MỞ ĐẦU .1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .7
1.1. Những công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, tiền đề lý luận, cuộc đời và
sự nghiệp khoa học của Karl Popper. .8
1.2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến tư tưởng triết học về chính trị
- xã hội của Karl Popper .13
1.3. Những công trình đánh giá về những giá trị và những hạn chế về mặt triết
học trong tư tưởng chính trị - xã hội của karl popper.21
1.4. Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu, đánh giá về Karl Popper.24
Chương 2: BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT
HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER .28
2.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội hình thành tư tưởng triết học về chính trị
- xã hội của Karl Popper .28
2.2. Những tiền đề khoa học tự nhiên cho sự hình thành tư tưởng triết học về
chính trị - xã hội của Karl Popper.34
2.3. Những tiền đề triết học và lý luận xã hội cho sự hình thành tư tưởng triết học
về chính trị - xã hội của Karl Popper.41
2.4. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp khoa học của Karl Popper .59
Chương 3: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER .65
3.1. Quan niệm của Karl Popper về chủ nghĩa tự do xã hội.66
3.2. Quan niệm triết học của Karl Popper về xã hội mở .70
3.3. Sự phê phán của Karl Popper đối với chủ nghĩa lịch sử như là kẻ thù của xã
hội mở .84
Chương 4: NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC
TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER .105
4.1. Những đóng góp về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl
Popper .105
4.2. Một số hạn chế về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl
Popper .127
KẾT LUẬN .14848
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN.1522
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.1
164 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 510 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tư tưởng chính trị - Xã hội của Karl Raimund Popper những giá trị và hạn chế về mặt triết học - Dương Thị Phượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh động của xã hội mở và xã hội đóng được Popper đề
cập thông qua quan điểm của hai nhà chính trị và triết học Pericles và Platon.
Pericles cho rằng: “Mặc dù chỉ có ít người tạo ra chính trị, song tất cả chúng ta đều
73
có khả năng đánh giá nó” [105, p.5]; còn Platon cho rằng: “Nguyên tắc vĩ đại nhất
trong mọi nguyên tắc là không một ai được sống thiếu thủ lĩnh. Cũng hệt như vậy,
không được có ai đó có tư tưởng thích nghi với việc nó được phép làm gì đó theo
sáng kiến riêng của mình thậm chí trong công việc nhỏ mọn nhất, nó cũng phải
tuân thủ sự chỉ đạo” [105, p.90].
Từ xã hội đóng để tiến đến xã hội mở, theo Popper đây là một cuộc cách mạng
sâu sắc nhất mà nhân loại đã trải qua. Ông viết: “Có thể nêu đặc trưng bước chuyển
từ xã hội đóng lên xã hội mở như là một trong các cuộc cách mạng sâu sắc nhất mà
nhân loại đã trải qua” [105, p.153]. Ông đưa ra các tiêu chuẩn để từ xã hội đóng tiến
lên xã hội mở.
Trước hết, ông nói rằng: “Đương nhiên, có thể đưa ra tiêu chuẩn hữu ích về
bước chuyển từ xã hội đóng lên xã hội mở. Bước chuyển đó diễn ra khi các thiết chế
xã hội lần đầu tiên được thừa nhận một cách có ý thức là do con người tạo ra, cũng
như khi việc cải biến chúng một cách có ý thức được thảo luận nhờ xuất phát từ tính
hữu ích của chúng đối với việc đạt tới các ý định và mục đích của con người. Vì
diễn đạt một cách ít trừu tượng hơn, xã hội đóng sụp đổ khi nỗi sợ hãi siêu tự nhiên
về trật tự xã hội sẽ nhường chỗ cho sự can thiệp tích cực, cũng như cho sự theo đuổi
có ý thức lợi ích cá nhân hay lợi ích nhóm” [105, p.247].
Rõ ràng, theo Karl Popper các thiết chế trong xã hội đóng không được thừa
nhận là do con người tạo ra, mà được coi là bộ phận vững chắc và không phá hủy
được trong cấu trúc của vũ trụ. Do vậy, không nên can thiệp vào chúng, còn sự cải
biến chúng thì không thể tranh luận được. Khi trong đầu của con người nảy ra ý
nghĩ là rằng các thiết chế của họ là do con người tạo ra thì họ bắt đầu thảo luận cần
phải cải biến chúng như thế nào. Và Karl Popper đi đến kết luận rằng trở ngại cơ
bản đối với sự tiến lên của chúng ta khi cải biến các thiết chế một cách có ý thức và
hợp lý là sức nặng của các tín ngưỡng tiền lịch sử để lại, được kẻ thù của xã hội mở
sử dụng để xây dựng các học thuyết coi các thiết chế xã hội không phải là vật sáng
tạo của con người. Như vậy, Karl Popper khẳng định rằng, khi nào con người đi đến
chỗ thừa nhận các thiết chế của họ do họ tạo ra thì xã hội sẽ đi từ xã hội đóng đến
74
xã hội mở.
Thứ hai, Karl Popper cho rằng, khi xã hội thị tộc tan rã thì bắt đầu “việc theo
đuổi một mục đích là lợi ích cá nhân hay lợi ích nhóm”. Nếu trong xã hội thị tộc
nguyên thủy, con người chưa cố cải biến các thiết chế vì lợi ích cá nhân hay lợi ích
nhóm, thì điều đó diễn ra không hẳn vì sự chuyên chế của các tập tục thị tộc ngăn
cấm điều đó, mà chủ yếu vì chưa có lợi ích cá nhân hay lợi ích nhóm riêng biệt mà
để đáp ứng thì cần phải cải biến các thiết chế. Đương nhiên, cùng với sự xuất hiện
các lợi ích độc lập thì sự cải biến các thiết chế để làm cho chúng phù hợp với các lợi
ích đó, là minh họa cho việc “đạt tới các ý định hay các mục đích của con người”, vì
lợi ích là lợi ích của con người.
Karl Popper luận chứng rằng, việc theo đuổi lợi ích cá nhân hay lợi ích nhóm
bắt đầu diễn ra sau sự tan rã của xã hội thị tộc, một cách bất biến và hoàn toàn tất
yếu sẽ dẫn tới việc dùng bạo lực để bắt lợi ích cá nhân phục tùng lợi ích nhóm, cũng
như lợi ích của một nhóm này phục tùng lợi ích của nhóm khác. Còn đối với xã hội
phân chia thành các giai cấp, thay thế cho xã hội thị tộc, là rất xa lạ với xã hội mở
không phải vì những điều cấm kỵ của thị tộc cản trở các khả năng “quyết định của
cá nhân” trong ứng xử hàng ngày, mà vì việc bắt lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm
phục tùng lợi ích của giai cấp thống trị đã cản trở chúng.
Như vậy theo Karl Popper, sự phát triển từ xã hội đóng đến xã hội mở là do có
được sự chuyển biến về nhận thức và sự hình thành lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm.
Tuy nhiên, ông lại không đi xa hơn nữa để chỉ ra nguyên nhân sâu xa của sự chuyển
biến này. Do vậy, chúng ta cần vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
lịch sử để xem xét vấn đề này một cách sâu sắc hơn. Xã hội thị tộc nguyên thủy tan
rã là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến chế độ tư hữu thay thế chế độ
công hữu, khi đó lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm nổi lên và chiếm ưu thế so với lợi
ích tập thể của bộ lạc. Tuy nhiên, trong chế độ nô lệ và phong kiến, xã hội chỉ được
mở ra ở buổi ban đầu; sau khi giai cấp thống trị đã cũng cố được quyền lực tuyệt
đối của mình thì xã hội lại rơi vào trạng thái đóng còn tồi tệ hơn. Tình trạng này
cũng còn tồn tại trong xã hội tư bản là xã hội ‘mở một cách méo mó’ như nhận xét
75
của George Soros, một học trò xuất sắc của Karl Popper. Chỉ khi lực lượng sản xuất
và nền kinh tế thị trường cùng với một chế độ dân chủ đã phát triển ở trình độ cao
thì xã hội mở mới được thực hiện một cách đầy đủ hơn. Áp dụng nguyên lý của
phép biện chứng duy vật về sự phát triển thì xã hội mở phải được xem xét như là
một quá trình tiến lên từ thấp đến cao. Hiện nay, xã hội mở mới chỉ được thực hiện
một phần mà thôi.
3.2.2. Về các đặc trưng cơ bản của xã hội mở
Thứ nhất, theo Karl Popper, xã hội mở là xã hội do con người sáng tạo một
cách tự do.
Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm duy vật lịch sử của triết học Mác -
Lênin coi quần chúng nhân dân là người quyết định sự phát triển của lịch sử bằng
hoạt động sản xuất ra của cải vật chất, hoạt động sáng tạo ra những giá trị tinh thần
và là lực lượng cơ bản của mọi chuyển biến cách mạng trong lịch sử.
Nhiều nhà triết học phương Tây xác định xã hội đóng là xã hội bị ràng buộc
bởi nhiều rào cản, chúng cản trở sự tự do sáng tạo của cá nhân con người và mối
liên hệ trực tiếp của xã hội với thế giới bên ngoài. Như vậy, ‘mở’ có nghĩa là ‘xóa
bỏ rào cản’ đối với cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, là một nhà tự do chủ nghĩa, Karl
Popper chỉ nhấn mạnh tự do cá nhân trong sáng tạo xã hội mở và không bàn vai trò
của các tổ chức xã hội trong đó cá nhân là thành viên và mối quan hệ giữa xã hội
với thế giới bên ngoài.
Đối với Karl Popper, xã hội mở là xã hội không được xác định trước, không bị
quy định bởi nhà nước hay bất cứ một điều cấm kỵ nào; nó được “mở ra” cho mọi
người tham gia sáng tạo bằng ý tưởng và hoạt động thực tiễn của mình. Tuy phiến
diện, nhưng việc làm rõ vai trò sáng tạo của cá nhân đối với xã hội cũng là một
đóng góp quan trọng của Karl Popper về mặt triết học xã hội. Chính Einstein cũng
đã nói đến vấn đề này trong “The World as I see It” (Thế giới như tôi thấy). Ông
nói: “Chỉ có cá nhân mới suy nghĩ và tạo ra những giá trị mới cho xã hội, thậm chí
xây dựng nên những tiêu chuẩn đạo đức mới mà xã hội phải khuôn theo. Nếu không
có những cá nhân sáng tạo có khả năng tư duy và phán xét độc lập thì sự phát triển
76
đi lên của xã hội là không thể có được”. Ông lấy dẫn chứng: “Có thể nói một cách
đúng đắn rằng cơ sở của văn hóa Hy Lạp - Âu – Mỹ và đặc biệt là sự nở rộ của nó
trong thời Phục hưng ở Ý đã chấm dứt tình trạng trì trệ Trung cổ chính là nhờ ở sự
giải phóng và tách biệt tương đối của cá nhân” [97, p.14].
Như vậy, một rào cản quan trọng của xã hội mở cần phải tháo gỡ đó là sự hạn
chế tự do cá nhân, sự bắt cá nhân phải phụ thuộc hoàn toàn vào những điều quy
định của xã hội và nhà nước, không cho cá nhân có điều kiện để phát triển và vận
dụng hết mọi tiềm năng sáng tạo của mình. Quan niệm về vai trò sáng tạo của cá
nhân trong xã hội mở chẳng những không trái mà còn là điều bổ sung cho triết học
Mác về quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Chính Mác trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản đã đưa ra tư tưởng: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả mọi người”. Vai trò của cá nhân quan trọng không chỉ ở
lĩnh vực chính trị mà còn thể hiện trong nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, văn hóa,
xã hội, khoa học, nghệ thuật, v.v..
Nếu quan niệm xã hội ‘đóng’ là xã hội trong đó cá nhân không có quyền tự do
lựa chọn và hoạt động, mà bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố như tập tục, truyền thống,
tín ngưỡng, tôn giáo và những điều quy định, cấm kỵ của bộ lạc hay của nhà nước,
và xã hội ‘mở’ là xã hội trong đó cá nhân con người được giải phóng khỏi những
ràng buộc đó và được tự do hoạt động trong xây dựng, sáng tạo ra xã hội mới, thì
trong quan niệm của triết học Mác về xã hội cộng sản tương lai đã hàm chứa nhiều
yếu tố của xã hội mở, mặc dù Mác, Ăngghen, Lênin chưa dùng thuật ngữ ‘mở’ và
‘đóng’ như H. Bergson hay Karl Popper.
Chính Conforth đã phê phán Popper buộc tội chủ nghĩa cộng sản như là xã hội
đóng, coi chủ nghĩa Mác là kẻ thù của xã hội mở, mà không thấy rằng Mác và
Ăngghen nhiều lần nhấn mạnh hoạt động tự do của cá nhân trong xã hội cộng sản
tương lai khi con người được giải phóng khỏi những ràng buộc về giai cấp, chủng
tộc, giới tính, địa phương và nhất là bởi sự phân công lao động bị hạn chế từ trước
đến nay.
Xã hội đóng, theo Mác và Ăngghen có cơ sở kinh tế của nó là nền sản xuất
77
nhỏ với chế độ tư hữu nhỏ và sự phân công lao động dựa trên chế độ sở hữu nhỏ đó.
Theo Mác và Ăngghen, một khi bắt đầu có phân công lao động thì “mỗi người đều
có một phạm vi hoạt động nhất định và độc chuyên mà người đó buộc phải nhận lấy
và không thể thoát khỏi được: người đó là người đi săn, người đánh cá, hoặc người
chăn nuôi, hoặc là nhà phê phán có tính phê phán, và người đó vẫn cứ phải là như
thế nếu không muốn mất những tư liệu sinh hoạt của mình”. Còn trong xã hội cộng
sản tương lai, trong đó không ai bị hạn chế trong một phạm vi hoạt động độc
chuyên, mà mỗi người đều có thể tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh vực nào
thích, thì xã hội điều tiết toàn bộ nền sản xuất, thành thử “tôi có khả năng hôm nay
làm việc này, ngày mai làm việc khác, buổi sáng đi săn, quá trưa đi đánh cá, buổi
chiều chăn nuôi, sau bữa cơm thì làm việc phê phán, tùy theo sở thích của tôi mà
chẳng bao giờ trở thành người đi săn, người đánh cá, người chăn nuôi hoặc nhà phê
phán cả” [51, tr.47].
Karl Popper là nhà duy lý nên ông không chú ý đến cơ sở kinh tế và điều kiện
vật chất của việc xây dựng xã hội mở. Thật ra, nếu xã hội đóng gắn liền với một nền
kinh tế lạc hậu thì xã hội mở phải có cơ sở kinh tế của nó là một nền sản xuất lớn
với sự phát triển đầy đủ của kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế của các quốc
gia, dân tộc.
Theo Mác, xã hội cộng sản là xã hội mở không chỉ ở sự tự do của con người,
mà còn ở chỗ nó mở ra cho con người, sau khi được giải phóng khỏi mọi ràng buộc
của xã hội cũ và khắc phục được những hạn chế của nền sản xuất trước đây, khả
năng hưởng thụ tất cả những sáng tạo của cả nhân loại về vật chất và tinh thần.
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, Mác và Ăngghen viết: “Chỉ có như vậy thì các
cá nhân riêng rẽ mới được giải thoát ra khỏi những khuôn khổ dân tộc và địa
phương khác nhau của mình, mới có được những liên hệ thực tiễn với nền sản xuất
(kể cả nền sản xuất tinh thần) của toàn thế giới và mới có được khả năng hưởng thụ
nền sản xuất của toàn thế giới về mọi lĩnh vực (tất cả những sáng tạo của con
người)” [51, tr.53].
Con người chỉ phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của mình không chỉ khi được
78
hoàn toàn tự do như Karl Popper nói, mà theo Mác, còn phải có những điều kiện
khác nữa, như khi lao động thực sự trở thành nhu cầu và niềm vui và khi tình trạng
tha hóa của lao động được khắc phục.
Tuy nhiên, việc áp dụng lý luận về chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa thời kỳ trước đổi mới đã không đem lại xã hội mở vì có một số
nguyên nhân xuất phát từ mô hình kế hoạch hóa tập trung với việc xóa bỏ tư hữu và
kinh tế thị trường. Công cuộc mở cửa, đổi mới ở Trung quốc, Việt Nam và một số
nước xã hội chủ nghĩa khác đã dần dần khắc phục được những rào cản nói trên và
phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa theo con đường xã hội mở thực sự. Tuy nhiên, xã
hội mở là một quá trình trong đó xã hội càng ngày càng mở ra về mọi mặt, phù hợp
với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa của mỗi nước, không phải là cái gì đó có thể
xây dựng trong một thời gian nhất định.
Hai là, xã hội mở theo Karl Popper là xã hội không bị quy định bởi tính tất
yếu và quy luật lịch sử.
Vì Karl Popper là người theo chủ nghĩa tự do nên ông không thừa nhận quy
luật và tính tất yếu của lịch sử. Ông nói: “Tương lai phụ thuộc vào chúng ta, và
chúng ta không phụ thuộc vào tính tất yếu của lịch sử” [105, p.3]. Theo ông, con
người là người chủ số phận của mình và “chúng ta tác động và thay đổi lịch sử
giống như chúng ta thay đổi bộ mặt trái đất, chúng ta sáng tạo xã hội một cách tự do
hoàn toàn giống như chúng ta sáng tạo ra những tư tưởng mới, hay những công
trình nghệ thuật mới, những nhà cửa mới hay máy móc mới” [105, p.17].
Quan niệm này của Karl Popper hoàn toàn trái với quan điểm của Mác và
Ăngghen về mối quan hệ giữa tự do và tất yếu. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.
Ăngghen đưa ra một sự phân tích rất thấu tình đạt lý: “Tự do không phải là ở sự độc
lập tưởng tượng đối với các quy luật của tự nhiên, mà là ở sự nhận thức được những
quy luật đó và ở cái khả năng - có được nhờ sự nhận thức này - buộc những quy luật
đó tác động một cách có kế hoạch nhằm những mục đích nhất định”. Và cũng theo
Ăngghen, “tự do của ý chí không phải là cái gì khác hơn là cái năng lực quyết định
một cách hiểu biết công việc. Do đó, sự phán đoán của một người về một vấn đề
79
nhất định, càng tự do bao nhiêu thì nội dung của sự phán đoán đó sẽ được quyết
định với một tính tất yếu càng lớn bấy nhiêu.” [Xem 55, tr.163-164].
Ở đây, Ph. Ăngghen đã nói đúng khi cho rằng tự do không phải là hành động
tùy tiện bất chấp quy luật và tính tất yếu như Karl Popper quan niệm. Chính Albert
Einstein, người được Karl Popper rất kính trọng cũng khẳng định điều đó. Einstein
nói: “Tôi không tin vào tự do cá nhân theo nghĩa triết học của nó. Mỗi người hành
động không chỉ do sự bắt buộc bên ngoài mà còn do tính tất yếu bên trong nữa” [97, p.8].
Tuy nhiên, nhận thức được tính tất yếu và quy luật khách quan không phải là
vấn đề đơn giản. Con người chỉ có thể nhận thức được tính tất yếu và quy luật sau
một quá trình tương đối lâu dài; vì chỉ thông qua các hiện tượng đã ra đời và đã tồn
tại phổ biến ở tất cả các dân tộc và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài
mới có thể kết luận được là chúng có tính tất yếu và quy luật hay không. Cho nên
Karl Popper đã có lý khi phản bác việc đưa ra tính tất yếu và quy luật một cách chủ
quan, tùy tiện để bắt xã hội và hoạt động của con người phải tuân theo một cách
máy móc, cứng nhắc.
Dựa trên thuyết bất định, Karl Popper cho rằng hết thảy mọi cái trong xã hội
mở không phải đã được lịch sử quyết định từ trước. Bản thân lịch sử là không có
mục đích, không có ý nghĩa. Cái gọi là ‘mục đích’ và ‘ý nghĩa’ của lịch sử là do con
người tạo nên. Ông viết: “Mặc dù bản thân lịch sử không có mục đích, nhưng chúng
ta có thể căn cứ vào tình trạng của bản thân để tạo cho lịch sử những mục đích nào
đó”; “Sự thật cũng không có ý nghĩa, chỉ là do quyết định của chúng ta thì sự thật
mới có ý nghĩa”. Karl Popper cũng cho rằng, quan điểm này của ông khác với quan
điểm của chủ nghĩa lịch sử. Chủ nghĩa lịch sử cho rằng lịch sử là do quy luật quyết
định, là không cần có sự quyết định và lựa chọn của cá nhân, con người, “chỉ cần đi
theo bước chân của lịch sử, thì mọi việc sẽ bình thản, không cần có những quyết
định quan trọng của chúng ta. Nó tìm cách chuyển giao trách nhiệm của chúng ta
cho lịch sử; từ đó, đùa giỡn với quyền lực gian ác, vượt lên trên cả cá nhân của
chúng ta.” [Xem 106, p.265-266].
Thứ ba, theo Karl Popper, xã hội mở là xã hội dân chủ: nhà nước đại diện cho
80
ý chí của nhân dân, nhà nước phải làm theo nguyện vọng của nhân dân, không phải
nhà nước bắt nhân dân làm theo những quy định của mình.
Karl Popper cho rằng vấn đề chính trị cơ bản trong thời kỳ hiện nay là mở
rộng và củng cố chế độ dân chủ. Karl Popper phủ định chế độ dân chủ theo quan
điểm cho rằng dân chủ là một hình thức cai trị, bên trong đó, quyền lực của một giai
cấp đang được thực hiện, và đang được khẳng định; ngược lại, nó sẽ là một cái gì
đó đang làm cho vấn đề quyền lực của giai cấp trở nên không hợp thời đại và lạc
hậu. Karl Popper không thừa nhận chuyên chính vô sản là hình thức dân chủ cao
nhất. Ông giải thích rằng: vì C. Mác và Ph. Ăngghen nghĩ rằng ‘dân chủ’ có nghĩa
là ‘quyền lực của nhân dân’, hay là ‘quyền lực của đa số’, mà giai cấp vô sản là đa
số cho nên dân chủ có nghĩa là sự thống trị của giai cấp vô sản. Tuy nhiên, ngược
lại, các ông cũng nói với chúng ta, chế độ dân chủ hoàn toàn không phải là ‘quyền
lực’ của một ai đó cụ thể, mà là ‘xác lập sự giám sát’ đối với những người giữ chức
quyền từ phía những người không cầm quyền [ Xem 105, p.108].
Karl Popper giải thích cái ưu việt lớn nhất của chế độ dân chủ, là ở chỗ nó bảo
đảm khả năng thiết lập sự giám sát đối với hoạt động của những người cầm quyền
hay là của những cá nhân có chức quyền cho dù họ có là ai đi chăng nữa, cũng như
trong trường hợp cần thiết thì cũng là phế truất những người cầm quyền mà không
sử dụng bạo lực. Nếu không có các thiết chế dân chủ hay là các thiết chế này không
phát triển và yếu kém, thì một phương thức duy nhất để giám sát và thay thế các nhà
cầm quyền là đem một hình thức bạo lực nào đó đối lập lại bạo lực của họ. Xét về
mặt lịch sử, việc tạo ra các thiết chế dân chủ đương nhiên là gắn liền với việc chống
đối lại hành động của các nhà quân phiệt. Từ quan niệm như vậy Karl Popper đi đến
định nghĩa dân chủ như sau: “Tôi hiểu dân chủ không là một cái gì đó không xác
định, giống như ‘quyền lực của nhân dân’ hay là ‘quyền lực của đa số’, mà là hệ
thống các thiết chế, hệ thống cho phép thực hiện sự giám sát xã hội đối với những
người cầm quyền và bãi miễn họ theo ý muốn của những người không cầm quyền,
cho phép những người này đạt tới cải cách mà không cần sử dụng bạo lực, thậm chí
là trái với ý muốn của người cầm quyền” [105, p.140].
81
Tóm lại, xã hội mở theo Karl Popper là xã hội tự do, dân chủ trong đó người
chủ cao nhất của xã hội là nhân dân, mọi người dân được tham gia sáng tạo xã hội
bằng ý tưởng và hoạt động thực tiễn của mình. Nó khác với xã hội đóng là xã hội
trong đó con người không có tự do mà cuộc sống và hoạt động của họ phải tuân thủ
một cách nghiêm ngặt những tập tục, truyền thống, những quy định cứng nhắc của
tập thể và nhà nước. Tuy nhiên, do điều kiện hạn chế của thời kỳ lịch sử mà trong
đó Karl Popper sống và làm việc, ông chỉ mới vạch ra một vài đặc trưng cơ bản của
xã hội mở. Hiện nay, trong điều kiện mới của thế giới: sự phát triển mạnh mẽ của
kinh tế thị trường, công nghệ thông tin, toàn cầu hóa, những đặc trưng về xã hội mở
được Karl Popper nêu ra là chưa đủ, chúng ta cần phải bổ sung thêm những đặc
trưng mới, như toàn cầu hóa, mở cửa, hội nhập, v.v..
3.2.3. Về con đường xây dựng xã hội mở
Thứ nhất, theo Karl Popper, xã hội mở là xã hội do nhân dân xây dựng nên,
một cách tự do, sáng tạo, không phải được quy định bởi một cái gì có sẵn trong cấu
trúc vũ trụ, do ý chí của Thượng đế hay theo một hệ tư tưởng, một mô hình có sẵn,
hoặc theo ý chí chủ quan của một đảng hay của nhà cầm quyền.
Hai là, Karl Popper cho rằng xã hội mở được xây dựng theo một “công nghệ
xã hội” nhất định được ông gọi là ‘kiến thiết xã hội từng phần’, đối lập với phương
pháp kiến thiết ‘toàn phần’ hay ‘không tưởng’. Ông nói: “Sự khác biệt giữa cái tôi
gọi là ‘cải biến xã hội từng phần’ và ‘cải biến xã hội không tưởng’ là một trong
những chủ đề chính của cuốn sách này” [105, p.18].
Nếu phương pháp cải biến xã hội toàn phần hay không tưởng dựa trên một ‘lý
tưởng’, một ‘cứu cánh’ nhất định thì phương pháp cải biến xã hội từng phần, trái
lại, không dựa vào cái lý tưởng hay cứu cánh nào cả, mà chỉ tìm ra những cái xấu,
khuyết tật của xã hội để đấu tranh loại bỏ. Ông nói: “Những chính trị gia theo
phương pháp này có thể có hoặc không có một bản thiết kế xã hội trong đầu, anh ta
có thể tin hoặc không tin một ngày kia nhân loại sẽ đạt được một trạng thái lý
tưởng, và đạt được hạnh phúc và sự hoàn thiện trên trái đất. Người kỹ sư từng phần
này do vậy sẽ thực hiện cái phương pháp tìm kiếm và đấu tranh chống lại những
82
khuyết tật lớn nhất và cấp bách nhất của xã hội, không phải là đi tìm và đấu tranh
cho mục đích cuối cùng vĩ đại nhất của nó” [105, p.139].
Theo Karl Popper, phương pháp cải biến xã hội từng phần là phương pháp đơn
giản, có tính khả thi, trong khi đó phương pháp cải biến xã hội toàn phần là phương
pháp phức tạp và không có tính khả thi. Theo ông, đây là “phương pháp tương đối
đơn giản”, “nếu có sai lầm thì thiệt hại không lớn và việc điều chỉnh không khó
lắm”, “nó ít có tính phiêu lưu và vì thế nó ít bị chống đối”. Nó “có khả năng đạt
được sự đồng thuận một cách hợp lý và nhờ đó có thể được hoàn thiện bằng những
phương pháp dân chủ” [105, p.140].
Karl Popper cho rằng “phương pháp cải biến xã hội toàn phần không có tính
khả thi do sự hiểu biết và kinh nghiệm xã hội của chúng ta là rất hạn chế, cho nên
chúng ta khó có thể tính toán trước được những hậu quả của việc cải tạo xã hội một
cách toàn bộ. Theo ông, chúng ta không có kiến thức thực tế và kinh nghiệm thực
tiễn đầy đủ để vạch ra kế hoạch cho xã hội tương lai được” [105, p.142].
Căn cứ vào những lý do trên, Karl Popper cho rằng người kỹ sư từng phần dễ
nhận được sự tán đồng của đại đa số nhân dân, trong khi đó phương pháp cải biến
xã hội toàn phần gặp phải sự chống đối từ nhiều phía cho nên “đòi hỏi phải có một
sự tập trung quyền lực mạnh mẽ của một thiểu số và vì thế dễ dẫn đến chế độ độc
tài” [105, p.140]. Ngoài ra, chế độ toàn trị vì chỉ đại biểu cho ý chí của một thiểu số
nên thường để ngoài tai hoặc đàn áp sự phê phán từ phía đa số, dẫn đến việc áp
dụng biện pháp cai trị bạo lực.
Xã hội đóng thì dựa trên trí tuệ và tài năng của vĩ nhân cho nên coi thường vai
trò của quần chúng nhân dân. Theo Karl Popper, thật là ngạc nhiên khi người ta tìm
thấy câu nói sau đây của Heraclitus trong các trích đoạn của ông đã có rất sớm từ
500 năm trước công nguyên: “Một người là vĩ nhân thì có giá trị hơn chục nghìn
người. Nó vẫn còn là đặc trưng của những khuynh hướng phản dân chủ và lịch sử
chủ nghĩa hiện đại” [105, p.14]. Một khó khăn khác là việc tìm người kế vị để tiếp
tục theo đuổi lý tưởng, vì “nếu người kế vị không theo đuổi cùng một lý tưởng thì
mọi hy sinh của nhân dân cho lý tưởng đó sẽ trở thành vô ích” [105, p.141].
83
Karl Popper nói về ưu thế của phương pháp cải tạo xã hội từng phần với
phương pháp toàn phần như sau: “Phương pháp này được sử dụng, đặc biệt là để
phát hiện và đấu tranh chống lại những khuyết tật lớn nhất và khẩn cấp nhất của xã
hội, chứ không phải dùng để tìm kiếm và đấu tranh cho một cứu cánh tốt đẹp nào
đó. Cuộc chiến có hệ thống chống lại những cái xấu được xác định rõ ràng, chống
lại những hình thức bất công hay bóc lột cụ thể, và chống lại nỗi thống khổ có thể
tránh được như nghèo đói hay thất nghiệp, là một việc làm khác xa với nỗ lực thực
hiện một đồ án thiết kế xã hội lý tưởng xa vời. Thành công hay thất bại được dễ
dàng đánh giá hơn, và chẳng có một lý do nội tại nào khiến phương pháp này bị phê
phán. Ngoài ra, một cuộc đấu tranh như vậy nhằm chống lại những cái xấu cụ thể và
những hiểm họa cụ thể chắc chắn có nhiều khả năng tìm được sự ủng hộ của đại đa
số hơn là một cuộc đấu tranh nhằm thiết lập một xã hội không tưởng, dù nó được
cho là lý tưởng đối với các nhà lập kế hoạch” [73, tr.162].
3.3. SỰ PHÊ PHÁN CỦA KARL POPPER ĐỐI VỚI CHỦ NGHĨA LỊCH
SỬ NHƯ LÀ KẺ THÙ CỦA XÃ HỘI MỞ
Nếu chủ nghĩa lịch sử là đặc trưng chung của một số học thuyết triết học về
lịch sử và xã hội thì sự không thừa nhận và phê phán của Karl Popper đối với chủ
nghĩa lịch sử lại thể hiện quan niệm triết học của ông về xã hội và lịch sử. Theo
Karl Popper, chủ nghĩa lịch sử là kẻ thù tư tưởng của xã hội mở, vì nó là cơ sở lý
luận của xã hội đóng, xã hội được cho là xây dựng theo tính tất yếu và quy luật
khách quan, nhưng thật ra là theo ý đồ chủ quan của nhà tư tưởng, nhà cầm quyền.
Sự phê phán chủ nghĩa lịch sử của Karl Popper được thể hiện rõ trong tác
phẩm “The Poverty of Historicism” (Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử). Tác
phẩm ra đời năm 1957, được nhiều học giả phương Tây đánh giá cao và sử dụng nó
như là một vũ khí lý luận để chống lại chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa cộng sản. Về
nguồn gốc tác phẩm, tác giả đã có quá trình nghiên cứu từ những năm 1919-1920 và
những luận điểm cơ bản của tác phẩm được đưa ra thảo luận lần đầu vào năm 1935.
3.3.1. Đặc trưng và phân loại chủ nghĩa lịch sử
* Khái niệm của Karl Popper về chủ nghĩa lịch sử
Ka
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tu_tuong_chinh_tri_xa_hoi_cua_karl_raimund_popper_nh.pdf