MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU.1
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG.10
1.1. Đặc điểm điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội Việt Nam
thời kỳ nhà Trần – cơ sở xã hội hình thành tư tưởng triết học Trần
Nhân Tông. 10
1.1.1. Khái quát đặc điểm điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị – xã hội thời kỳ nhà Trần .10
1.1.2. Sự phát triển văn hóa, giáo dục thời kỳ nhà Trần.26
1.2. Những tiền đề lý luận và tôn giáo hình thànhtư tưởng triết học Trần Nhân Tông. 33
1.2.1. Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và tư tưởng của “Tam giáo”
với việc hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông . 33
1.2.2. Tư tưởng triết học Trần Thái Tông và TuệTrung Thượng sĩ – tiền đề
lý luận trực tiếp của tư tưởng triếthọc Trần Nhân Tông.56
Kết luận chương 1 .83
Chương 2:NỘI DUNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TRẦN NHÂN TÔNG .86
2.1. Thế giới quan trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông.86
2.1.1. Quan niệm về bản thể trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .89
2.1.2. Mối quan hệ giữa bảnthể và thế giới hiện tượng trong tư tưởng triết
học Trần Nhân Tông .105
2.2. Nhân sinh quan và triết lý đạo đức trong tưtưởng triết học Trần Nhân Tông.114
2.2.1. Quan niệm của Trần Nhân Tông về cuộc đời con người và về vai trò
của con người trong cuộc sống .114
2.2.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về vấn đề rèn luyện tinh thần đạo đức, trí tuệ, giải thoát .122
Kết luận chương 2 .129
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
TRẦN NHÂN TÔNG.132
3.1. Những đặc điểm chủyếu của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .132
3.1.1.Tính kế thừa, dung hợp trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông . 132
3.1.2.Tinh thần thiền hành động, nhập thế tích cựctrong tư tưởng triết học
Trần Nhân Tông .147
3.1.3. Tính nhân văn trong tư tưởng triết học Trần Nhân Tông .155
3.2. Giá trị lịch sử của tư tưởng triết học Trần Nhân Tông. 164
3.2.1. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông đã gópphần tạo nên hệ thống
triết lý thiền đặc sắc của Phật giáo Việt Nam .169
3.2.2. Tư tưởng triết học Trần Nhân Tông là nền tảng tinh thần để xây dựng
một quốc gia độc lập, thống nhất và một nền chính trị thân dân .174
Kết luận chương 3 .195
KẾT LUẬNCHUNG.197
PHỤ LỤC .203
TÀI LIỆU THAM KHẢO.213
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ .222
232 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5599 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lặng thì trăng trong sáng,
tràn đầy, còn nếu xao động, gợn sóng thì bị phá vỡ tan biến thành
từng mảnh. Có thể thấy cái tâm tĩnh lặng của Trần Nhân Tông và cái
tâm không hư của Trần Thái Tông là một. Vì cái vô tâm, vô niệm của
tâm không hư chính là đạt đến cái tâm ở trạng thái tĩnh lặng. Nhưng
Trần Nhân Tông chú trọng đến khía cạnh trạng thái và hình tướng của
tâm nhiều hơn.
Ở Trần Nhân Tông, tính sáng còn gọi là tính gương hay chân
tính, có ở vạn vật vốn trong trẻo. Nếu giác ngộ được thì bản thể trong
lặng rồi thì nhân duyên có biến đổi như thế nào cũng không còn lo
ngại. Mài dũa tính gương cho tinh khiết thì chẳng sợ lục căn, lục trần
làm rối lòng mình:
“Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên;
Chùi cho vằng vặc tính gương, nào có nhuốm căn trần huyên
náo.” [95, tr, 507]
Qua đó ta có thể thấy quan điểm về bản hay gốc của Trần Nhân
Tông ở đây chính là lòng trong sạch (Bụt), là tính sáng (giác tính),
tính gương là bản tính, thể tính. Đó là cái ban đầu vốn có ở mỗi con
người trong sáng bản nguyên, thanh tịnh vượt lên trên mọi đối đãi, thị
phi: “bản tính lặng im, trong trẻo, không thiện ác” [80, tờ 37b]. Nhưng
97
trong cuộc sống do tham, sân, si và vô minh, nên mọi người hoặc làm
cho nó lu mờ, hoặc đánh mất (khuây bản). Do đó mới chạy Đông,
chạy Tây tìm Bụt chứ không biết Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm đâu
xa. Cho nên vấn đề là phải trở về cội nguồn, trở về gốc, rửa hết trần
duyên, đừng để cho cái đó còn sót lại trước mặt mình. Dùng tính sáng
đánh đổ những tà thuyết, làm viên mãn sự hiểu biết của mình, không
để tích tụ lại những nguồn tai họa ở trong bản thân mình. Trong Cư
trần lạc đạo phú, ông viết:
“Cùng căn bản, rửa trần duyên, mựa để mấy hào ly đương mặt,
Ngã thắng chàng, viên tri kiến, chớ còn họa trữ cong tay.”
[95, tr. 508]
Tư tưởng này được Trần Nhân Tông kế thừa ở người ông Trần
Thái Tông và người thầy là Tuệ Trung Thượng sĩ. Trần Thái Tông
cho rằng bản tính sâu trầm, chân tâm trong lặng (bản tính huyền
ngưng, chân tâm trạm tịch). Như vậy giữa Trần Nhân Tông và Trần
Thái Tông chỉ khác nhau ở chữ “huyền” nghĩa là sâu kín và chữ
“trạm” nghĩa là thâm trầm, sâu xa, yên lặng. Còn ở Tuệ Trung
Thượng sĩ thì thể tính vằng vặc chưa từng có mê lầm (thể tính minh
minh vị hữu mê). Khái quát lại ta thấy, ở Trần Thái Tông, bản tính
sâu trầm trong lặng, ở Tuệ Trung Thượng sĩ, thể tính vằng vặc chưa
hề có mê lầm. Ở Trần Nhân Tông, bản tính lặng yên, trong trẻo. Thực
ra tuy diễn đạt có khác nhau nhưng tư tưởng của ba ông chỉ là một.
Nếu Tuệ Trung Thượng sĩ, bản thể vượt ra ngoài mọi đỗi đãi nhị
nguyên, phi hư, phi thực, phi chủng phi manh, phi trần phi cấu, thì ở
98
Trần Nhân Tông bản thể cũng như vậy. Ở ông, bản thể không thiện,
không ác, không sinh, không diệt, chẳng đi chẳng lại.
Như vậy, tư tưởng là một nhưng những thiền ngữ của Trần Thái
Tông bóng bảy, của Tuệ Trung Thượng sĩ mạnh mẽ hơn, còn của
Trần Nhân Tông thực tế hơn, chững chạc hơn. Theo ông muốn đạt
đến thể tính an nhàn, tự tại, thì phải dứt trừ được nghiệp (dù tốt hay
xấu), bởi lẽ còn nghiệp là còn quay vòng trong chuỗi sinh tử.
Nhưng điểm chung, điểm xuất phát của Trần Thái Tông, Tuệ
Trung Thượng sĩ hay Trần Nhân Tông là làm rõ cái tâm (lòng), đó cũng
là vấn đề cơ bản của mọi triết lý thiền trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam. Làm rõ cái tâm chính là làm rõ Phật tính, Chân như, không hư.
Nhưng nếu cố tình tìm hiểu, định nghĩa về tâm hoặc đặt nó
trong phạm vi, giới hạn của ý thức tất yếu sẽ dẫn đến vọng niệm, và
như thế là không thể hiểu được “Tâm vô trụ”. Phật giáo nói: Nhất
niệm khởi, thiện ác phân. Hiện tượng phân tâm ấy Thiền tông gọi là
“Tâm thượng sinh tâm”, có nghĩa là trên cái tâm (vô trụ) nảy sinh
thêm một cái tâm sai biệt là niệm hoặc tưởng. Vì vậy nên tập trung tư
duy, ý thức cũng giống như việc tập trung ánh sáng của một ngọn đèn
vào một điểm. Còn ở Trần Nhân Tông, ông kêu gọi mọi người chớ có
phân tán tâm, lịng mình hãy dẹp bỏ loạn tâm, đa lịng mà quay lại
một lịng (nhất tâm), bất loạn, giống như trăng đáy nước, khi mặt nước
tĩnh lặng thì trăng trong sáng, tràn đầy, còn nếu xao động, gợn sóng
thì bị phá vỡ, tan biến thành từng mảnh.
99
Cuối cùng, tự tính hay Pháp, tâm hay Phật, phàm hay Thánh,
đồng nhất hay khác biệt là do chính cái tâm của con người quyết định.
Tâm tĩnh lặng thì tất cả là một, tự nhiên như nhiên, còn tâm sai biệt
thì ngay lập tức xuất hiện thế giới hiện tượng sai biệt, đối đãi. Chính
tư tưởng này chi phối và xuyên suốt những vấn đề nhân sinh quan của
Trần Nhân Tông. Khi đã đạt đến nhất hay “tâm tĩnh lặng” thì con
người sẽ diệt trừ được tam độc (tham, sân, si) và chứng được tâm thân
(pháp thân, ứng thân, báo thân) của Phật và đạt tới trạng thái Niết
bàn. Để cắt được sự rối loạn tâm, thì không được để lục tặc làm lụy.
Và nhất tâm bất loạn được thông suốt trong lòng thì mới hiểu nổi giáo
lý của Phật tổ, có dừng tam nghiệp (thân, khẩu, ý) thì thân tâm mới
được thanh tịnh:
“Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm;
Đạt một lòng thì thông tổ giáo.”[95, tr. 507]
Như vậy, để trở thành Phật, điều cốt yếu là phải trau dồi cái
tâm của mình – hay điều cốt tủy của thiền là phải trở về với các tâm
của mình, chẳng thể tìm ở đâu xa. Nếu chỉ chệch đi trong đường tơ, kẽ
tóc thôi là đã cách xa ngàn dặm và trở thành cuồng sĩ hay tà đạo
ngay. Điều này giống như việc đãi cát tìm vàng và cũng phải qua
nhiều phen lựa chọn.
Theo Trần Nhân Tông, để đạt tới cái tâm tĩnh lặng, cái bản thể
chân như vốn sẵn có trong mỗi con người thì không phải bắt đầu từ
chỗ nhận thức, đặt tên, tìm ý, mà là sự chứng nhận bằng chính cuộc
sống thật của mình. “Tam thân” một khái niệm được Trần Nhân Tông
100
đề cập đến một cách chung chung trong bài Cư trần lạc đạo phú. Đến
bài Đặc thú lâm tuyền thành đạo ca ông đã đưa khái niệm này vào một
cách cụ thể, nó có nghĩa là: bản thể thường trụ, bất biến của vũ trụ. Nó
có khắp mọi nơi, tràn đầy lồ lộ, bày rõ trước mặt, nay khắp cõi thái hư:
“Pháp thân thường trụ,
Phổ mãn thái hư.
Hiển hách mục tiền,
Viên dung lõa lõa.” [95, tr. 534]
Ở Trần Nhân Tông, bản thể còn thể hiện ở những khái niệm như
Chân như, thực tướng, chân không, báu vật. Ta thấy, ở đây Trần Nhân
Tông không dùng khái niệm Phật tính hay tính Phật mà ông dùng
khái niệm Bồ đề, tính sáng, tính gương, giác tính, chân tính. Trong Cư
trần lạc đạo phú, ông viết: “Gìn tính sáng tính mới hầu an… Tịnh độ là
lòng sạch… Di Đà là tính sáng…” [95, tr. 507], còn Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca, ông nói: “Niềm lòng vằng vặc; Giác tính quang quang,
Chẳng còn bỉ thử…” [95, tr. 533] và ông còn gọi nó là báu vật. Trong
mỗi con người đều có sẵn báu vật. Ở một nghĩa khác, nó cũng là cái
gốc, mà một số người hoặc bỏ quên hay đánh mất, hoặc do tham, sân,
si, vô minh chi phối mà họ không biết, bởi vậy họ lặn lội, trôi dạt mãi
trong sông mê, bể khổ. Quan điểm này của Trần Nhân Tông giống
với quan điểm của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, xem Phật tính là hạt
minh châu, kho báu trong người. Vì thế con người không cần phải tìm
kiếm Phật tính ở bên ngoài mà nó vốn đã có sẵn ở trong tâm mỗi
101
người rồi. Nhưng vì do vô minh nên mọi người đều không biết rằng
mình có Phật tính đó thôi. Về điều này Trần Nhân Tông viết:
“Cõi trần vui đạo, hãy tùy duyên,
Đói cứ ăn no, mệt ngủ liền.
Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm,
Vô tâm trước cảnh, hỏi gì Thiền.” [95, tr. 510]
Từ đó ông kêu gọi chúng sinh hãy quay lại bản, gốc, quay về
với bản thể của mình, hãy làm theo cái thiên hướng vốn có trong con
người mình:
“Tượng chúng ấy,
Cốc một chân không;
Dừng đòi căn khí.” [95, tr. 509]
Như vậy lòng trong sáng, thanh tịnh cái mà ở Trần Thái Tông
gọi là bản lai diện mục thì ở Trần Nhân Tông nó là chân không hay
“tâm tĩnh lặng”. Điều này còn được thể hiện ở luân lý về giác ngộ.
Con đường giác ngộ này theo Trần Nhân Tông, chẳng cần xa lánh
những trở ngại về âm thanh cũng như sự bám víu về sắc. Và khi đã
nhận thức mình có ngọc báu, Phật tính, có bản thể Chân như trong
mình đồng thời hiểu rằng mình có đủ sáng suốt, tính sáng, Bát nhã để
đạt đến, thể nhập vào bản thể ấy thì không phải đi tìm Phật ở đâu cả.
Thể nhập với bản thể, bất sinh, bất diệt (thực tướng) thì cũng chẳng
cần ra công nhọc sức đọc các kinh thiền:
“Tìm đường hoán cốt, chỉn xá năng phục được luyện đan,
Hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc.
102
Biết chân như, tin bát nhã, chớ còn tìm Phật tổ Tây Đông,
Chứng thực tướng, ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền Nam
Bắc.” [95, tr. 506]
Tóm lại, trong quan điểm về thế giới Trần Nhân Tông đã diễn
đạt khái niệm bản thể bằng nhiều tên gọi khác nhau, khá phong phú
và sâu sắc như tính sáng, thể tính, lòng trong sạch yên tĩnh, hay tâm
tĩnh lặng, Bụt, Chân như, Thực tướng, Chân không, Pháp thân,… Nó
chính là vật báu trong mỗi con người. Nó cũng là khởi nguyên, cội
nguồn, là gốc, bản thể của toàn vũ trụ. Nó thường trụ, bất sinh, bất
diệt (phi thiện, phi ác) vượt lên trên mọi sự đối đãi, mâu thuẫn nhị
nguyên, nhưng do quá trình sống, con người bị tham, sân, si lôi kéo
chi phối nên quên mất gốc. Cho nên để đạt tới chân như, thực tướng,
tâm tĩnh lặng hay giác ngộ giải thoát, phải trở về gốc, trở về cái mà
Trần Nhân Tông gọi là gia hương (quê hương xứ sở).
Bản thể, tính sáng là gốc của mỗi vật, đặc biệt là báu vật trong
mỗi người. Về thực chất và suy cho cùng, ai ai cũng có đầy đủ, tràn
đầy nó. Ông đã viết: “Ai ai cũng có đủ bản tính, người người đều
được viên thành” [80, tờ 38]. Như vậy trong quan điểm này Trần
Nhân Tông một mặt tiếp tục đi theo quan điểm của Đại Thừa
(Mahayana) cho rằng trong mỗi chúng sinh đều có Phật tính. Phật tính
tiềm ẩn được phản ánh rõ hay mờ phụ thuộc vào hành vi kiếp trước
và cuộc sống hiện tại của mỗi người. Mặt khác, ông kế thừa từ người
ông – Trần Thái Tông, vì Trần Thái Tông cũng cho rằng: chúng sinh
bản lai giác tính, sẵn có vốn thanh tịnh tràn đầy, sáng suốt, trong trẻo
103
như bầu trời, không gợn một mây bụi (chúng sinh ư bản lai giác tính
thanh tịnh viên minh, trạm nhược thái hư, nhất trần bất lập) rằng: Bồ
đề giác tính ai nấy viên thành, Bát Nhã thiện căn người người đều đủ
(Bồ đề giác tính cá cá viên thành, Bát nhã thiện căn, nhân nhân cụ
túc). Qua đây ta thấy, nhiều luận điểm của Trần Nhân Tông được kế
thừa trực tiếp từ người ông là Trần Thái Tông, và từ người thầy là
Tuệ Trung Thượng sĩ. Nhưng ông đã vượt xa hơn thế hệ trước là ở chỗ
Trần Nhân Tông đã đề cập đến mối quan hệ giữa Phật tính và pháp
thân, giữa tâm, tính, pháp và Phật. Lịch sử Phật giáo Việt Nam thời
kỳ trước Trần Nhân Tông, nếu mà xét trên bình diện tuyệt đối, những
khái niệm này hầu như là như nhau.
Theo Trần Nhân Tông Phật tính và Pháp thân có mối quan hệ
như hình với bóng, không lìa nhau, nó ở ngay trước mặt nhưng không
thấy, nếu càng có ý truy tầm lại càng không được, bởi càng tìm càng
mất, càng cố diễn đạt càng lệch. Trong Trúc Lâm đại tôn giả lên pháp
tòa nghe sư thuyết pháp viết: “Phật tính và Pháp thân như hình với
bóng, khi ẩn khi hiện, không dính không rời. Lỗ mũi nằm phía dưới
trước mặt; lông mi mọc ngang trên vành mắt, vậy mà dương mắt nhìn
cũng không dễ thấy, đã có ý truy tầm lại càng không thấy đạo” (Phật
tính, pháp thân như hình như ảnh, tùy ẩn, tùy hiện. Bất tức, bất lỵ, ty
khổng trực hạ, Đương diệu môn ni mao hoành chắp. Tại nhãn bối khỉ,
Dung dị mịch yếu thả truy tầm bất kiến đạo) [95, tr. 660].
Như vậy, Trần Nhân Tông cho rằng bản thể ở khắp mọi nơi, ở
trong mỗi người, nhưng đã mấy ai nhận thấy. Bản thể này không thể
104
nghĩ suy, bàn định được, không thể dùng ngôn ngữ mô tả được, không
thể dùng màu sắc, âm thanh diễn đạt được, vừa động niệm suy nghĩ là
sai, vừa mở miệng nói ra là đã lầm, có ý truy tầm lại càng không
thấy. Ta có thể thấy rõ điều này khi ông nhắc lại câu trong Kinh Kim
Cương nói rằng nếu lấy sắc tìm ta, lấy âm thanh kiếm ta, thì đó là
người đi theo con đường tà đạo, không thể thấy được Như Lai (Nhược
dĩ sắc kiến ngã, Dĩ âm thanh cầu ngã, Thi nhân hành tà đạo, Bất năng
kiến Như Lai). Phật tính hay tính giác ngộ có ở trong mỗi chúng sinh.
Còn pháp thân là cái thân bất sinh bất diệt mà tất cả các đức Phật đều
báo ứng từ đó mà ra.
Cuối cùng, tự tính hay khác biệt là do chính cái tâm của con
người quyết định. Tâm tĩnh lặng thì tất cả là một, tự nhiên như nhiên,
còn tâm sai biệt thì ngay lập tức xuất hiện thế giới hiện tượng sai biệt,
đối đãi. Chính tư tưởng này chi phối và xuyên suốt những vấn đề nhân
sinh của Trần Nhân Tông. Xét trên bình diện tuyệt đối, thân Phật là
tính Phật rất khó phân biệt, có điều ở góc độ nào thì khía cạnh nào
nổi trội hơn mà thôi. Phật tại tâm, “Bụt ở trong nhà chẳng phải tìm
xa”. Vì vậy mà Trần Nhân Tông cho rằng, chớ có hỏi Đông, Tây,
Nam, Bắc mà hãy nhìn lại, trở về với cái tâm bản nhiên, trong trẻo,
thanh tịnh vốn có của mình, tức là trở về gốc hay gia hương của mình,
đó là quan điểm chung của Phật giáo. Ở khía cạnh này, Trần Thái
Tông làm rõ hơn, khi ông cho rằng cái tâm của mỗi chúng sinh hiện
có hai đường: Một là quay trở về quê hương, trở về nhà (hay bản tâm,
chân tâm, hay cái tâm ban đầu, cái gọi là bản lai diên mục), để rồi từ
105
đó đi vào Niết Bàn; hai là cứ theo đà vô minh, ham muốn, khát vọng,
tham, sân, si để đi vào địa ngục.
Về quan niệm giữa tâm, tính, pháp, Phật, Trần Nhân Tông cho
rằng chúng hầu như là như nhau. Ơng viết: “Những tiếng nói cười,
giương mày, nhíu mắt, tay cầm chân đi ấy là tính gì ? Tính ấy thuộc
tâm nào ? Tâm và tính cũng rõ thì cái gì là phải, cái gì là không phải ?
Pháp tức là tính, Phật tức là tâm, vậy tính nào không phải pháp, tâm
nào không phải Phật ? Tâm là Phật mà tâm cũng là pháp. Nhưng vì
pháp vốn không pháp nên nói pháp là tâm, cũng như nói tâm là không
tâm, mà tâm là Phật, cũng có nghĩa Phật là không Phật ! (Phàm chư
khánh khái chi thanh, dương mi thuấn mục, mao chấp túc vận. Thị
nhập ma tính; tri kỷ tính giả. Thị nhập mua tâm. Tâm tính động minh.
Ná cá thị, ná cá bất thị. Tức tâm tức Phật. Ná tâm tức pháp. Pháp bản
nhi pháp, tức pháp tức tâm. Tâm bản phi tâm. Tức tâm tức Phật).”
[80, tờ 38a – 38b]
Tuy nhiên khi nói tâm là Phật không có nghĩa là cái tâm vô
minh hay tham, sân, si của mỗi người là Phật, mà tâm ở đây là cái
tâm giác ngộ, diệt trừ hết vô minh. Mỗi chúng ta chỉ có tính Phật, sẽ
thành Phật, còn những người có cái tâm giác ngộ thì chẳng còn tính
với pháp, Phật với tâm. Đạt đến quả vị Phật sẽ không đến vị Phật nào
cả, bởi vì Phật cũng chỉ là danh hiệu. Đạt đến không tâm tức vô tâm.
Qua đây ta thấy ngay Phật (tâm), pháp, tính, pháp tính, tính Phật,…
cũng chỉ là phương tiện, vấn đề là chứng ngộ. Tư tưởng này của Trần
Nhân Tông có lẽ học được của những vị thiền sư đi trước, đặc biệt là
106
ở Tuệ Trung Thượng sĩ. Đây chính là tư tưởng phá chấp triệt để đối
với Thiền tông nói chung và Phật giáo thời Trần nói riêng. Chính nhờ
tư tưởng phá chấp này mà nhà Trần đã tổng hợp được các hệ tư tưởng
để hình thành phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử mà Trần Nhân Tông là
người khai mở.
2.1.2. Mối quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng trong
tư tưởng triết học Trần Nhân Tông
Cũng như Trần Thái Tông, cái tâm tĩnh lặng ở Trần Nhân Tông
là bản thế tối cao, bao la, viên đồng tất cả. Nhưng khi trong nó khởi
lên ý niệm, cái vũ trụ bao la, không hư đó tan biến bởi cái tâm đã sai
biệt và xuất hiện thế giới hiện tượng. Vậy theo Trần Nhân Tông thế
giới hiện tượng là gì ? và mối quan hệ của nó với cái tâm tĩnh lặng
như thế nào ? Trần Nhân Tông đã trình bày tư tưởng này rất rõ trong
các bài thơ, kệ, nhất là bài kệ về vấn đề: có, không. Đây là hai khái
niệm cốt yếu của triết lý nhà Phật và việc giải quyết mối quan hệ của
chúng là vấn đề sắc bén dễ làm chạm lưới, đứt tay người tham vấn,
nên Trần Nhân Tông coi chúng khó chịu như dây khô cây đổ làm
“mấy gã thày tăng, dập đầu, mẻ trán”. Bàn đến hữu, vô mà theo con
đường mạch lạc của tư tưởng thì chỉ như một sợi lông ném vào hư
không, dù sự luận giải có đạt đến chỗ tột cùng của khôn khéo thì cũng
chỉ như một giọt nước nhỏ xuống biển cả mênh mông. Vì thế, trong
bài thơ Hữu cú, vơ cú ông viết:
“Câu hữu câu vô,
Dây khô cây đổ.
107
Mấy gã thày tăng,
Dập đầu trán vỡ.
Câu hữu câu vô,
Gió vàng thể lộ.
Vô số cát sông,
Kiếm đâm dao bổ.
Câu hữu câu vô,
Lập chỉ lập tông.
Dùi rùa dập ngói,
Trèo núi lội sông.
Câu hữu câu vô,
Chẳng vô chẳng hữu.
Khắc thuyền tìm gươm,
So tranh tìm ngựa.
Câu hữu câu vô,
Tác động lại qua.
Ôm cây đợi thỏ,
Nón tuyết hài hoa.
Câu hữu câu vô,
Dù nay dù xưa.
Quên trăng ngắm ngón,
Chết đuối trên bờ.
108
Câu hữu câu vô,
Là thế là thế.
Tám chữ mở ra,
Không còn khó nghĩ.
Câu hữu câu vô,
Ngó phải ngó trái.
Thuyết lý ồn ào,
Liến láu tranh cãi.
Câu hữu câu vô,
Rầu rầu, rĩ rĩ.
Cắt đứt sắn bìm,
Đó đây vui ve.û” [95, tr. 490]
Có thể nói mối quan hệ giữa “hữu” và “vô” trong triết học của
Trần Nhân Tông cũng chính là mối quan hệ giữa thế giới bản chất và
thế giới hiện tượng. Cũng như quan điểm của Trần Thái Tông và Tuệ
Trung Thượng sĩ, thế giới hiện tượng ở Trần Nhân Tông là kết quả
tạo tác của dòng nhận thức nên vạn pháp đan bện vào nhau, rắc rối
như sắn bìm, bụi cỏ, chúng sinh sinh, hóa hóa, rời đổi vô thường. Thế
giới hiện tượng nó có đấy nhưng chỉ là giả tưởng không thật, không
thể xác định tính hiện thực của nó, dù chỉ như một giấc mơ với tất cả
hình danh sắc tướng của nó. Muốn nhận thức được bản thể chân thực
hay chân như tự tính, đạt tới cái tâm bản nhiên trong sáng, hay “Tâm
tĩnh lặng” để giải thoát con người khỏi sự chi phối, lôi kéo, mê hoặc
của thế giới hiện tượng, giả tướng ấy, theo Trần Nhân Tông người học
109
Phật, trước phải “kiến tính” bằng quá trình tu tập giới hạnh, thiền
định, từ tu hạnh đầu đà đến “vong nhị kiến” vượt qua mọi phân biệt,
kén chọn, phá chấp và đạt tới “Tâm tĩnh lặng”. Thấy tính không phải
là nói về cái có thể nhìn thấy. Gọi là thấy, là thấy cái ở những nơi
không thể nhìn thấy… sau khi đã thấy tính rồi phải kiên trì tịnh giới.
Thế nào gọi là tịnh giới. Ấy là trong khoảng mười hai thời khắc của
một ngày, bên ngoài tắt lặng mọi nhân duyên, bên trong tâm không
xao động. Tâm không xao động thì cảnh dù hiện đến cũng như
không… Từ chỗ giữ được giới, vững vàng không lay chuyển, sau mới
tu tập thiền định, thân và tâm đều cùng vứt bỏ. Vả lại điều cốt yếu
của phép thiền định, là trước hết định cái tâm của mình. Luôn luôn tự
mình suy nghĩ: thân từ đâu tới ? Tâm từ đâu thành ? Tâm đã không có
thì do đâu mà có thân ? Thân và tâm đều là không thì pháp từ đâu mà
có được?… Bên ngoài thì tham cứu “thoại đầu”, chớ để gián đoạn, liên
miên, mật thiết, không xen kẽ chắp vá, cũng không chao đảo, không
tròng trành, cũng không chìm đắm mê muội. Tươi rói như ngọc lăn
trên mâm; sáng lung linh như gương soi trên đài. Đạt đến cõi đất ấy
rồi, đi cũng đặng, dừng cũng đặng, ngồi cũng đặng, nằm cũng đặng,
nói cũng đặng, làm thinh cũng đặng. Còn có nơi nào mà không làm
đặng ? Khi đã đạt được như vậy thì mới thấu hiểu “tam quan ngộ cú”,
“tam huyền”, “tam yếu”, “ngũ vị”, mới suy xét kỹ về “tứ liệu giản”,
“tứ thân chủ”, “tứ chiếu dụng”, và cơ vi của các thiền tổ…, bấy giờ
mới có thể mượn pháp tọa của Đăng vương, nhổ sừng thỏ, vặt lông
rùa, tung bay rực rỡ một phen, làm nóng bừng mặt và tối mắt muôn
110
loài. Đúng vào lúc ấy mới có thể phát sinh vô thượng diệu tuệ, chiếu
rọi muôn phương, soi vào tứ lượng tâm, tứ niệm xứ, tứ vô úy, bát
chính đạo, Phật thập lực, mười tám bất cộng pháp cho đến tám vạn
bốn nghìn cửa Đàlani. Dài hay chóng vánh, hết thảy các cửa Tam
muội đều từ trong chính mình mà tỏa ra, nhất nhất đều đầy đủ. Tuệ
đã đủ, thì bố thí ra chúng sinh, nguyện lực vô cùng. Giác ngộ mình và
giác ngộ người khác, bốn giống chim loài, tất cả đều được thấm gội
cả.
Bởi vì, tuệ mà không đạt được định, thì còn gọi là tuệ cằn, định
mà không đạt được tuệ, cũng gọi là thiền si [95, tr. 666]. Nếu không
sẽ như “người Tống ôm cây đợi thỏ”, như muốn nhìn mặt trăng mà cứ
ngắm theo ngón tay chỉ mặt trăng, không bao giờ giác ngộ và giải
thoát được, giống như kẻ chết đuối nhưng không phải là chết đuối
dưới sông mà chết đuối trên bờ vậy. Trong bài Tảo mai Trần Nhân
Tông đã nhìn thấy hiện thực biến đổi vơ thường như là hoa nở rồi hoa
lại tàn:
“Năm cánh hoa tròn, vàng nhị phô,
Nổi nênh vảy cá, chìm san hô.
Đông ba tháng trải, cành khoe trắng,
Xuân một làn thơm, nhánh nhẹ đưa.” [95, tr. 471]
Nhưng điểm khác giữa Trần Nhân Tông với Trần Thái Tông và
Tuệ Trung Thượng sĩ về quan hệ giữa bản thể và thế giới hiện tượng
chính là ở quan niệm về nguồn gốc xuất hiện thế giới cảm tính, xuất
hiện đường mối, xuất hiện hiện hữu. Ở Trần Thái Tông từ không khởi
111
vọng (tức vô minh); vọng xét trên khía cạnh nhân sinh cũng chính là
niệm. Bởi vậy, vấn đề là phải thủ tiêu vọng niệm và đạt đến vô niệm,
tức đạt đến giải thoát (thùy vô niệm, thùy vô sinh). Còn ở Tuệ Trung
Thượng sĩ, từ không (hay vô) xuất hiện huyễn hóa (ảo hóa hay vô
minh), phân thành nhị kiến. Như vậy, xuất hiện vô minh cũng tức là
xuất hiện nhị kiến, thủ tiêu nhị kiến tức vô minh tự diệt. Trần Nhân
Tông ít bàn đến bản – thể – không, ông hầu như cũng ít đề cập đến
nguồn gốc xuất hiện thế giới hiện tượng. Ông chỉ nói: “Câu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thvnu0069.pdf