MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7
1.1. Các công trình liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối
quan hệ dân tộc và giai cấp 7
1.2. Các công trình liên quan đến việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay 14
1.3. Những khía cạnh đã được đề cập và những vấn đề mà luận án tiếp tục
nghiên cứu 20
Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP 24
2.1. Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp 24
2.2. Tính tất yếu và nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam 32
2.3. Những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam xuất phát từ việc giải quyết
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp 51
Chương 3: GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN
ĐỀ GIAI CẤP TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM (1986 - 2016) 68
3.1. Bối cảnh mới tác động đến việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp ở nước ta trong quá trình đổi mới 68
3.2. Một số kết quả đạt được trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước ta giai đoạn 1986 - 2016 72
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp trong quá trình đổi mới ở nước ta 102
Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 115
4.1. Những quan điểm cơ bản 115
4.2. Một số giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh 123
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
169 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 371 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a các vùng miền làm cho dân
tộc gắn kết trong quá trình phát triển kinh tế để hình thành thị trường thống nhất, tạo cơ
sở cho sự thống nhất của toàn dân tộc trên mọi phương diện. Đó cũng là quá trình tạo
tiền đề cho dân tộc tham gia hợp tác phân công lao động quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi giai cấp, tầng lớp, mỗi chủ thể sản xuất kinh
doanh tuy có lợi ích riêng, nhưng sự phát triển của mỗi thành phần kinh tế này đều góp
phần làm tăng của cải cho xã hội, góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu của
dân tộc và cũng là mục tiêu của các giai cấp và tầng lớp ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay. Thời kỳ đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, không phải là từ bỏ lợi ích giai cấp, mà thực chất đổi mới là thực hiện sự kết hợp lợi
ích dân tộc và lợi ích giai cấp bằng những hình thức bước đi phù hợp với yêu cầu và
nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới để tạo ra động lực thúc đẩy cách
mạng tiến lên.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại lợi ích thiết
thực cho mọi giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Điều này được thể hiện: Giai cấp công
nhân ngoài mục tiêu xã hội chủ nghĩa, họ còn được giải quyết công ăn việc làm. Những
người có khả năng lao động tốt, có thu nhập cao, đời sống của họ được cải thiện một
cách đáng kể so với thời kỳ trước đổi mới. Chính điều này đã nhân sức mạnh vật chất và
tinh thần của họ, tạo ra tiền đề mới để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình trong giai đoạn mới. Xứng đáng là giai cấp tiên phong, lãnh đạo sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Giai cấp nông dân trở thành người chủ thực sự
các tư liệu sản xuất của mình. Điều đó đã động viên họ trong lao động sản xuất, phát
huy được tính năng động sáng tạo của họ trong lao động. Nhờ đó mà năng suất lao động
trong nông nghiệp tăng nhanh và đời sống nhân dân được nâng lên, bộ mặt của nông
thôn được thay đổi. Sự phát triển đó đã tạo ra tiền đề thuận lợi cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, khẳng định “vấn đề dân tộc ở một nước nông nghiệp là vấn đề
nông dân” là một chủ trương sáng tạo của Đảng trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và
giai cấp; Giai cấp tư sản được xem là đối tượng cải tạo trong thời kỳ trước đổi mới, thì
nay họ được xem là một lực lượng xã hội còn tất yếu tồn tại trong thời kỳ quá độ. Họ có
quyền mở rộng sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng, được nhà nước bảo hộ và
được tạo điều kiện cho phát triển; Đời sống của các giai cấp cơ bản trên đã thay đổi, thì
đời sống của các tầng lớp trí thức, người sản xuất nhỏ cũng được nâng lên. Trong cơ chế
mới, đội ngũ trí thức ngày càng được tạo điều kiện, có nhiều cơ hội để phát triển sáng
79
tạo, sức lực để phục vụ đất nước. Đó là nguồn động lực to lớn thúc đẩy đội ngũ trí thức
ngày càng tích cực, sáng tạo hơn để góp phần nâng cao vị thế của mình trong cơ chế
mới và tham gia đóng góp cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với những thuận lợi mà cơ chế kinh tế mới mang lại cho các giai cấp là
những khó khăn, thách thức đặt ra, đòi hỏi các giai cấp phải vượt qua thì mới tồn tại và
phát triển được. Trong vô vàn những khó khăn và thách thức mà công nhân, nông dân,
trí thức là phải đối mặt, thì khó khăn nhất là các vấn đề các giai cấp phải tìm được tiếng
nói chung, phù hợp với mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và xu thế phát triển
của thời đại.
Với ý nghĩa đó phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp
phần tạo ra một hình thức liên kết mới giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, đó là sự
gắn kết không chỉ dựa trên yếu tố tình cảm, không chỉ dựa trên nhu cầu chống xâm lược,
chống thiên tai, mà nó còn dựa trên sự phát triển kinh tế - xã hội ở trình độ mới, tạo nên
sự gắn bó giữa các vùng, các miền để phát triển đất nước. Điều này phù hợp với lợi ích
toàn dân tộc trong việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ và thống nhất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, phát triển kinh tế nhiều thành phần đã góp phần nâng sự
thống nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp lên một trình độ mới, tạo nên sự thống nhất
căn bản hơn, vững chắc hơn giữa các lợi ích này. Dân tộc bao giờ cũng được phát triển
theo định hướng của một giai cấp nhất định, giai cấp nào đại diện cho phương thức sản
xuất mới, nó sẽ định hướng cho sự phát triển của dân tộc. Do vậy, tăng cường sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng của nó đảm bảo cho các thành phần
kinh tế vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, thống nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong phát triển kinh tế còn
thể hiện ở quan điểm phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội.
Như phân tích ở trên, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp thống nhất trong mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này đòi hỏi phải thực hiện
trong sự kết hợp hài hòa giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội, phát triển kinh tế phải
gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm sáng tạo trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người khẳng định mục đích xây dựng chủ nghĩa
xã hội là để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Mục tiêu hàng đầu của phát
triển kinh tế là nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, làm cho
80
đời sống của người dân ngày càng đầy đủ, sung sướng, hạnh phúc. Đời sống vật chất,
theo Người, trước hết giải quyết vấn đề ăn, mặc, nhà ở, chữa bệnh. Đời sống tinh thần,
theo Hồ Chí Minh, trước hết là bảo đảm học hành cho mọi người. Đồng thời Hồ Chí
Minh xác định rõ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ
nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, điều này chi phối
quan điểm phân phối. Để bảo đảm tính công bằng trong phân phối, Hồ Chí Minh đòi hỏi
cán bộ phải chí công, vô tư. Người quan tâm đến vấn đề phúc lợi xã hội, tuy nhiên theo
Người, phúc lợi phải gắn với hiệu quả sản xuất. Như vậy, vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được xem xét trong quan điểm của Hồ Chí
Minh là: Mục đích của xây dựng kinh tế để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm của Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới,
Đảng ta có những quan niệm mới để xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự phát
triển bền vững dựa trên những yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá vững chắc. Vì
vậy, đảm bảo kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với ổn định xã hội, công bằng xã
hội, tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường... Đảng ta khẳng định: “Đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
nhanh, bền vững” [50, tr.37]. Bền vững về mặt xã hội là vừa đảm bảo tăng trưởng kinh
tế, vừa giữ ổn định xã hội, không làm ảnh hưởng đến việc huy động nguồn lực cho sự
phát triển. Trong phát triển bền vững yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội hòa nhập vào nhau,
mục tiêu phát triển kinh tế phải bao gồm cả mục tiêu xã hội và ngược lại mục tiêu phát
triển xã hội cũng nhằm tạo ra động lực phát triển kinh tế. Giải quyết đúng đắn mối quan
hệ này là một trong những nội dung của việc giải quyết vấn đề dân tộc dân tộc và vấn đề
giai cấp trong thời kỳ đổi mới ở nước ta.
Trên tình thần đó Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền
với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” [44,
tr.31]. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, có một bộ phận cư dân giàu lên, một
số vùng giàu lên trước, có đóng góp lớn vào tăng trưởng của cả nước và lôi kéo các
vùng khác, nhất là các vùng khó khăn cùng phát triển lên. Đồng thời, chúng ta có những
81
chính sách kinh tế xã hội hỗ trợ đặc biệt giúp hộ nghèo, vùng nghèo vươn lên hòa nhập
với đời sống cộng đồng.
Chấp nhận phát triển kinh tế thị trường, chúng ta phải chấp nhận phân hóa giàu
nghèo ở một mức độ nhất định. Nhưng không đồng nhất sự phân hóa giàu nghèo với sự
bình đẳng và bất công xã hội nói chung. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta khuyến khích làm giàu chính đáng, lên án lối làm giàu bằng con đường
phi pháp bất chính, coi đó là một trong những động lực của sự phát triển xã hội.
Chính sự phát triển kinh tế thị trường đã tạo điều kiện để ngoài việc phân phối
theo lao động, nguồn vốn, tài sản đóng góp, còn có thể tính tới công lao của các đối
tượng có công, những người đã hy sinh xương máu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước. Hiện nay “cả nước có khoảng 8,8 triệu người có công, chiếm khoảng 10%
dân số, có khoảng 1,4 triệu người được hưởng trợ cấp thường xuyên. Bảo đảm mức
sống của người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa
bàn cư trú” [53, tr.111].
Thực tiễn những năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới cho thấy, đời sống của
các tầng lớp nhân dân nước ta đã được cải thiện đáng kể, thể hiện qua mức tăng thu nhập
bình quân đầu người và sự nâng cao chất lượng cuộc sống. Từ năm 1990 đến năm 2000
kinh tế đất nước đã đạt tăng trưởng cao. Tốc độ GDP bình quân của 10 năm (1990 - 2000)
đạt 7,5%/năm; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể, nguồn lực phát triển kinh tế đã
được huy động mạnh mẽ [46, tr.69]. Từ 2001 - 2010, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân đạt 7,26%/năm [50, tr.91] (riêng năm 2007 tốc độ tăng trưởng đạt 8,44%). Từ
năm 2011- 2015, “tốc độ tăng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm đạt trên
5,9%/năm. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP năm 2015 đạt
193,4 tỉ USD, bình quân đầu người khoảng 2.109 USD” [54, tr.225]. Đại hội XII xác định
mục tiêu đến năm 2020 “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại” [54, tr.272], với một số chỉ tiêu phấn đấu cụ thể như sau:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm
2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD. Tỉ trọng
công nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%. Tổng vốn đầu tư toàn xã
hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 - 34% GDP. Bội chi ngân sách nhà
nước còn khoảng 4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp
vào tăng trưởng khoảng 30 - 35%. Năng suất lao động xã hội bình quân
tăng khoảng 5%/năm. Tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm
1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 38 - 40% [54, tr.272].
82
Quy mô nền kinh tế ngày càng lớn mạnh, đó là những tiền đề vật chất quan trọng
để nâng cao thế và lực của nền kinh tế, tăng thu nhập quốc dân.
Nhằm thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, ban hành
nhiều chính sách đúng đắn, biện pháp cụ thể, khả thi nhằm giải quyết nhiều vấn đề xã
hội, trong đó đáng chú ý là công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người
lao động. “Mỗi năm bình quân tạo ra 1,5-1,6 triệu việc làm. Năm 2014, lao động trong
khu vực chính thức đạt trên 30% và lao động đã qua đào tạo chiếm khoảng 49% tổng số
lao động” [53, tr.109]. Năm 2015, tỉ lệ này là 51,6%, dạy nghề cho lao động nông thôn
được quan tâm (Trong giai đoạn 2010 - 2015, đã có trên 4,1 triệu lao động nông thôn
được đào tạo nghề theo Đề án 1956 về đào tạo nghề cho lao động nông thôn) [54,
tr.228]. Công tác xóa đói giảm nghèo được đẩy mạnh, “tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước
giảm bình quân từ 1,5 - 2%; các huyện, xã đặc biệt khó khăn có tỷ lệ hộ nghèo 4%/năm
theo tiêu chuẩn nghèo từng giai đoạn” [53, tr.110]. Theo chuẩn nghèo quốc tế (tính theo
chuẩn 1 đôla/ngày/người), thì “năm 1993 tỷ lệ hộ nghèo cả nước 58,1%, đến năm 2011
tỷ lệ hộ nghèo còn 9,5%, năm 2013 còn 7,8%, năm 2014 còn 5,8-6%, phấn đấu đến năm
2015 tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước dưới 5%, trong vùng đặc biệt khó khăn dưới 30%”
[53, tr.110]. Nhờ có những thành tựu vượt bậc trong công tác xóa đói giảm nghèo mà
Liên Hợp Quốc đánh giá Việt Nam là nước thực hiện mẫu mực công tác xóa đói giảm
nghèo và đã hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc về xóa đói giảm
nghèo đến năm 2015 trước 10 năm.
Các hoạt động xã hội khác trong những năm qua cũng được triển khai có hiệu
quả và đạt được nhiều tiến bộ như lĩnh vực giáo dục - đào tạo (Việt Nam là một trong số
ít các nước đang phát triển triển khai thực hiện phổ cập trung học cơ sở), công tác bảo vệ
và chăm sóc sức khỏe của nhân dân, chính sách an sinh xã hội ngày càng được mở rộng
và hoạt động hiệu quả...
Ngoài những kết quả chủ yếu trên, trong 30 năm đổi mới cũng đã tạo ra bước
phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực cơ bản, như chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần thực hiện có hiệu quả đã góp phần giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội;
thể chế kinh tế thị trường dần được hình thành; cơ cấu kinh tế ngành có sự chuyển dịch
tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
ngày càng mạnh mẽ; mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách có hiệu quả; đời
sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt.
83
Tất cả những thành tựu to lớn mà Đảng và nhân dân ta đạt được trong những năm
đổi mới có một phần quan trọng là việc có nhận thức mới về giải quyết mối quan hệ dân
tộc và giai cấp trong điều kiện mới.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất, tạo tiền đề vật chất và tinh thần cho việc đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề
xã hội. Đó là cơ sở để củng cố quan hệ xã hội mới. Sự phát triển đó từng bước thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện mục tiêu lý
tưởng của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam. Sự phát triển này cũng làm
cho lực lượng xã hội, mọi thành phần dân tộc ngày càng gắn bó, phát huy những tiềm
năng vốn có để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.2.2.2. Trên lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị
Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp đối với việc giành, giữ chính quyền nhà
nước. Các quan hệ này bao giờ cũng biểu hiện tập trung của các quan hệ kinh tế, thông
qua các chủ thể chính trị trong hệ thống chính trị. Trong hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay có các thành tố cơ bản là Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị xã hội...
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với đổi mới kinh tế, hệ thống chính trị cũng được đổi
mới cả về nội dung và phương thức hoạt động. Thực chất của quá trình đó là nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của bộ máy tổ chức nhà nước phù hợp với
lợi ích của dân tộc và giai cấp, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa dân tộc và giai cấp,
làm chuyển biến hệ thống chính trị theo hướng dân chủ hóa góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ nhất, tính thống nhất giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp được thể hiện ở
một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Hệ thống chính trị mà chúng ta đang tiến hành xây dựng là một hệ thống chính trị
thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Đây là một nguyên tắc cơ bản xây
dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đảng ta khẳng định “Toàn
bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc
về nhân dân” [35, tr.19]. Do vậy, quá trình đổi mới và xây dựng hệ thống chính trị, tức
hệ thống các tổ chức đại diện nhân dân, gắn với quá trình bảo đảm quyền lực chính trị
thuộc về nhân dân, từng bước hoàn thiện và nâng cao trình độ nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Chúng ta luôn xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng về dân chủ của
84
nhân dân; căn cứ vào trình độ giác ngộ và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân mà
tiến hành đổi mới hệ thống chính trị. Đảng ta đã xác định: “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, đó là thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý Nhà nước của mình”
[34, tr.112]. Chỉ khi nhân dân với tư cách là người chủ và người làm chủ, là chủ thể của
quyền lực chính trị, trực tiếp tham gia xây dựng, thực hiện kiểm tra giám sát việc thực
thi quyền lực các tổ chức trong hệ thống chính trị mới có thể xem là đổi mới thành công.
Vì vậy, vấn đề quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình đổi mới được
Đảng, Nhà nước ta quan tâm nhiều hơn. Nhân dân đã thực hiện quyền làm chủ, tham
gia vào đời sống chính trị, đóng góp ý kiến, xây dựng đường lối, chính sách, các văn
bản pháp luật, quyết sách quan trọng của Đảng, Nhà nước; tích cực tham gia công tác
bầu cử các cấp, giám sát hoạt động của các đại biểu dân cử và cán bộ Đảng và Nhà
nước; khắc phục dần tình trạng mất dân chủ, dân chủ hình thức. Đánh giá kết quả của
việc đổi mới hệ thống chính trị qua 30 năm đổi mới Đảng ta khẳng định: “Thể chế
thực thi quyền dân chủ của nhân dân từng bước được xác lập và cụ thể hóa...”, “Ý
thức dân chủ của công dân và của xã hội, trình độ năng lực làm chủ của nhân dân
từng bước được nâng lên. Những đảm bảo dân chủ về quyền và nghĩa vụ, lợi ích và
trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội đã được luật hóa cụ thể hơn và từng bước
thực hiện có kết quả” [53, tr.146-147].
Thứ hai, thống nhất giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp được thể hiện trong
quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Về quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Đây là
mối quan hệ chính trị - pháp lý giữa các chủ thể có vai trò, vị trí, chức năng và nhiệm vụ
khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện
dân chủ, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Giải quyết quan hệ này,
cũng là thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong việc
xây dựng hệ thống chính trị. Việc duy trì sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị, chính là đảm bảo tính chất giai cấp công nhân trong hệ thống chính trị. Do đó, tất yếu
phải giữ vững thường xuyên giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị; hiến pháp và pháp luật Nhà nước trong hệ thống chính trị đó đưa ra là thể chế hóa
đường lối của Đảng, mọi chính sách đều phải nhất quán quan điểm của giai cấp công
nhân và nhằm phục vụ cho lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Chỉ như vậy mới giữ vững
được mục tiêu đi tới chủ nghĩa xã hội và do đó, nhân dân mới được hưởng ngày càng
đầy đủ những giá trị dân chủ.
85
Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, chính là xác định vị trí chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức và mối quan hệ lẫn nhau giữa các tổ chức trong một thiết chế
thống nhất, khắc phục tình trạng lấn sân hoặc đùn đẩy trách nhiệm của mình. Ngay từ
Đại hội VII, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị, cần quán triệt sâu sắc những quan điểm cơ bản: cách mạng là sự nghiệp của dân, do
dân và vì dân; động lực thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng là đáp ứng các
lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và
nghĩa vụ công dân; các hình thức tập hợp nhân dân phải đưa dạng; công tác quần chúng
là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể, của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị, chứ không phải chỉ của riêng các đoàn thể. Muốn tạo ra phong trào cách mạng
sâu rộng trong quần chúng không những phải có đường lối, chủ trương đúng, làm tốt
công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng, mà còn phải bảo đảm các điều kiện vật chất cần
thiết và có phương pháp, biện pháp tổ chức đúng.
Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị vấn đề mấu chốt
nhất và cũng là khó nhất đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị, khắc phục cả hai khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế: hoặc là bao biện làm
thay, hoặc là buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Đánh giá về kết quả đổi mới hệ thống
chính trị trong 30 năm đổi mới Đảng ta khẳng định: “Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của các tổ chức trong tổ chức trong hệ thống chính trị được xác định ngày càng rõ hơn
và được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật. Phân định rõ hơn vai trò lãnh đạo
của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội” [53, tr.148]. “Nội dung “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ” từng bước được cụ thể hóa, có những bước tiến theo hướng phân định rõ hơn
chức năng, thẩm quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi chủ thể, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả, công khai, minh bạch, ý thức tuân thủ pháp luật” [53, tr.149].
Thứ ba, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp được đảm bảo khi các tổ chức trong hệ
thống chính trị trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả.
Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, trước
hết là nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời cũng là đội tiên phong của
toàn thể nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam; là người lãnh đạo, tổ chức và
đề ra đường lối cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
nói chung, công cuộc đổi mới nói riêng nói lên rằng, Đảng ta luôn gắn bó máu thịt với
nhân dân, với dân tộc. Tuy nhiên để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải
86
thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chống quan
liêu, tham nhũng, làm trong sạch nội bộ Đảng để Đảng mãi mãi xứng đáng là người lãnh
đạo của dân tộc, của nhân dân. Đánh giá về công tác xây dựng Đảng trong 30 năm đổi
mới Đảng ta khẳng định:
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được coi trọng, tăng cường,.. Việc thực
hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng đã tạo được sự chuyển biến nhất định
trong việc ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; bước đầu khắc
phục được một số hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ và thực hiện
các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ và
nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng từng bước được nâng cao [53, tr.166].
Hai là, việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, phải gắn liền việc nâng cao hiệu
lực quản lý của nhà nước. Việc củng cố tăng cường sự lãnh đạo của Đảng phải thể hiện
ở vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Vì Nhà nước là một trong những bộ phận
quan trọng nhất của hệ thống chính trị. Sức mạnh của Đảng cầm quyền thể hiện ở sức
mạnh của nhà nước. Nhà nước thể chế hóa đường lối của Đảng và ảnh hưởng trực tiếp
đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Trong hệ thống chính trị, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước
mang bản chất của giai cấp công nhân, nhưng đó là nhà nước phục vụ, bảo vệ lợi ích cho
toàn thể nhân dân lao động. Nhà nước không chỉ là cơ quan thực thi quyền lực của nhân
dân lao động, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động mà còn là cơ quan thực hiện chức
năng xã hội một cách đầy đủ nhất. Giai cấp vô sản dùng nhà nước để thực hiện sự
chuyên chính đối với các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân, làm tổn hại đến cơ sở
kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Đó là ý nghĩa toàn diện, to lớn đối với việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới, để tăng cường hiệu lực của hệ thống chính trị, Đảng ta chủ
trương tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị. Nhà nước đổi mới
nội dung phương thức hoạt động theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Một điều đáng chú ý là, bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức lại trùng hợp với tiêu chí cốt lõi của nhà nước pháp
87
quyền khi khẳng định tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, nhân dân là người chủ tối
thượng, tuyệt đối và duy nhất c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tu_tuong_ho_chi_minh_ve_giai_quyet_moi_quan_he_giua.pdf