Luận án Vai trò của tu sĩ phật giáo Nam Tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 7

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 7

1.2. Một số lý thuyết nghiên cứu 22

1.3. Một số thuật ngữ được sử dụng trong luận án 32

Chương 2: KHÁI QUÁT PHẬT GIÁO NAM TÔNG KHMER VÙNG

TÂY NAM BỘ 40

2.1. Khái quát về điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội vùng Tây Nam Bộ 40

2.2. Đặc điểm tôn giáo, tín ngưỡng vùng Tây Nam Bộ 46

2.3. Khái quát về Phật giáo Nam tông Khmer ở Tây Nam Bộ 69

Chương 3: VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG

ĐỜI SỐNG XÃ HỘI NGƯỜI KHMER TÂY NAM BỘ: THỰC

TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 87

3.1. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông đối với đời sống xã hội người Khmer 88

3.2. Những vấn đề đặt ra 108

Chương 4: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA

TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI CỘNG ĐỒNG NGƯỜI

KHMER TÂY NAM BỘ TRONG THỜI GIAN TỚI 129

4.1. Một số giải pháp 129

4.2. Kiến nghị 140

KẾT LUẬN 144

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 147

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 149

PHỤ LỤC 159

pdf184 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 394 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vai trò của tu sĩ phật giáo Nam Tông trong đời sống xã hội của người Khmer ở Tây Nam Bộ hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là, tu sĩ PGNTK giữ vai trò rất lớn trong việc giáo dục hình thành nhân cách đạo đức, dân trí cho cộng đồng người Khmer. Song song đó, việc tu học và việc hình thành các trường chùa đã góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng các ngành nghề để có thể phục vụ cuộc sống bình thường. Năm là, tu sĩ PGNTK còn giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc mở rộng quan hệ giao lưu với các dân tộc, trong cộng đồng, kể cả trong nước và ngoài nước. Sáu là, tu sĩ PGNTK đã luôn cùng với nhân dân Nam Bộ đứng lên chống ngoại xâm vì sự tồn vong của đất nước, tuyệt đại bộ phận các chư tăng , đồng bào Phật tử Khmer đã thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn, đó là điểm nổi bật của PGNTK Nam Bộ. Tinh thần ấy xuất phát từ truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam mà đội ngũ chư tăng là một bộ phận, trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, có nhiều vị xuất thân từ tu sĩ PGNTK tham gia cách mạng và đã anh dũng hy sinh, nhiều ngôi chùa là nơi che dấu bảo vệ an toàn cho cán bộ cách mạng và có nhiều người là mẹ Việt Nam anh hùng là dân tộc Khmer. Nói đến dân tộc Khmer ở Nam bộ cũng chính là nói đến tôn giáo của người Khmer ở khu vực này, và ngược lại khi nói đến PGNTK cũng là nói đến đồng bào Khmer đang sinh sống ở đây. Tôn giáo và dân tộc đối với đồng bào Khmer ở Nam bộ có quan hệ hữu cơ không thể tách rời. Bên cạnh đó, 85 PGNTK có mối liên hệ mật thiết với Phật giáo Nam tông ở các nước Campuchia, Lào, Thái Lan... Trong điều kiện nước ta hiện nay do sự tác động của nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo chưa thể mất đi mà nó còn tồn tại lâu dài và giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống vật chất, đời sống tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, PGNTK ở TNB cũng có những tác động tiêu cực nhất định đến đời sống kinh tế - văn hóa xã hội của người Khmer. PGNT đã đưa lại cho người Khmer lối sống thụ động, cam chịu. Với quan niệm cuộc sống ở trần gian chỉ là tạm bợ nên người Khmer luôn bằng lòng, chấp nhận cuộc sống thiếu thốn ở đời này và chăm chỉ lo tích đức cho đời sau; sự lệ thuộc quá nhiều của người Khmer vào Phật giáo và sự đóng góp cho Phật giáo quá lớn so với thực lực kinh tế làm cho đời sống kinh tế của người Khmer thêm nghèo đói. Với tâm lý sống gửi thác về, người Khmer cũng ít quan tâm đến chuyện học hành, nâng cao trình độ hiểu biết. Đặc biệt, trong lịch sử và hiện tại, các thế lực thù địch luôn lợi dụng cả vấn đề dân tộc và tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Vì thế, việc nghiên cứu vai trò của tu sĩ PGNTK và đề xuất các giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của PGNTK nói chung, của tu sĩ Khmer nói riêng trong quá trình xây dựng đời sống xã hội của người Khmer ở TNB là việc làm cần thiết nhưng do đồng bào Khmer ở Nam Bộ gắn liền với một tôn giáo nên khi thực hiện chính sách đối với người Khmer thì phải giải quyết vấn đề PGNTK. Cùng với lợi thế có được từ vùng biển rộng lớn với nhiều hòn đảo, lợi ích có được từ quan hệ kinh tế, mậu dịch trên tuyến biên giới đất liền và biên giới trên biển giữa các nước láng giềng, thì điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý nêu trên cũng tiềm ẩn những vấn đề phức tạp về quốc phòng, an ninh và thường 86 xuyên xảy ra các vụ việc ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu, ý đồ chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta bằng nhiều hình thức. Trong đó, chúng hậu thuẫn, nuôi dưỡng các tổ chức phản động lưu vong và một số đối tượng cực đoan ở trong nước để tìm cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, triệt để lợi dụng vấn đề “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do tôn giáo”, nhất là khơi gợi vấn đề lịch sử vương quốc Chăm Pa (liên quan đến đồng bào dân tộc Chăm) và lịch sử vùng đất Nam Bộ (liên quan đến đồng bào dân tộc Khmer) để kích động tư tưởng hận thù, chia rẽ dân tộc, tạo ra các cuộc gây rối. 87 Chương 3 VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI CỦA NGƯỜI KHMER TÂY NAM BỘ - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA Đời sống xã hội là một khái niệm chỉ rõ các hiện tượng phát sinh do sự tác động lẫn nhau giữa các cá thể và cộng đồng tồn tại trong một khoảng không gian nhất định với việc sử dụng chung các tài nguyên hiện có. Nó bao hàm tất cả những hiện tượng tác động có ý thức và thích nghi không có ý thức. Đó là tổng thể các cơ thể ràng buộc nhau bởi sự tác động qua lại giữa các quá trình sống của chúng và tác động vào môi trường. Trong phạm vi của luận án, chúng tôi hiểu đời sống xã hội là tổng thể các hiện tượng phát sinh do sự tác động lẫn nhau của các chủ thể xã hội và cộng đồng tồn tại trong những không gian và thời gian nhất định, là tổng thể hoạt động của xã hội nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. Theo cách hiểu như vậy, đời sống xã hội là một phạm trù rất rộng lớn, nhưng trong phạm vi của chuyên đề, chúng tôi tiếp cận đời sống xã hội trên 4 phương diện cơ bản đó là: đời sống tôn giáo, đời sống văn hóa - xã hội, đời sống chính trị và đời sống kinh tế. Để phân tích vần đề này, chúng tôi trở lại câu nói nổi tiếng của C. Mác khi bàn về tôn giáo, C.Mác cho rằng “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Điều này thể hiện được tính chất hai mặt của tôn giáo. Bất cứ một tôn giáo nào thâm nhập vào trong quần chúng nhân dân cũng trở thành một bộ phận tinh thần nhằm mục đích giải phóng con người một cách hư hảo trước những mối đe dọa, bất công và sự hiểu biết hạn hẹp về tự nhiên, xã hội do nhận thức của họ đem lại. Dù là hư ảo nhưng xét ở một góc độ nào đó thì tôn giáo bao giờ cũng có những ảnh hưởng tích cực đến các lĩnh vực khác của đời sống tinh thần. 88 PGNTK không nằm ngoài quỹ đạo đó. Nghĩa là PGNT cũng có những tác động tích cực và tiêu cực đến đời sống tinh thần của người Khmer, một mặt tạo nên những giá trị truyền thống bền vững của cộng đồng, hình thành nên những sắc thái riêng biệt của người Khmer; mặt khác, có những yếu tố gây cản trở sự phát triển của cộng đồng người Khmer. Chúng tôi, khái quát đặc điểm của PGNTKM ở TNB và những biểu hiện tích cực, tiêu cực trên một số phương diện của đời sống xã hội như sau: 3.1. VAI TRÒ CỦA TU SĨ PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI NGƯỜI KHMER Xã hội được tạo nên bởi nhiều yếu tố, thành phần, cộng đồng Mỗi cá nhân có một vị trí, hoàn cảnh, điều kiện và vai trò riêng biệt. Nếu ai cũng thực hiện đúng vai trò của mình theo xu hướng tốt đẹp, chuẩn mực đạo đức thì sẽ đem lại động lực phát triển xã hội tốt. “Vai trò là một tập hợp các mong đợi, các quyền và nghĩa vụ được gán cho một địa vị cụ thể. Nhưng sự mong đợi này xác định các hành vi của con người được xem như là phù hợp và không phù hợp đối với người chiếm giữ một vị trí” [102, tr.205]. Vai trò không chỉ là nghĩa vụ mà trong đó có cả quyền và sự mong đợi. Ví dụ, một người nông dân đáp ứng được các mong đợi là mang thực phẩm đến cho mọi người, đồng thời có quyền hưởng lợi nhuận từ sản phẩm đã làm ra, vai trò của họ là cày sâu, cuốc bẫm để có lúa gạo cùng các hoa màu khác cung cấp cho đời sống con người. Như vậy, vai trò xã hội luôn có mối liên hệ mật thiết với vị trí xã hội. Trước hết, một người phải làm tròn bổn phận đúng với vị trí của mình: “Địa vị đóng vai trò là giáo viên thì cá nhân đó phải truyền giải kiến thức cho học sinh, còn những người học sinh để thực hiện tốt vai trò của mình họ phải đi nghe giảng, ghi chép bài đầy đủ, làm bài tập ở nhà” [102, tr.215]. Nếu mọi người không làm đúng vai trò của mình, thì hiệu quả, năng suất không cao. Chẳng hạn, một nông dân mà đi dạy học thì làm sao được. 89 Trong một gia đình, mọi người phải làm tròn bổn phận của mình. Trong một xã hội, tùy theo trình độ, tay nghề, mà mỗi người được phân công công tác khác nhau, có như thế thì xã hội mới tiến bộ, giàu đẹp. Khi bàn đến vai trò của tu sĩ PGNT đối với đời sống xã hội vùng TNB là muốn nói đến vai trò “kép” của tu sĩ, đó là, vai trò trong đời sống tôn giáo và trong cả đời sống xã hội. Trong luận án này, chúng tôi sẽ đề cập đến cả hai trò đó. Trong đời sống xã hội, luận án sẽ bàn đến vai trò của tu sĩ PGNT đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa vùng TNB và đặc biệt là công tác giáo dục thanh niên Khmer. 3.1.1. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với đời sống tôn giáo Phật giáo trong vai trò thực thi đạo pháp trước hết là phải tu học, giữ gìn giới luật sau đó đem truyền trao lại cho mọi người cùng nhau có niềm an lạc. Như vậy, vai trò của tu sĩ là mang thức ăn tinh thần đến cho tha nhân. Hầu hết, người Khmer ở Nam Bộ đều theo hệ phái PGNT. Có thể nói, lý tưởng sống truyền thống của người Khmer ở Nam Bộ là Đức Phật. Cho nên, trong cuộc sống hằng ngày, dù tu sĩ ở chùa hay dân chúng tại thế đều phải rèn luyện theo đạo pháp đó là: thọ giới, bố thí và niệm. Đối với tu sĩ PGNTK, những điều trên là bắt buộc. Người Khmer quan niệm sống cốt yếu để làm phước. Hầu hết các lễ, hội của người Khmer đều mang ý nghĩa làm phước. Đối với người Khmer, làm càng nhiều thì phước hạnh càng nhiều nên cứ mỗi dịp lễ, hội, họ lại không sợ tốn kém đều cố gắng chuẩn bị gạo thóc, vải lụa, cơm xôi, trà bánh, mặn, ngọt, hoa quả mang đến để tặng chùa; những người khá giả giàu có còn làm phước cho người nghèo trong làng, xã, phum, sóc của mình và các vùng lân cận. Do đó, mỗi dịp lễ, hội là mỗi dịp để các tín đồ, Phật tử thể hiện tấm lòng nhân đức, bao dung, rộng lượng, nhân ái cao cả của mình, làm cho người người càng xích lại gần nhau, yêu thương nhau hơn. 90 Phật giáo Nam tông Khmer với giáo lý, giáo luật, lễ nghi đơn giản phù hợp với cuộc sống đời thường của người Khmer sống ở sông nước miệt vườn. Người Khmer đã tiếp nhận PGNT và đưa tôn giáo này lên vị trí độc tôn trong đời sống vật chất, tinh thần cả mình. Những triết lý nhà Phật đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến đồng bào dân tộc Khmer. Văn hóa tộc người Khmer và PGNT đã hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau tạo nên một chỉnh thể văn hóa tôn giáo - tộc người độc đáo và đặc sắc của người Khmer. Tu sĩ PGNTK là những người gìn giữ giá trị tôn giáo đạo Phật trong truyền thống tín ngưỡng của dân tộc, mỗi tu sĩ là những con người làm nhiệm vụ của mình là tu học rèn luyện bản thân với mục đích là gìn giữ đạo giáo hơn là để bản thân giải thoát đến với cõi niết bàn, vì trong mỗi vị đều nhận thức rằng trong hiện tại thì các vị không thể làm được điều đó (giải thoát). Cho nên trong người Khmer gọi các vị là “Sammatisang” (Tăng quy ước) có nghĩa là các vị là những tu sĩ được quy ước là Tăng, gọi như thế để phân biệt với các Chư tăng là A la hán thuở xa xưa mà đến nay mọi người luôn khao khát nhưng vẫn không thể đạt được. Tuy không phải là A la hán nhưng mỗi tín đồ người Khmer ai ai cũng kính trọng các vị và ví các vị như là lửa và ví von rằng: Đã là lửa thì dù lớn hay nhỏ đều có tác dụng như nhau, một khi đã cháy thì từ lửa nhỏ sẽ phát triển thành lửa lớn và sức hủy diệt cũng giống nhau thôi. Trong cuộc đời tu học của mình, nhiều vị đã hy sinh cuộc đời phàm tục tràn đầy sức sống vì đạo giáo để tu hành trọn đời. Các vị là người trực tiếp và dán tiếp gìn giữ, duy trì hoạt động của chùa chiền, của Phật pháp nhằm làm tấm gương tinh thần cho các Phật tử noi theo và được những người sùng đạo kính trọng. Vì vậy, đã bao thế kỷ mà người Khmer vẫn gắn bó với PGNT. Theo truyền thống, thanh niên Khmer phải có một thời gian vào chùa tu để báo hiếu cha mẹ, học lễ nghĩa, học chữ, học kinh sách Phật giáo. Thời gian vào chùa tu có thể vài ba tuần, vài ba tháng, hoặc vài ba năm, có cơ 91 duyên Phật pháp thì tu suốt đời, do vậy lực lượng tu sĩ PGNTK thật hùng hậu. Hình ảnh của tu sĩ là một hình ảnh không thể thiếu trong nhận thức của đồng bào Khmer. Mỗi chùa đều có Achar hoặc Ban Quản trị chùa. Họ là những bậc lớn tuổi, đã trải qua quá trình tu học tại chùa, có kinh nghiệm sống và uy tín trong phum sóc, được cử ra để giúp việc Sư cả trong thời gian lâu dài. Đây là bộ phận nắm giữ vật chất, tiền của trong chùa, có vai trò quan trọng đối với đời sống cộng đồng, nên việc bổ nhiệm cần có sự đồng thuận từ phía nhà chùa và cộng đồng. Một góc độ khác, mối quan hệ giữa PGNTK với Phật giáo Bắc tông của người Việt, Hoa trong vùng Khmer vừa là quan hệ tôn giáo vừa là quan hệ tộc người, cần tạo điều kiện để các tộc người, các hệ phái được gần gũi, chia sẻ với nhau trong các công việc chung của Giáo hội. Vì thế, Phật giáo là một bộ phận văn hóa của dân tộc Khmer, tạo nét đặc sắc cho văn hóa Khmer Nam bộ. Phật giáo có vai trò và vị trí quan trọng trong đời sống nhiều mặt của người Khmer Nam bộ. Trong quá khứ và hiện tại, Phật giáo đã góp phần cố kết cộng đồng Khmer, cũng như sự ổn định và phát triển của người Khmer. 3.1.2. Vai trò của tu sĩ Phật giáo Nam tông Khmer đối với đời sống văn hóa - xã hội Hệ thống kinh điển của Phật giáo luôn đặt nền tảng trên tinh thần duyên sinh vô ngã để trình bày về nhân sinh quan và vũ trụ quan một cách khoa học, nhằm mục đích chứng minh cho sự hiện hữu của vạn pháp đều tồn tại dưới dạng nhân duyên. Vì thế, sự hiện hữu của con người và gia đình, xã hội cũng không ngoài những quy luật trên. Từ quan điểm đạo đức Phật giáo bảo đảm hạnh phúc và an lạc cho cá nhân, chúng tôi khái quát vai trò của tu sĩ PGNTKM trên một số phương diện của đời sống văn hóa - xã hội như sau: 92 Một là, tu sĩ PGNTK góp phần xây dựng đạo đức, lối sống; góp phần tham gia giải quyết các vấn đề an sinh xã hội. Tu sĩ PGNTK góp phần rất lớn trong việc giáo dục hình thành nhân cách đạo đức, dân trí của cộng đồng dân tộc Khmer. Đạo đức dạy chữ Khmer ngữ, tiếng nói chữ viết ở các trường chùa, thông qua triết lý mang tính nhân đạo và quan niệm nhân quả của đạo Phật đã tác động sâu sắc đến từng thành viên trong gia đình, trong cộng đồng dân tộc Khmer; làm cho mọi người muốn hướng thiện, làm việc lành, tránh điều ác. Con người biết khiêm tốn, nhường nhịn, tương trợ giúp đỡ nhau, không so bì hơn thiệt. Làm cho cái tâm của họ không bị vẩn đục bởi tiền tài vật chất cám dỗ. Việc tu học theo PGNT, việc hình thành các trường chùa, đã góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng các ngành nghề để có thể phục vụ cuộc sống bình thường. Giáo lý, giáo luật, những triết lý sống của tôn giáo này được tu sĩ PGNTK truyền đạt có sự tác động rất lớn đến lối sống, đạo đức của người Khmer. Với vai trò, chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của mình, PGNT đã trở thành chỗ dựa trong đời sống văn hóa tinh thần của đại đa số người dân Khmer. Những chuẩn mực của đạo đức Phật giáo có tác dụng điều chỉnh hành vi, nhân cách con người, ảnh hưởng tích cực đến tín đồ. Điều này thể hiện tính độc lập tương đối của các hình thái ý thức xã hội, chúng luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau tạo nên nét đặc thù trong lối sống, đạo đức cho dân tộc này. Hơn nữa, chịu ảnh hưởng nhiều bởi triết lý, tư tưởng về “từ bi, hỷ xả” trong triết lý của đạo Phật và đã từ lâu ăn sâu vào máu thịt của họ nên người Khmer tin theo PGNT sống rất hiền hòa; người trong phum sóc rất đoàn kết, gắn bó với nhau. Sự đoàn kết ấy thể hiện qua cách cư xử hàng ngày như sống có nghĩa có tình, luôn sẵn lòng giúp nhau trong những cơn hoạn nạn, cùng nhau chung tay gánh vác để xây cất, tu sửa ngôi chùa, không đùn đẩy trách 93 nhiệm cho một cá nhân nào. Tùy theo từng gia cảnh, ai có tiền nhiều thì đóng góp nhiều, ai có ít thì góp ít, không phân biệt giữa những người trong phum, sóc của mình. Bởi lẽ, với người Khmer việc cúng dường, làm phước là điều rất thiêng liêng cao cả, nhiều gia đình giàu có sẵn sàng bỏ tiền của để làm phước cho chùa và cho những người nghèo khổ trong phum, sóc của mình và những nơi lân cận. Bên cạnh đó, cùng với tư tưởng “từ bi”, “cứu khổ” các chùa Khmer đã dang rộng vòng tay sẵn lòng đón tiếp những người lang thang cơ nhỡ, những trẻ mồ côi không nơi nương tựa, những người già cô đơn hay những kẻ trước đây đã lầm đường lạc lối muốn phục thiện trở về, tùy sức làm công quả trong chùa được việc gì thì làm, không làm được thì các vị sư thay nhau chia sẻ phần cơm do tín đồ dâng cúng để nuôi người già qua quãng đời còn lại và học sinh, sinh viên nghèo. Việc làm nhân đạo của nhà chùa là hoàn toàn tự nguyện, thực hiện giáo lý từ bi, phổ độ chúng sinh của Đức Phật. Bởi vậy, người được nhà chùa giúp đỡ nương nhờ của Phật thấy được an ủi và thấy cần phải cố gắng không ai có tư tưởng ỷ lại. Bên cạnh đó, việc các gia đình tổ chức làm phước để bố thí tiền bạc, gạo thóc cho người nghèo thể hiện được tính nhân văn, nhân đạo theo đúng tinh thần Phật Pháp là cứu khổ, cứu nạn cho bá tánh đồng bào. Nhiều vị cao tăng trong PGNTK là tấm gương tiêu biểu, đi đầu trong công tác từ thiện xã hội như: “Hòa thượng Trần Nhíp ở Kiên Giang, đã vận động sư sãi, phật tử, các mạnh thường quân tham gia sửa chữa và bê tông hóa trên 15 km đường nông thôn, bắt mới 112 cây cầu nông thôn với số tiền trên 10 tỷ đồng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng III và nhiều bằng khen khác”. Chùa Pitu Khôsa Răngsây ở thành phố Cần Thơ là một trong những ngôi chùa Khmer tiêu biểu trong công tác từ thiện xã hội. Dưới sự trụ trì của 94 Thượng tọa Lý Hùng, chùa Pitu Khôsa Răngsây là ngôi chùa PGNTK duy nhất ở thành phố Cần Thơ hiện nay có ký túc xá miễn phí dành riêng cho sinh viên dân tộc Khmer. Chùa còn tổ chức lớp dạy chữ Khmer miễn phí cho hàng trăm cán bộ, viên chức và thanh niên Khmer. Đồng thời tặng nhiều suất học bổng, tặng 80 chiếc xe đạp cho học sinh, sinh viên nghèo hiếu học. Chẳng những vậy, chùa còn vận động các nhà hảo tâm ở Australia đóng góp xây dựng Trường học Sammaki ở Xóm Giữa, Chợ Dưới, tỉnh Kom Pong Chnăng, Campuchia với kinh phí xây dựng 2,2 tỷ đồng. Nhân dịp Tết nguyên Đán, Tết Chôl Chnăm Thmây, Vu lan báo hiếu. chùa vận động Phật tử, các nhà hảo tâm và các vị mạnh thường quân cho khoảng 100 tấn gạo và tặng quà, vật phẩm cho bà con nghèo của tỉnh Hậu Giang và Sóc Trăng, thành phố Cần Thơ và Campuchia với kinh phí trên 01 tỷ đồng. Xây dựng được 3 km đường giao thông nông thôn và 15 cây cầu bê tông ở các phum sóc; xây dựng 5 căn nhà tình thương, tổ chức mổ mắt nhân đạo cho hàng ngàn lượt người mù nghèo ở tỉnh Trà Keo, tỉnh Kan Đal, Campuchia. Ngoài chùa còn vận động trùng tu sửa chữa các chùa ở vùng TNB như: chùa Savor, quận Ô Môn, TP Cần Thơ; chùa Pôthi Somrôn, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang; chùa Aranh Nhứt, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang; chùa Phno Prel, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh; chùa Bưng Tung, thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng; chùa Ô Chum Prưksa, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang Xây dựng trường, ký túc xá sinh viên nghèo, tăng xá cho sư tăng các tỉnh, giúp đỡ cho hàng trăm em sinh viên nghèo đã tốt nghiệp cử nhân, có việc làm ổn định. Bên cạnh đó chùa vận động Phật tử đóng góp kinh phí xây dựng được 01 lò hỏa táng từ thiện, miễn phí cho tang chế nghèo với tổng kinh phí 400 triệu đồng tại chùa Sanvor, phường Châu Văn Liêm, quận Ô Môn. Chùa Pitu Khôsa Răngsây được Trung tâm Unesco Văn hóa và Thông tin Truyền thông Việt Nam công nhận nằm trong Top 10 của 100 điểm Du lịch Văn hóa tâm linh tiêu biểu khu vực phía Nam năm 2014. 95 Mặc dù, lối sống và đạo đức của người Khmer chịu sự ảnh hưởng khá lớn của PGNT nhưng do nhu cầu giao lưu văn hóa với các dân tộc khác xung quanh nên đã ít nhiều có phần biến đổi, đặc biệt là ở giới trẻ. Đạo đức mà tu sĩ PGNT truyền đạt ảnh hưởng đến nay vẫn phát huy được mặt tích cực của nó như việc đi tu của thanh niên được xem là một trong những phong tục của người Khmer chịu sự ảnh hưởng giá trị tư tưởng hiếu nghĩa, luật nhân quả, hướng thiện của PGNT; đồng thời, tục đi tu của thanh niên Khmer cốt là để báu hiếu cho cha mẹ, học những kiến thức về văn hóa, xã hội về những kinh nghiệm sống để khi hoàn tục trở thành những công dân có ích cho gia đình, cộng đồng và xã hội. Tóm lại, với vai trò, chức năng và những giá trị nhân văn sâu sắc của mình, tu sĩ PGNT đã trở thành chỗ dựa trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Khmer. Những chuẩn mực đạo đức Phật giáo có tác dụng điều chỉnh hành vi, nhân cách con người, ảnh hưởng tích cực đến tín đồ, Phật tử. Điều đó thể hiện tính độc lập tương đối của các hình thái ý thức xã hội, chúng luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau tạo nên nét đặc thù riêng trong lối sống, đạo đức cho dân tộc này được phát triển và sinh tồn trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Việc đi tu để trả hiếu cũng là nét đẹp truyền thống và là giá trị đạo đức nhân văn cao cả của người dân tộc Khmer vẫn được duy trì. Tính đến nay có khoảng 8.000 tu sĩ PGNTK, thông qua các vị mà bản sắc văn hóa dân tộc Khmer được giữ gìn và phát huy, nhiều điểm chùa Khmer đã được xây dựng thành những trung tâm văn hóa, giáo dục, học tập, nơi vui chơi giải trí cộng đồng, góp phần vào việc tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Khmer. Với người Khmer, đời sống của họ không thể thiếu được PGNT, ngôi chùa được đồng bào coi như ngôi nhà thứ hai của mình. Và tuyệt đại đa số người Khmer đều được tu ở chùa nên ít nhiều đã chịu ảnh hưởng giáo lý của Phật, khi trở về với cuộc sống đời thường họ đã 96 mang theo những giá trị nhân văn và nhân đạo trong nhà chùa vào trong đời sống hàng ngày, dần dần hình thành nên lối sống đặc thù riêng của dân tộc Khmer, sự hòa trộn giữa hai yếu tố “đạo” và “đời” đã tạo nên cách sống riêng biệt của người Khmer. Hai là, tu sĩ PGNTK tông góp phần tạo dựng bản sắc văn hóa, góp phần bảo bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer Phật giáo Nam tông Khmer là tôn giáo giữ vai trò chủ đạo và đi vào trong tiềm thức của người Khmer ở Nam Bộ. Trong đó, tu sĩ PGNTK giữ một vai trò then chốt trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer. Bên cạnh đó phong tục, lễ hội truyền thống giữ một vị trí rất quan trọng trong đời sống xã hội của các dân tộc nói chung, của đồng bào Khmer nói riêng. Thông qua phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống, chúng ta có thể nhận diện rõ hơn về bản sắc văn hóa của dân tộc, của con người và cộng đồng xã hội. Đồng thời qua đó, những giá trị như: văn hóa ứng xử, lối sống hiền hòa, chất phát, hiếu thảo, trọng tình nghĩa... được bộc lộ rõ qua các hoạt động sống hàng ngày của người Khmer trong phum, sóc. Hầu hết những phong tục, lễ hội của người Khmer đều hướng con người đến việc thiện, tích nhiều phước. Các ngày lễ, tết mọi người quần tụ bên nhau chúc phúc cho nhau những lời chúc đầu năm mới với nhiều niềm vui hạnh phúc, thăm hỏi sức khỏe và quan tâm nhau trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, người Khmer thể hiện lòng thành kính, sự hiếu thảo đối với người quá cố hoặc tạ ơn thần linh đã mang đến cho họ cuộc sống ấm no, hạnh phúc phần nào cho thấy văn hóa ứng xử của tộc người Khmer trong cộng đồng dân tộc thông qua hệ thống các phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống ấy. Đối với người Khmer, trong một đời người, họ phải trải qua nhiều nghi lễ khác nhau như: lễ đi tu (xuất gia), lễ cưới hỏi, lễ tang ma,... Song, PGNT vẫn chi phối ảnh hưởng đối với những lễ hội này. 97 Người Khmer xem tục đi tu là giai đoạn quan trọng của đời người nên tu sĩ PGNT đã góp phần hình thành nhân cách, đạo đức cho đồng bào Khmer. Theo đó, đi tu theo nếp nghĩ truyền thống của người Khmer còn là cách tích phước cho cha mẹ, gia đình và cho bản thân. Trong sách dạy làm người Khmer có câu: “người không được tu trong chùa là người có nhiều tội lỗi trong đời sống”. Cho nên người con trai Khmer được xem là đủ tư cách phẩm chất trong xã hội đều phải trải qua thời gian tu học ở chùa” [77, tr.59]. Do vậy, việc đi tu không chỉ là một tập tục mà còn là nét văn hóa rất riêng từ bao đời nay của dân tộc này.Về phong tục cưới xin của người Khmer, Phật giáo đem đến cho người Khmer quan niệm hôn nhân tương đối bình đẳng, vợ chồng cùng chia sẻ công việc, cha mẹ không có sự phân biệt đối xử giữa con trai và con gái, trưởng, thứ, con đẻ, con nuôi. Phật giáo đã góp phần nâng cao giá trị văn hóa trong quan niệm hôn nhân, tạo nên lối sống truyền thống trong gia đình người Khmer, giáo dục đạo đức, rèn luyện cách sống trong đạo nghĩa vợ chồng. Về tang ma, là một trong những phong tục thể hiện sắc thái văn hóa rất riêng của tộc người này. Người Khmer có câu “sống gửi của, chết gửi xương”. Tang ma của người Khmer thể hiện những nét riêng khá rõ của cộng đồng dân tộc Khmer, đây là một trong những nghi lễ mà tu sĩ Khmer đóng một vai trò hết sức quan trọng. Tu sĩ PGNTK còn truyền đạt triết lý nhân sinh ảnh hưởng đến văn hóa ứng xử của người Khmer trong tang ma, thông qua quan hệ giữa người sống với người đã chết, giữa người sống với nhau. Khi một người qua đời, cả cộng đồng cầu siêu cho người quá cố, họ nhiệt tình và tận tâm tham dự đám tang. Dù cho lúc còn sống, giữa họ và láng giềng có xảy ra mâu thuẫn, đến khi ai đó qua đời, mọi lỗi l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_vai_tro_cua_tu_si_phat_giao_nam_tong_trong_doi_song.pdf
Tài liệu liên quan