Luận án Tổ chức bản của người Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên

MỞ ĐẦU .1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ

THUYẾT VÀ TỘC NGưỜI NGHIÊN CỨU.8

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.8

1.2. Cơ sở lý thuyết.16

1.3. Khái quát về huyện Đồng Hỷ và người Nùng Phàn Slình .24

1.4. Khái quát về các điểm nghiên cứu.39

Chương 2: ĐẶC ĐIỂM, CẤU TRÖC BẢN CỦA NGưỜI NÙNG PHÀN

SLÌNH .44

2.1. Một số tiêu chí phân loại bản .44

2.2. Tên gọi của bản.45

2.3. Nguyên tắc lập bản .48

2.4. Tổ chức không gian của bản.50

2.5. Thành phần dân cư trong bản .58

Chương 3: CÁC THIẾT CHẾ VÀ QUAN HỆ XÃ HỘI TRONG BẢN.73

3.1. Sở hữu và sử dụng đất đai .73

3.2. Hình thức quản lý bản .84

3.3. Quan hệ cộng đồng trong bản.105

3.4. Mối quan hệ giữa bản người Nùng Phàn Slình với bản của dân tộc

khác .112

Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG, XU HưỚNG BIẾN ĐỔI CỦA

BẢN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA .116

4.1. Những yếu tố tác động đến biến đổi bản.116

4.2. Xu hướng biến đổi .128

4.3. Một số vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay .135

4.4. Một số khuyến nghị và giải pháp .143

KẾT LUẬN .148

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ .151

TÀI LIỆU THAM KHẢO .152

pdf213 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 380 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tổ chức bản của người Nùng Phàn Slình ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bạn người Kinh thì xương xanh, người Tày không lấy, lấy người Kinh, tìm hỏi không được một tiếng, rau cải không ăn, ăn cải làn, người Tày không lấy, lấy người Nùng An. Người Kinh chê người Tày, người Mán ăn ở bẩn, ở nhà sàn có phân trâu, phân lợn phía dưới. Hơn thế nữa, chúng mua chuộc để tăng chức cho một số quan lại người Mán, Chánh tổng, Phó Chánh tổng, lý trưởng thâm niên, tặng bằng trưởng lục, phong sắc cửu phẩm, thưởng mề đay huân chương và làm lơ ăn tiền hối lộ của dân [7]. Thời kỳ này, trong bản của người Nùng Phàn Slình có một số thành viên tham gia vào bộ máy chính quyền phong kiến và thực dân Pháp đô hộ. Đứng đầu là Chánh tổng, dưới có Phó Chánh tổng, dưới nữa có Tổng đoàn phụ trách mặt quân sự, Tổng sư phụ trách giáo dục, Khán thủ phụ trách công việc sổ sách ở bản. Đứng đầu châu là Tri châu, dưới là Châu đoàn còn thấp hơn là Bang tá chuyên lo việc sổ sách. Chế độ này chỉ tồn tại một khoảng thời gian sau đó hoàn toàn bị xóa bỏ khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Trong xã hội người Nùng Phàn Slình trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, nam giới đủ 18 tuổi cũng bắt buộc phải đi lính, phục vụ chế độ xã hội thời đó theo 85 lệnh của quan trên. Nhà nào có từ hai suất đinh đến tuổi đi lính trở lên, lựa chọn lấy một người chỉ trừ người tàn tật và độc đinh. Sự chi phí về việc tuyển lính, bản phải chịu, khi dẫn lên tỉnh, bản cấp cho lý trưởng và người ứng tuyển mỗi người 0,3 hào. Nếu người nào tình nguyện đi lính, được ứng mộ, khác chịu lấy các khoản lộ phí ấy khi có lệnh đòi bổng lý đi, thị thực căn cước hạnh kiểm người ứng tuyển, bản cũng cho bổng lý tiền phụ cấp như lệ kể trên. Tuy nhiên, số lượng này không có nhiều để tạo nên một tổ chức giáp với đầy đủ các vai trò và trách nhiệm như ở vùng dưới xuôi. Vì thế trong bản của người Nùng Phàn Slình vẫn duy trì được cách thức tổ chức truyền thống của dân tộc. Từ Đổi mới, với sự giải thể dần của các tổ hợp tác lớn, bản với tư cách là đơn vị dân cư đã trở lại với vị trí vốn có của nó. Sự quản lý (hay quản trị) quan trọng nhất của bản là về mặt nhân khẩu. Hệ thống tự quản bao gồm trưởng/phó bản, công an viên có trách nhiệm nắm bắt, khai báo với chính quyền địa phương về sự thay đổi nhân khẩu của bản, điều hành công việc trị an, phòng chống tệ nạn xã hội; còn Bí thư, Chi hội trưởng các đoàn thể có trách nhiệm tổ chức hoạt động xã hội theo chức năng của mình cũng như tư vấn cho trưởng/phó bản. Ngoại trừ công an viên, các chức vụ này đều là do người dân nói chung hoặc thành viên của các tổ chức chính trị - xã hội bầu ra, đảm nhận theo nhiệm kỳ và hưởng phụ cấp theo quy định của Nhà nước. Tổ chức bản là trung gian hiệu quả giữa từng cá nhân, hộ gia đình với chính quyền cơ sở trong các vấn đề ít liên quan chặt chẽ đến quyền, lợi ích, nghĩa vụ của công dân; phối hợp với các ban ngành chức năng thực hiện thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Còn với những quan hệ mang tính hành chính giữa Nhà nước với người dân, việc giải quyết vẫn thuộc thẩm quyền của chính quyền cơ sở - tức Ủy ban nhân dân xã. Sự phân quyền này, ở góc độ nhất định, đã làm giảm vai trò của tổ chức bản đối với các cá nhân, hộ gia đình, đồng nghĩa với sự gia tăng tính hướng ngoại của các yếu tố thành phần bên trong nó. 3.2.1. Trưởng bản và vai trò của trưởng bản Tâm lý chung của con người có an cư mới lạc nghiệp. Do vậy ổn định chỗ ở 86 để định cư lâu dài, ổn định tổ chức nội bộ cộng đồng để phát triển bền vững là một điều mà ở bất cứ cộng đồng nào cũng hướng tới. Điều kiện thuận lợi để các thành viên yên tâm làm ăn sinh sống, bảo tồn, phát huy và gìn giữ văn hóa của dân tộc. Do đó, việc bầu trưởng bản trong cộng đồng vào thời gian đầu ở vùng đất mới là một việc làm cần thiết. Trước năm 1945, người có uy tín được bầu làm trưởng bản (tầu bản) trong cộng đồng người Nùng Phàn Slình là những người tiên phong đặt chân lên mảnh đất này. Họ có công “nhẳm nhả, khả tặc” (khai sơn phá thạch), tạo dựng nên một vùng đất mang dấu ấn đặc trưng riêng với những nếp nhà sàn liên tiếp, trải dài, dọc theo chân các sườn đồi núi thấp hay ở giữa thung lũng núi đá. Những địa danh như: Ba Đình, Đồng Mẫu, Đồng Mây, Làng Mới ở xã Tân Long; Đồng Vung, Tân Đô ở xã Hòa Bình; Khe Mong, Khe Quân ở xã Văn Lăng; Cầu Mây, La Đùm ở xã Văn Hán. Tiêu chí đầu tiên và tiên quyết để lựa chọn trưởng bản phải là người Nùng Phàn Slình, nguồn gốc tổ tiên rõ ràng, trong sạch, gia đình khá giả trong vùng (có nhiều ruộng, nhiều trâu và thừa thóc ăn quanh năm); là người đại diện của dòng họ có đông các hộ gia đình trong bản; là người am hiểu phong tục tập quán, đặc biệt là luật tục của dân tộc; là người giỏi giao tiếp, có tài ăn nói ứng đối với các thành phần trong xã hội; là người đại diện cho dân bản giải quyết các công việc liên quan đến hành chính với tổ chức cơ quan Nhà nước; gia đình có vợ chồng êm ấm, thuận hòa, đầy đủ con cái; bản thân gia đình không mang tiếng mắc bệnh ho lao, bệnh tâm thần, bệnh động kinh; gia đình và dòng họ không bị mang tiếng có ma gà (phi cáy). Trước năm 1945, trưởng bản là một vị trí mang tính đại diện rất cao của cộng đồng. Là người có uy tín và được kính nể, trưởng bản có thể đứng ra giải quyết hầu hết các công chuyện của bản như huy động lao động công ích, xử phạt người có tội, chỉ huy nhân dân dựng nhà dựng cửa, khai khẩn đất hoang, đắp đập, đào mương Chỉ những sự vụ hết sức nghiêm trọng thì người ta mới bẩm lên quan trên để giải quyết, còn hầu như chuyện của bản nào thì bản nấy lo thông qua bàn tay của trưởng bản. Giúp việc cho trưởng bản là phó bản, chủ yếu đóng vai trò là người thay mặt trưởng bản trong một số tình huống và không phải bản nào cũng có phó bản. Tuy 87 nhiên, tiêu chuẩn lựa chọn phó bản cũng tương đối chặt chẽ như lựa chọn trưởng bản. Công việc quản lý bản của họ hầu như là quản lý về mặt xã hội. Trưởng bản không có vai trò lãnh đạo các gia đình làm kinh tế như chủ nhiệm hợp tác xã thời kỳ sau - những người thay thế trưởng bản làm nhiệm vụ lãnh đạo cộng đồng vào thời kỳ kinh tế tập thể. Năm 1986 đánh dấu sự đổi mới toàn diện và sâu sắc về mọi mặt chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội của đất nước. Những người được bầu làm trưởng bản thêm các tiêu chuẩn mang thời đại mới: tuổi đời trẻ hơn, có kiến thức, năng động và nhanh nhẹn với sự chuyển biến của thời cuộc. Họ có trình độ học vấn, am hiểu khoa học kỹ thuật, mạnh dạn đi đầu trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế, biết cách làm giàu, được cộng đồng tín nhiệm, suy tôn, dẫn dắt quần chúng trong việc phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng trên mảnh đất quê hương. Cùng với đó, vai trò của họ cũng có sự phong phú hơn và đang thực sự phát huy tác dụng trong cộng đồng. Phạm vi ảnh hưởng của họ không chỉ giới hạn trong cộng đồng dân tộc mình mà còn lan tỏa ra cộng đồng các dân tộc khác sống trên cùng một địa bàn cư trú. Họ ý thức được bản thân mình cần phải quan tâm, chăm lo cho đời sống của đồng bào tốt hơn. Mà nếu làm không tốt họ sẽ bị chính anh em, dòng họ khinh thường. Đi đôi với việc xây dựng nếp sống mới và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, trưởng bản cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn người dân tổ chức các hoạt động văn hóa truyền thống và duy trì những nét đẹp trong phong tục tập quán. Ngoài ra, họ còn tuyên truyền, vận động quần chúng thực hiện các chủ trương chính sách và thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Họ luôn luôn vận động đồng bào cảnh giác không nên tin lời kẻ xấu xúi giục, làm cho mọi người thấy rằng Đảng, Nhà nước đã quan tâm để mọi người có được một cuộc sống ấm no, hạnh phúc; thực hiện chính sách dân tộc và công tác dân tộc; giúp lực lượng an ninh nắm tình hình, chủ động đấu tranh vô hiệu hóa hoạt động của kẻ xấu đối với vùng dân tộc thiểu số; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; là chỗ dựa tin cậy quan trọng của cấp ủy, chính quyền các cấp trong việc vận động, tuyên truyền đồng bào thực hiện chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. 88 Vai trò của trưởng bản còn được thể hiện trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống gia đình và cộng đồng, góp phần vào phát triển kinh tế địa phương được thể hiện trên các lĩnh vực như: vận động bà con chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với sản xuất hàng hóa; vận động bà con chăm lo làm ăn phát triển kinh tế, nghiêm túc thực hiện mọi chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của Nhà nước về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Nhờ có những trưởng bản luôn năng động, làm việc đầy trách nhiệm mà bản của người Nùng Phàn Slình ngày càng phát triển đi lên. 3.2.2. Những người hành nghề tôn giáo, tín ngưỡng Người Nùng Phàn Slình theo tín ngưỡng đa thần. Họ quan niệm “Vạn vật hữu linh”, mọi thứ đều có linh hồn. Để có thể kết nối giữa hai thế giới trần tục và thế giới thần linh, trong cộng đồng của họ có những người hành nghề tôn giáo, tín ngưỡng phục vụ đời sống văn hóa tâm linh, gồm: thầy Tào (slấy Tảo), thầy Pụt (slấy Pụt) và thầy Mo (slấy Mo). Những người này được coi là “cần thá lủng” (người có mắt sáng), tức có khả năng giao tiếp được với thần linh và các loại ma, là cầu nối giữa thế giới thực tại và thế giới siêu nhiên, có khả năng bói toán, xem số, xem ngày đặt móng làm nhà, giải hạn, cầu an, sinh nhật, cưới xin, đầy tháng, tang ma Trong số các thầy cúng trên, thầy Tào là người có quyền năng cao nhất so với các vị còn lại. Ông ta hiểu biết sâu sắc về văn hóa dân tộc, giỏi chữ Nho, biết nhiều câu chuyện cổ tích dân gian, ca dao tục ngữ, làn điệu sli Thầy đóng vai trò quan trọng trong việc truyền lại văn hóa truyền thống cho các thế hệ con cháu mai sau tiếp nối. Các thầy được phân loại đẳng cấp thành thầy dòng (thầy cao tay, cha truyền con nối) với thầy học (trình độ thấp hơn, là người theo học thầy dòng). Những người hành nghề tôn giáo, tín ngưỡng trong cộng đồng người trấn yểm cho vùng đất được yên bình, trấn an cho người dân yên tâm làm ăn. Đồng thời họ cũng cứu cánh về tinh thần cho con người trong những lúc bế tắc của cuộc sống. Vai trò của các bậc thầy tâm linh là trao truyền văn hóa nghi lễ tín ngưỡng cho các thế hệ con cháu đời sau. Trước đây, khi trình độ dân trí thấp sự tiếp cận với các thông tin hiện đại bên ngoài còn hạn chế, vai trò của các thầy hành nghề cúng bái 89 với bản đóng khá quan trọng đối với đời sống văn hóa tâm linh của người dân. Ngày nay, trong các bản của người Nùng Phàn Slình vẫn còn các thầy cúng chuyên phục vụ nhu cầu tâm linh cho cộng đồng vào các dịp ma chay, lễ tết, cưới xin Ví dụ: bản La Đùm (Văn Hán) có thầy Vy Ngọc H, bản Đồng Mây (Tân Long) có thầy Hoàng Văn B, bản Tân Đô (xã Hòa Bình) có thầy Hoàng Ngọc T... Sự phân biệt đẳng cấp giữa các thầy không còn cứng nhắc như trước. Uy tín của các thầy trong mắt người dân phụ thuộc vào “vận đời”, năng khiếu và đạo đức ứng xử hơn là nguồn gốc, gia thế. Trong xã hội hiện đại ngày nay, những vẫn đề về tâm linh tín ngưỡng không được sùng bái như trước nữa. Tuy nhiên, ở một khía cạnh văn hóa, vai trò và vị trí của các thầy trong cộng đồng vẫn được coi trọng. 3.2.3. Các tổ chức phi quan phương trong bản Là những cư dân sống bằng nông nghiệp, tục ngữ Tày - Nùng có câu: bản dưới về giúp, bản trên về hộ (Bản tẩư mà hưa, bản nưa mà chỏi) thể hiện sự tương trợ giúp đỡ, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống. Người Nùng Phàn Slình coi công việc của gia đình khác cũng giống như công việc của nhà mình, tạo nên ý thức cá nhân gắn liền với quyền lợi cộng đồng. Họ dám đứng ra gánh vác công việc cũng như dám chịu trách nhiệm trước toàn thể cộng đồng. Mỗi cá nhân không ai bảo ai, đều có ý thức trách nhiệm cao đối với các công việc được giao. Vấn đề này từ lâu được thể hiện qua hoạt động của các các tổ chức phi quan phương trong các bản nhằm hỗ trợ lẫn nhau sản xuất và sinh hoạt, với vai trò điều hoà và quản lí các quan hệ xã hội. Dưới đây là một số tổ chức quan phương hiện vẫn tồn tại trong từng bản người Nùng. Liên quan đến việc hàng phường, có một vị trí rất quan trọng gọi là trùm trưởng (trùm phường/trùm phe). Đó thường là đàn ông, chịu trách nhiệm điều hành, chỉ đạo chung việc của các gia đình do hàng phường giúp. Vị trí này không hẳn là được bầu nên, mà cũng không phải do chỉ định, mà là luân phiên giữa những người có năng lực lãnh đạo, gọi là “để ai cũng được làm tướng một lần”. Nhiệm kỳ của một trùm trưởng tính theo số lượng đám, ví dụ, nhiều bản quy định cứ qua 3 đám ma là đổi trùm trưởng một lần. Trưởng bản cũng có thể đảm nhận vị trí trùm 90 phường. Đó gần như là một nghĩa vụ của những người có uy tín hơn là một vị trí danh dự. Trùm phường có quyền lực lớn nhất trong đám ma của người Nùng. - Hàng phường hỗ trợ sản xuất Là những người làm nông nghiệp với hoạt động quanh năm chủ yếu trồng lúa nước, nên trong quá trình từ khi cày vỡ ruộng, bừa ruộng, cấy, gặt hái và thu hoạch đều yêu cầu cần có sự hợp sức của nhiều người. Do đó, trong thôn bản người Nùng Phàn Slình đã hình thành hàng phường như: phường cày bừa, phường nhổ mạ, phường cấy và gặt hái lúa. Phường cày bừa là tập hợp những người nam giới còn trẻ, khỏe khoảng từ 18 tuổi trở lên. Họ có thể là anh em trong cùng một gia đình, anh em trong dòng họ hay làng bản láng giềng thân cận, bạn bè thân nhau. Khi gia đình nào chuẩn bị ruộng cấy, họ đi đến từng nhà nhờ nhau báo ngày bắt đầu đi cày đi bừa. Mỗi phường chỉ có khoảng từ 3 - 5 người. Thời gian bắt đầu làm việc từ rất sáng sớm. Ai đi hộ, mang luôn trâu của nhà mình đi. Nếu trâu to, họ mang một con, nếu trâu nhỡ thì hai con (nếu đi bừa vì có thể lắp đôi được). Những đám ruộng của người Nùng Phàn Slình rộng khoảng từ 1 - 5 sào. Sau khi hết nhà này lại đến nhà khác. Mọi người luân phiên thay đổi công cho nhau. Xong công việc, ai lại về nhà đó và không ở lại dùng cơm. Đến khi nhổ mạ, cần hợp sức của khoảng 10 - 20 người nam giới làm trong một buổi chiều. Gia chủ phải tính toán nhờ được đủ người để nhổ mạ đủ cấy hết ruộng của mình. Do vậy, họ cũng đi nhờ anh em, họ hàng, hàng bản láng giềng giúp cho một buổi. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người sẽ được gia chủ mời cơm. Nếu nhổ mạ tốn nhiều sức lực là công việc của nam giới, cấy lúa là công việc của nữ giới. Trong mỗi bản bao giờ cũng có phường cấy lúa. Các chị em trong gia đình, họ hàng, làng bản láng giềng với nhau. Khi nhà nào nhổ mạ đi nhờ người, nhờ luôn cả hai việc nhổ mạ và cấy hái. Phường cấy lúa thường đông hơn phường nhổ mạ, khoảng 25 - 40 người. Việc cấy chỉ diễn ra trong một buổi sáng xong hết ruộng. Sau đó, mọi người cũng được gia chủ mời một bữa cơm thịt gà đầy đủ. Với phụ nữ, có khi cả năm họ mới đến nhà nhau một lần bởi ngày thường ít khi có lý do gì đến với nhau. Do vậy, bữa cơm lúc cấy hái là dịp mọi người thể hiện tình cảm và sự 91 quan tâm của mình. Cứ như thế, nhà nọ nối tiếp nhà kia, tất cả mọi người làm việc với tinh thần tự nguyện và nguyên tắc đổi công, chỉ trong khoảng 1 tuần đến 10 ngày ruộng của cả bản đã xong xuôi. Trước đây, làm cỏ lúa chủ yếu bằng chân hoặc cào cỏ cho nên thời gian cũng phải mất 7 - 10 ngày họ mới xong ruộng. Chỉ có một số gia đình có nhiều ruộng, họ mới nhờ tới mọi người giúp, còn lại các gia đình tự đi làm là chủ yếu. - Hàng phường hỗ trợ làm nhà Người Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ hầu hết đều ở nhà sàn để tránh ẩm ướt và thú dữ. Nhưng để làm được một ngôi nhà sàn đòi hỏi rất nhiều công sức từ khi lên rừng tìm gỗ, chặt gỗ, xẻ gỗ, kéo gỗ về, nhờ hoặc thuê thợ đục đẽo, nhờ anh em họ hàng, người dân trong bản giúp dựng nhà. Khi gia chủ đã tập hợp đủ số lượng gỗ làm nhà, họ sẽ nhờ anh em nam giới trong bản mang trâu lên rừng kéo gỗ về. Mỗi phường có tới hàng chục người. - Hàng phường hỗ trợ đám tang Ngày trước, khi dân số trong các bản còn ít, mấy bản mới tập hợp được thành một tổ chức hàng phường. Tổ chức này có thể là anh em, cùng họ hàng, cùng dân tộc (trước đây người dân tộc khác không được tham gia). Nhờ sự hợp sức lại từ những người như vậy, họ mới có thể hoàn thành được công việc lớn của cộng đồng. Điều này không chỉ mang ý nghĩa về mặt vật chất mà còn mang ý nghĩa về mặt tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau. Điều này cũng thể hiện tính cố kết cộng đồng bền chặt, tinh thần và ý thức dân tộc cao. Nếu bản là một nơi yên bình cho con người ta cư ngụ khi còn sống thì tổ chức hàng phường là một chỗ dựa vững chắc về tinh thần cho người ta lúc mất đi. Nếu ai đó trong không có con cái, cháu chắt hay họ hàng người thân vẫn được lo hậu sự một cách chu đáo. Theo phong tục, trong bản có người đang hấp hối hoặc vừa mất, đại diện gia đình đến báo cho trùm trưởng. Nhận được tin, trùm trưởng sẽ thông báo tới trùm phó và tất cả các hộ gia đình trong hội phường được biết để tập trung tại nhà tang chủ. Họ sẽ họp bàn để đưa ra các khoản đóng góp cụ thể: thịt, rượu, gạo và củi cần 92 phải nộp. Tuy nhiên, số lượng đóng góp tăng dần theo những năm về sau. Riêng thịt lợn được quy đổi thành tiền tại thời điểm cụ thể; chỉ có gạo, củi được giữ nguyên lượng. Toàn bộ số tiền này được trùm trưởng bàn giao trực tiếp cho đại diện tang chủ và có ký nhận vào sổ ghi chép chung. Trong quá trình cử hành đám tang, toàn bộ nhà cửa, tài sản, vật nuôi của gia chủ được giao lại cho phường trông nom, chăm sóc. Vai trò của trùm trưởng lúc này vô cùng cần thiết và quan trọng đối với tất cả các công việc. Họ phải quan sát nhanh, phân công nhanh và quán xuyến tất cả các công việc giúp đỡ tang chủ. Đầu tiên họ phải xem gia chủ có còn thóc gạo hay không. Trong trường hợp không còn họ phải phân công mọi người đi mua thóc hoặc vay thóc gạo trong thời gian sớm nhất để có lương thực phục vụ những ngày tang lễ; nếu trâu bò không có ai chăn, họ cũng phải phân công người chăn trâu trong suốt những ngày diễn ra tang ma; nếu nhà có cháu bé cũng phải cắt cử người ra trông nom chăm sóc chu đáo. Có thể nói mọi người được cắt cử công việc cảm thấy trách nhiệm của mình rất cao và họ rất cố gắng để hoàn thành. Họ rất sợ bị chê trách nếu như không làm tròn nhiệm vụ. Do vậy, khi được phân công ai nấy đều cố gắng thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình với gia đình tang chủ. Trước đây, do còn tồn tại những ngôi nhà sàn tạm bợ, không chắc chắn nên khi nhà tập trung đông người dễ xảy ra hiện tượng xiêu vẹo hoặc đổ sập. Do vậy, trong tổ chức hàng phường phân chia thêm cả một số thành viên tham gia chống nhà, chống cửa, làm cầu thang lên xuống. Họ phải tự bố trí hoặc đi vào rừng lấy cây về lo liệu mọi việc đã được phân công. Thực tế, hầu hết hàng phường đám tang của các bản đều được phân chia thành 4 nhóm (tỵ nhục, tỵ nguyệt, tổ thịt lợn và làm nhà táng). Mỗi một tổ thường có 6 người tham gia. Họ phải chịu trách nhiệm công việc được phân công. Tổ làm nhà táng phải chịu trách nhiệm đi lấy cây làm nhà táng. Tổ tỵ nhục chịu trách nhiệm nấu nướng các bữa cơm đầy đủ, sạch sẽ, không ôi thiu. Tổ thịt lợn phải chịu trách nhiệm thịt lợn, thịt gà và làm sạch lòng giao lại cho tổ tỵ nhục. Tổ tỵ nguyệt chịu trách nhiệm đào huyệt. Các dụng cụ để đào huyệt do các thành viên trong tổ tự lấy 93 từ nhà đi. Ngoài ra, họ còn có thêm trách nhiệm đưa thầy cúng ra khỏi ranh giới của bản khi công việc tang ma đã xong xuôi. Riêng tổ thịt lợn phải có trách nhiệm lo đủ lợn để cúng tế trong những ngày diễn ra đám tang. Nếu trường hợp trong gia đình hoặc anh em có thì họ không vất vả tìm kiếm. Trong trường hợp gia đình không có, trùm trưởng, trùm phó và tổ trưởng tổ thịt lợn phải có trách nhiệm đi tìm để lo đủ cho tang chủ. Đây là một điều bắt buộc thể hiện ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân. Tùy vào yêu cầu của gia đình cần lợn cúng vào thời điểm nào, hàng phường phải có trách nhiệm thịt trước, kể cả nửa đêm. Còn lại những người không có tên trong danh sách này sẽ làm những công việc không tên do trùm trưởng và trùm phó phân công. Trong khi đó, hàng phường của người Nùng Phàn Slình ở Cao Lộc, Lạng Sơn lại chia làm 10 nhóm khác nhau: nhóm tổ áo quan, tổ nhà táng, tổ tỵ nhục, tổ đào huyệt, tổ thịt gà, lợn, dê, tổ làm cầu thang ra ma, tổ chuẩn bị tang phục [2, tr.99]. Đây là điểm khác biệt với người Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên mà luận án này nghiên cứu. Sự khác nhau này có thể do điều kiện hoàn cảnh kinh tế - xã hội của hai địa bàn nhưng không vì thế mà nó ảnh hưởng đến tinh thần đoàn kết và tính cố kết trong cộng đồng của tộc người này. Sau mỗi đám tang, hàng phường tổ chức họp tại nhà tang chủ. Các thành viên dự họp cử ra một người viết biên bản. Nhìn chung, biên bản họp phường của các bản đều có một số điểm như sau: thứ nhất, nhận xét về sự tham gia và đóng góp của các hộ cho đám hiếu của gia chủ; thứ hai, nhận xét chung của các thành viên về sự lãnh đạo của trùm trưởng và trùm phó từ lúc bắt đầu được hiếu chủ báo tin có người mất, đi loan báo cho các hộ đến phân công và giám sát công việc các nhóm trong quá trình thực hiện; thứ ba, nhận xét về sự phối hợp giữa gia đình với hàng phường từ lúc bắt đầu báo tin có người mất cho đến khi đưa tiễn xong xuôi. Cuối cùng là các ý kiến tham gia và xây dựng để cho tổ chức hàng phường hoạt động hiệu quả hơn. Trong quá trình họp phường tất cả các ý kiến của các hội đều rất thẳng thắn, thậm chí khá gay gắt. Nếu như hộ nào vắng mặt không tham gia không có ý kiến với trùm trưởng, trùm phó thì sẽ bị nêu tên phê bình công khai trước toàn bộ tập thể. Các nhóm sẽ tự nhận xét về nhóm mình 94 đồng thời cũng nhận xét về nhóm khác. Cũng tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh từng thời điểm gia đình có đám tang mà nội dung họp phường có thể thêm một số chi tiết khác để các thành viên tuân thủ theo. BIÊN BẢN HỌP HÀNG PHƢỜNG NƢỚC LẠNH (Đám tang cụ Lâm Thị Seo) Nước Lạnh, ngày 3/11/1008 tức ngày 6/10/2008 âm lịch Hôm nay, địa điểm tại nhà ông Lý Xuân Toàn Thành phần họp: Toàn bộ hàng phường Nước Lạnh Tổng số: 31/31 đủ (xin vào 01 là 32) Có mặt: 32. Vắng: 0 Chủ toạ: Trùm trưởng: Lăng Văn Tốt Trùm phó: Đàm Văn Tinh Thư kí: Đàm Văn Xuân NỘI DUNG I. Kiểm điểm, đánh giá các công việc đã thực hiện: về cơ bản là tốt không có vấn đề gì. II. Về xây dựng và bổ sung nội quy của phƣờng: 1. Mức đóng góp: - Tiền: 1 kg lợn hơi (giá thị trường) - Củi: 10 kg - Gạo: 1,5kg 2. Các tổ tự túc mang đồ dùng để hoàn thành công việc của mình được giao. Ví dụ: Tỵ nguyệt là tự phân công mang cuốc, xẻng 3. Các tổ phải chịu sự phân công của trùm trưởng, trùm phó (không được tự ý nghỉ khi chưa có ý kiến của trùm). 4. Thành viên mới xin vào: đám thứ nhất không phải đóng góp gì. Từ đám thứ hai phải đóng góp như mọi người, và phải đóng thêm tiền cáng là 120.000đ. 5. Về việc bảo quản: cáng, trống, nhà táng - Về trống: nếu để lâu mà trống hỏng thì không mua nữa, nếu thuê được thì thuê, 95 không cho phép bỏ tiền ra. (Riêng trống không được tự ý đánh lung tung). - Về cáng, nhà tang: gia đình phải bảo quản nếu hỏng phải đền. (Trường hợp hoả hoạn không phải đền). 6. Về việc miễn: khi gia đình có người mất chỉ được miễn 01 xuất nếu gia đình đó phải là đang làm ma tại nhà. 7. Tiền phúng: phường phải đóng góp thêm. Biên bản kết thúc lúc 10h cùng ngày. Trùm trƣởng (Đã kí) Lăng Văn Tốt Thƣ kí (Đã kí) Đàm Văn Xuân Sau đó đại diện gia đình cảm ơn sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của anh em hàng phường đối với công việc lớn của gia đình. Nếu gia đình có khiếm khuyết trong quá trình tang ma cũng xin lỗi vào cuối buổi họp tổng kết này. Cuộc họp phường nào cũng vậy, các thành viên trong phường cũng đều đưa ra các ý kiến xây dựng tổ chức chung của mình ngày càng tốt hơn, đồng thời họ cũng đưa ra các quyết định rõ ràng về sau. Ví dụ như đối với gia đình nào nghỉ việc không có ý kiến với trùm trưởng và trùm phó nếu lần đầu tiên sẽ được phường châm chước, nếu tái phạm sẽ bị đuổi ra khỏi tổ chức phường, xóa tên người đó ra khỏi cuốn sổ ghi chép chung của cộng đồng. Việc đóng góp cho phường cũng có sự bàn bạc rõ ràng, công khai (xem Phụ lục hình ảnh, 10.12). Báo cáo tài chính khá quan trọng trong buổi họp tổng kết sau mỗi đám tang. Trùm trưởng và trùm phó phải có trách nhiệm báo cáo quỹ đã chi và còn lại bao nhiêu. Số tiền còn lại dù ít hay nhiều sẽ được bàn giao ngay lại cho trùm trưởng mới trước sự chứng kiến của tất cả các thành viên trong phường. Tổ chức cũng phân chia và ghi vào biên bản các nhóm chính: tỵ nhục, thịt lợn, tỵ nguyệt và nhà táng cho đám lần sau. Và đến lúc đó không ai bảo ai tất cả các hộ hàng phường đều biết trước trách nhiệm của mình ở trong tổ đó. - Hàng phường hỗ trợ thực hiện những công việc khác Trong một năm, nhiều sự kiện diễn ra khắp các bản người Nùng Phàn Slình 96 như: cưới xin, sinh nhật, cúng giỗ, lễ tết... Những sự kiện này đòi hỏi không chỉ gia chủ chuẩn bị chu đáo về gạo, lợn, rượu... mà còn có sự giúp đỡ của anh em, họ hàng, láng giềng trong bản. Mọi người sẽ phân cô

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_to_chuc_ban_cua_nguoi_nung_phan_slinh_o_huyen_dong_h.pdf
Tài liệu liên quan