hà Nội lập nghiệp, ông đã đưa gia
đình em mình là ông Phong lên Hà Nội cùng làm ăn sinh sống. Nhưng ở Hà
Nội được 9 năm mà cuộc sống vẫn chưa ổn định, ông Phong đã quyết định cùng
vợ con vào Cần Thơ lập nghiệp. Từ khi biết gia đình có hiện tượng lạ, ông
Phong và em gái là bà Dung sống trong thành phố Cần Thơ cũng nhiều lần về
Hà Nội để được gặp ông bà, bố mẹ, họ hàng đã mất về áp vong vào cháu gái.
Ông Phong cũng bị khuất phục ngay khi gặp lại các vong là những người thân
đã mất lâu rồi. Ông hoàn toàn tin tưởng những chuyện đang xảy ra, mỗi khi
131
ông bà các cụ về áp vong căn dặn điều gì ông rất thành tâm và cung kính. Ông
cũng thờ Địa Mẫu tại ban thờ gia tiên ở Cần Thơ. Hàng tháng ông và vợ cùng
đọc kinh Địa Mẫu.
Trong mấy anh chị em nhà ông Phương hầu hết tất cả rất nghe lời của
ông Phương, duy chỉ có chị gái ông Phương đó bà Đương thì một mình một ý,
cũng muốn tất cả các em phải đi theo hướng của bà nhưng các em của bà theo
hướng thờ Địa Mẫu của ông Phương. Bà Đương là chị cả của ông Phương, năm
1996 do buôn bán tại thị trấn Đồng Văn khó khăn nên bà Đương đã bàn với
chồng bán nhà lên Hà Nội tìm mua căn nhà nhỏ gần nhà ông Phương. Bà Đương
cũng thờ Địa Mẫu nhưng bà không lập điện thờ riêng mà thờ chung với ban thờ
gia tiên. Từ khi mẹ mất, bà cũng ít sang nhà ông Phương nói chuyện, chia sẻ về
thờ Địa Mẫu với em vì ông Phương muốn chị gái theo cúng lễ thực hành tín
ngưỡng Địa Mẫu tại điện nhà mình. Nhưng về phía bà Đương thì nghĩ rằng
mình là chị cả, lại biết Địa Mẫu trước em vì vậy đáng lý ra em phải theo mình
nên bà đi theo hướng của bà tách biệt với các em. Những suy nghĩ đó đã khiến
bà và các em nhiều lần tranh luận nhưng không đưa ra tiếng nói chung và dần
dần ít chia sẻ chuyện tâm linh. Tất cả những ngày lễ đọc kinh Địa Mẫu, ông
Phương đọc tại điện thờ nhà mình, có một số gia đình các em của ông, con ông,
cháu và một số bạn bè cùng tham dự.
Như vậy trong gia đình lớn của ông Phương chia theo hai hướng thờ Địa
Mẫu, từ sự ảnh hưởng của ông Phương dẫn đến bà Dung, bà Lượng, ông Phong,
bà Vượng nhất nhất theo anh trai (ông Phương) trong việc thờ Địa Mẫu, anh có
ý kiến gì các em đều tiếp thu và thực hiện. Quan điểm của ông Phương thờ Địa
Mẫu để nhắc nhở đến chữ “Hiếu”, cũng như hoàn thành công việc dang dở của
mẹ và điều mà ông khắc ghi nhất là để tưởng nhớ về mẹ. Ông không tin vào
bói toán, nhảy đồng, cúng giải hạn ông nghĩ rằng việc mình đang thờ Địa
Mẫu là đúng đắn nhất, nếu có vướng mắc gì ông chỉ lên điện thờ khấn cầu
132
xin Địa Mẫu mọi việc sẽ qua. Còn về phía bà Đương tuy là chị gái lớn nhất
nhưng các em không đồng ý với việc thờ cúng của bà, vì ngoài thờ Địa Mẫu thì
bà còn thờ Bác Hồ, thờ các anh hùng liệt sỹ Thỉnh thoảng bà lại đi cùng một
nhóm các ông bà đồng, sao chép các loại kinh sách rồi đi các tỉnh phát kinh
sách và chữa bệnh, xem bói Mặc dù, các em ông, nhiều lần khuyên nhủ chị
gái, không muốn chị quá sa đà vào những việc tâm linh khác ngoài việc thờ Địa
Mẫu, nhưng bà Đương nghĩ rằng mình đang làm nhiệm vụ của Địa Mẫu truyền
lệnh mà các em mình không hề hay biết. Bà luôn hy vọng rằng, một ngày nào
đó tất cả các em nhìn thấy con đường tâm linh mà bà đang làm là đúng. Hiện
tượng thờ Địa Mẫu trong dòng họ Nguyễn của ông Phương là trường hợp thờ
Địa Mẫu tại gia với sự ảnh hưởng từ người mẹ dẫn đến sự lan tỏa từ mẹ đến
con, từ anh đến em, từ cô đến cháu, ..., đã làm thay đổi khá lớn về lối sống,
cũng như suy nghĩ của các thành viên trong gia đình, dòng họ.
Ngoài những người trong dòng họ ông theo thờ Địa Mẫu thì xuất phát từ
những buổi đến đọc kinh Địa Mẫu tại gia đình ông bà một số người bạn của
ông và bạn của các em ông có người thì lập điện thờ, có người thì thờ Địa Mẫu
cùng với ban thờ gia tiên và họ cũng đọc kinh Địa Mẫu vào các ngày 10, 20,
30 trong tháng âm lịch. Có người lập điện thờ nhờ ông đến để đọc kinh buổi
đầu tiên tại điện, với ước nguyện mong muốn cũng được hưởng ân huệ của Địa
Mẫu giống gia đình ông Phương.
Điều mà ông Phương cùng anh chị em trong gia đình tâm đắc nhất đó là
đưa tượng Địa Mẫu về thờ trong gian thờ Mẫu Tứ phủ tại chùa Tứ Xuyên – Hà
Nam. Ngôi chùa mà ngày mẹ ông còn sống đã thường xuyên đến lễ và coi ngôi
chùa như ngôi nhà thứ hai của bà vì sư trụ trì của chùa khi còn nhỏ nhận bà là
mẹ nuôi. Gia đình ông hàng năm vào dịp du xuân thường đến chùa vừa lễ Phật
và cũng lễ Địa Mẫu, ông Phương rất hài lòng khi đưa tượng Địa Mẫu vào chùa
và được đặt thờ tại ban các cô Sơn Trang trong gian thờ Mẫu Tam tứ phủ. Đây cũng
133
chính là kết quả giao lưu tiếp biến văn hóa của điện thờ họ Nguyễn vượt ra khỏi
dòng họ kết tập Địa Mẫu vào không gian ngôi chùa Phật giáo.
3.3.3. Nhận xét về tín ngưỡng Địa Mẫu tại điện thờ họ Nguyễn
* Gia đình họ Nguyễn là gia đình như bao gia đình người Việt khác ở
Bắc Bộ, sùng kính với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đây là nét đẹp văn hóa, uống
nước nhớ nguồn có truyền thống từ lâu đời của người Việt. Việc du nhập thêm
tôn giáo và tín ngưỡng vào không gian thờ của mỗi gia đình cho đến nay không
còn xa lạ, nhiều gia đình lập điện thờ như gian thờ Mẫu Tam tứ phủ trong đền,
chùa. Có những gia đình ngoài ban thờ cúng tổ tiên lập thêm ban thờ Phật,
nhưng cũng có gia đình thì phối thờ Phật Thích Ca cùng ban thờ gia tiên nhưng
ảnh hoặc tượng Phật Thích Ca được đặt ở vị trí cao nhất. Việc thờ Địa Mẫu tại
điện thờ họ Nguyễn đã mang đến một hình thức thờ Mẫu đa dạng gần giống
như thờ Phật tại gia.
* Có thể thấy từ hiện tượng thờ Địa Mẫu tại điện thờ họ Nguyễn đã có
sự kết nối, lan tỏa và kế thừa từ mẹ đến con, từ anh đến em, từ vợ đến chồng,
và đến nay đã có sự kế thừa lớp cháu. Bên cạnh sự lan tỏa trong dòng họ thì đã
có lan tỏa đến những gia đình bạn bè và đặc biệt là lan tỏa đến cả cơ sở thờ tự
công cộng đó là ngôi chùa không gian của Phật giáo.
Tương tự, điện thờ của hai cô em gái ông Phương là điện thờ của bà
Dung ở Cần Thơ thì lập điện giống hệt nhà anh trai, bà cũng nhờ anh tạc tượng
Địa Mẫu và thuê cả chuyến xe ô tô chuyển tượng vào Cần Thơ. Còn cô em
Vượng ở Kim Ngưu, TP Hà Nội là hình thức thờ vọng lấy khuôn mẫu từ bức
tranh thờ Địa Mẫu ở nhà ông Phương, sự khác biệt là nhà bà chật chội, kinh tế
eo hẹp nên ban thờ chỉ là một bàn thờ nhỏ chứ không trang hoàng lộng lẫy như
ở gia đình anh trai và em gái [PL6, A15, tr.324].
Ngoài hai người em nói trên (có điện thờ Địa Mẫu) thì những người em
khác của ông Phương cũng thờ Địa Mẫu tại phòng thờ gia tiên với hình thức
134
đọc kinh Địa Mẫu hàng tháng chứ không lập điện thờ như gia đình ông Phương.
Ông Phương in cho các em tấm ảnh Địa Mẫu từ bức tranh con trai ông vẽ tại
điện nhà ông gửi cho các em, bạn bè có nhu cầu. Nhìn chung loại điện thần này
chủ yếu phục vụ nhu cầu trì tụng và tu tập trong phạm vi các thành viên trong
gia đình. Điện thờ độc thần Địa Mẫu, loại điện thần này phổ biến ở điện thờ tư
gia của dòng họ Nguyễn gốc Hà Nam, khởi nguồn từ điện thờ nhà ông Phương
ở Trương Định
Quá trình giao lưu tiếp biến tín ngưỡng Địa Mẫu vào không gian thiêng
của gia đình họ Nguyễn và được thờ độc thần tại tư gia nghiễm nhiên Địa Mẫu
là vị thần chủ có quyền uy cao nhất trong không gian đó. Các tín đồ còn cầu
khấn Địa Mẫu mong che chở cho gia tiên, vong hồn những người đã khuất được
siêu thoát, hoặc trả hết duyên nghiệp đã gây ra. Tín ngưỡng Địa Mẫu du nhập
vào không gian thiêng của các gia đình trong dòng họ Nguyễn đã cho thấy niềm
tin tuyệt đối của gia đình, dòng họ khi thờ Địa Mẫu. Đặc biệt đã làm thay đổi
tâm tính một số con người trong dòng họ trước những cám dỗ, tệ nạn của cuộc
sống, họ cảm ơn Địa Mẫu đã dẫn dắt gia đình họ biết đến tâm linh hướng đến
con đường tu tập buông bỏ tham sân si trong mỗi con người., họ coi Địa Mẫu
như người mẹ thứ hai của mình. Trong một nghiên cứu đã cho rằng: “Nếu Đạo
giáo Trung Hoa là thế giới của triều đình quân chủ, thì thiên đình của Mẫu Việt
Nam là thế giới của gia đình. Cái nhìn của nhân dân đối với thiên đình đó là cái
nhìn của con cái đối với những người mẹ của mình, họ là các bà mẹ - các Thánh
Mẫu. Ở đây, những người con đã tìm thấy sự che chở của những bà mẹ” [118,
tr.63], từ quan điểm này của tác giả đối chiếu sang điện thờ họ Nguyễn đã thấy
được việc phụng thờ Địa Mẫu trên tinh thần của người con đối với người mẹ,
với tấm lòng thương cảm và nhất là giàu lòng vị tha của người mẹ đối với người
con.
Tính kế thừa trong việc thờ Địa Mẫu ở dòng họ Nguyễn đã khiến nhiều
135
tín đồ cho rằng đây là gia đình có sự đặc ân của thánh thần đặc biệt là Địa Mẫu.
Có thể thấy đây là một gia đình trí thức, việc người bố thờ Địa Mẫu và các con
cháu trong gia đình không phản đối mà tôn trọng tự do tín ngưỡng mà bố mẹ
lựa chọn theo. Do đó ông Phương tin rằng mình thờ Địa Mẫu là tu đúng hướng
nên phải hướng các con cháu kế thừa duy trì các thế hệ sau.
Tiểu kết
Trong chương ba, luận án đã trình bày về ba điểm nghiên cứu chính,
trong đó đã trình bày về sự hình thành phát triển tín ngưỡng Địa Mẫu tại đình
Ứng Thiên, chùa Vân Hồ và điện thờ tư gia họ Nguyễn.
* Về đình Ứng Thiên có thể nhận rõ sự du nhập tín ngưỡng Địa Mẫu mặc
dù tại đây không có hình tượng Địa Mẫu mà nghi thức thực hành của Địa Mẫu
được kết hợp với thần chủ tại đình tạo nên một diện mạo mới Hậu Thổ/Địa Mẫu.
Sự biến đổi thể hiện rất rõ trong lễ hội của thần chủ tại đình xuất hiện đọc kinh
Địa Mẫu sau khi làm lễ Mộc Dục. Ngoài ra thì vào các ngày Mậu trong tháng
âm lịch các tín đồ tổ chức đọc kinh Địa Mẫu tại đình và tổ chức vía Địa Mẫu vào
ngày 18 tháng 10 âm lịch hàng năm. Tại đình tồn tại những đối tượng chỉ đến
xin lễ đất đai, bất động sản không đọc kinh, đối tượng là tín đồ thường xuyên
đến đọc kinh Địa Mẫu, đối tượng đi lễ thuần túy vào ngày rằm mồng một.
* Về chùa Vân Hồ tuy Địa Mẫu tại chùa Vân Hồ không cúng lễ rầm rộ
như các cơ sở thờ tự khác, nhưng hàng tháng các tín đồ vẫn đọc kinh Địa Mẫu,
nhưng khoảng hai năm gần đây dịch bệnh Covid nên việc đọc kinh cũng bị
dừng lại không thực hành. Địa Mẫu tại chùa Vân Hồ chỉ là sự kết hợp tín
ngưỡng mới vào không gian chùa, dù nhu cầu ban đầu của sư trụ trì đưa về
nhưng sau này lượng tín đồ đến cúng lễ nhiều hơn do đó đây cũng chỉ là hoạt
động của tín ngưỡng nhằm phụ vụ phát triển Phật giáo.
* Về điện thờ họ Nguyễn trong không gian của gia đình xuất hiện thêm
ban thờ Địa Mẫu, chủ điện đã kết hợp thực hành tín ngưỡng Địa Mẫu vào các
136
ngày lễ tết, giỗ chạp của gia tộc. Họ đọc kinh Địa Mẫu trong ngày giỗ tổ tiên
sau đó mới đọc bài khấn giỗ mời gia tiên. Đây là một điện thờ độc thần là Địa
Mẫu, khác với các điện thờ khác thờ rất nhiều vị thánh thần khác nhau mà điển
hình là điện thờ Mẫu Tam tứ phủ của người Việt.
Trong lý thuyết giao lưu tiếp biến văn hóa cho rằng khi hai nền văn hóa
tiếp xúc với nhau sẽ dẫn đến một số biến đổi, trong nghiên cứu này NCS nhận
thấy tín ngưỡng Địa Mẫu xuất hiện trong các không gian thờ khác nhau đã cho
thấy sự đa dạng từ không gian thờ cho đến nghi thức thực hành tín ngưỡng. Bên
cạnh đó, tín ngưỡng Địa Mẫu không đồng nhất với các cơ sở thờ tự mà tín
ngưỡng Địa Mẫu đã biến đổi để phù hợp với nhu cầu của tín đồ cũng như phù
hợp với văn hóa bản địa.
137
Chương 4
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM, GIÁ TRỊ, XU HƯỚNG VÀ
VẤN ĐỀ BÀN LUẬN VỀ THỜ ĐỊA MẪU
4.1. Bình luận về đặc điểm thờ Địa Mẫu
4.1.1. Đặc điểm thờ Địa Mẫu tại Nam Bộ
* Danh xưng: Địa Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Diêu Trì Địa Mẫu, Phật Địa
Mẫu, Phật Mẫu Diêu Trì
* Hình tượng: Địa Mẫu đứng trên quả địa cầu, Địa Mẫu ngồi trên ghế
ngai tay cầm quả địa cầu, Địa Mẫu cưỡi chim Loan đứng trên quả địa cầu, Địa
Mẫu ngồi ghế ngai chân đặt lên quả địa cầu
* Kinh sách: Sử dụng quyển Địa Mẫu chân kinh bản chánh văn và giải
nghĩa do Lê Công Đồng dịch, có một số quyển kinh có thêm một số bài khấn,
hoặc thơ của nơi thờ tự in ấn thêm.
* Nghi thức thực hành: Nghi lễ đọc kinh theo lời dạy trong kinh Địa Mẫu
vào giờ Ngọ, các ngày Mậu trong tháng âm lịch. Nhưng các cơ sở thờ tự vì
nhiều lí do khác nhau dẫn đến nơi đọc kinh Địa Mẫu vào ngày 8, 18, 28 trong
tháng âm lịch và có nơi họ đọc kinh vào ngày rằm, mồng một hoặc bất kể ngày
nào trong tháng. Ngày vía Địa Mẫu tổ chức vào 18 tháng 10 âm lịch, sinh hoạt
thực hành đọc kinh Địa Mẫu đa dạng, nơi đọc kinh Địa Mẫu, nơi chỉ thờ Địa
Mẫu không có thực hành nghi thức Địa Mẫu. Có nơi thì thuê đoàn ca cải lương
đến cơ sở thờ tự để hát cải lương theo nội dung quyển Địa Mẫu chân kinh, có
nơi thì ngâm thơ.
* Nơi thờ tự: Địa Mẫu thờ chung Địa Tạng Vương Bồ tát, Địa Mẫu thờ
chung với Di Lặc, Địa Mẫu thờ chung với Năm bà Ngũ Hành, Địa Mẫu thờ
chung với bà chúa Xứ, Địa Mẫu thờ chung với ông Tà ông Địa, Địa Mẫu thờ
chung với Quan Thế Âm Bồ Tát.
Như vậy, mặc dù Địa Mẫu được thờ phổ biến ở Nam Bộ nhưng trong các
138
cơ sở thờ tự có sự hỗn dung, dung hợp các tôn giáo tín ngưỡng với nhau, Địa
Mẫu tại Nam Bộ bị ảnh hưởng bởi tín ngưỡng bà chúa Xứ, các thánh Mẫu cùng
Năm Bà Ngũ Hành do đó mà hình tượng Địa Mẫu khoác áo choàng đen, cùng
với quả địa cầu còn về các nét trên gương mặt và mũ mão mang đậm nét văn
hóa của Mẫu Nam Bộ.
4.1.2. Đặc điểm thờ Địa Mẫu tại Bắc Bộ
* Danh xưng: Địa Mẫu, Đức Địa Mẫu, Phật Mẫu, Diêu Trì Địa Mẫu
* Hình tượng: Địa Mẫu đứng trên quả địa cầu, mặc dù các hình tượng có
những chi tiết khác nhau nhưng hình tượng đồng nhất là Địa Mẫu đứng trên quả
địa cầu, tóc búi cao. Các nét trên khuôn mặt và hình tượng Địa Mẫu bị ảnh hưởng
bởi tín ngưỡng Mẫu Tam tứ phủ do đó tượng Địa Mẫu cũng mộc mạc, không tô
vẽ cầu kì, vì vậy khi đặt tượng Địa Mẫu trong ban thờ Mẫu Tam, tứ phủ chỉ khác
là các Thánh Mẫu ngồi còn Địa Mẫu đứng trên quả địa cầu hình tròn.
* Kinh sách: Phát hiện ra cuốn Địa Mẫu chân kinh chữ Hán năm 1923
tại đền Ngọc Sơn lưu trong thư viện quốc gia, nhưng qua khảo sát dường như
các nơi thờ Địa Mẫu chỉ xuất hiện khoảng những năm 1990 trở lại đây, duy có
chùa Diệu Nam thuộc phái Minh Sư Đạo được xây dựng từ đầu thế kỷ XX.
Hiện nay các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng đọc quyển Địa Mẫu chân kinh đã phiên
âm giảng nghĩa sang tiếng Việt do dịch giả Lê Công Đồng biên soạn.
* Nghi thức thực hành: Nghi lễ đọc kinh theo lời dạy trong kinh Địa Mẫu
vào giờ Ngọ, các ngày Mậu trong tháng âm lịch. Nhưng vì lí do nào đó mà ngày
đọc kinh Địa Mẫu đã có sự chuyển đổi có nơi đọc kinh vào ngày 8, 18, 28 âm
lịch, có nơi đọc kinh Địa Mẫu vào ngày 10, 20, 30 trong tháng âm lịch và có cơ
sở đọc kinh vào ngày rằm, mồng một hoặc bất kì ngày nào. Đọc kinh Địa Mẫu
theo kiểu đọc kinh Phật giáo, chỉ có một số điện thờ thì họ đọc kinh kiểu đọc
thơ, còn lại vẫn đọc kinh thuần túy kiểu Phật giáo. Ngày vía Địa Mẫu tổ chức
vào ngày 18 tháng 10 âm lịch hàng năm.
139
* Nơi thờ tự: Tại các cơ sở thờ tự công cộng Địa Mẫu được thờ tại đình,
thờ trong chùa (thờ trong ban thờ Mẫu Tam tứ phủ, thờ ban thờ riêng trong
không gian ngôi chùa, thờ ban thờ riêng trong không gian thờ Mẫu Tam tứ
phủ), thờ trong đền, miếu. Tại tư gia: thờ Địa Mẫu chung với ban thờ Tổ tiên,
thờ chung với điện thờ Mẫu Tứ phủ tại gia đình, thờ chung với ban thờ Thần
Tài tại tư gia, thờ chung với ban thờ Bác Hồ, và một số vị thánh thần khác tại
tư gia, thờ độc thần Địa Mẫu trong điện thờ tư gia.
Như vậy, mặc dù tín ngưỡng Địa Mẫu được thờ phổ biến ở Nam Bộ và
hiện nay đang được thờ ở một số cơ sở tại Bắc Bộ trong đó có Hà Nội. Có thể
thấy rõ những điểm khác biệt trong tín ngưỡng Địa Mẫu ở Nam Bộ và Bắc Bộ
từ hình tượng cho đến ngh