Luận án Vấn đề giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU.1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI .7

1.1. Những nghiên cứu liên quan đến vấn đề lý luận về giữ gìn, phát huy giá trị

văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên.7

1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá

ứng xử với môi trường tự nhiên của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên .15

1.3. Những nghiên cứu liên quan đến quan điểm và giải pháp giữ gìn, phát huy

giá trị văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên của các dân tộc thiểu số ở

Tây Nguyên .23

1.4. Giá trị các công trình đã tổng quan và hướng nghiên cứu của luận án.29

Chương 2: GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI

TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN

HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN .34

2.1. Quan niệm về văn hoá ứng xử và văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên .34

2.2. Khái quát về các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và giá trị văn hoá ứng xử

với môi trường tự nhiên của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.41

2.3. Giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên của các

dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên - quan niệm, chủ thể, phương thức.53

2.4. Những nhân tố tác động đến việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá ứng xử

với môi trường tự nhiên của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay.64

Chương 3: GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI MÔI

TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY NGUYÊN

HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA.74

3.1. Thực trạng giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên

của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay .74

3.2. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá ứng xử

với môi trường tự nhiên của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay.102

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN

HOÁ ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU

SỐ Ở TÂY NGUYÊN TRONG THỜI GIAN TỚI.115

4.1. Quan điểm trong việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá ứng xử với môi

trường tự nhiên của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trong thời gian tới.115

4.2. Giải pháp giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên

của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trong thời gian tới.122

KẾT LUẬN.150

DANH MỤC NHỮNG CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .153

PHỤ LỤC .166

pdf193 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 535 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vấn đề giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ậy đã ảnh hưởng trực tiếp tới các hình thức sinh hoạt văn hóa cổ truyền. Theo thống kê năm 2018, các tỉnh Tây Nguyên có trên 1,12 triệu ha cây công nghiệp dài ngày, chiếm trên 53% tổng diện tích gieo trồng các loại cây trong toàn vùng; trong đó, nhiều nhất là cà phê, với tổng diện tích lên 582.149 ha, cao su có 251.348 ha, hồ tiêu có trên 85.000 ha Đắk Lắk chiếm gần 29% tổng diện tích cây công nghiệp dài ngày của toàn vùng, tiếp đến là tỉnh Lâm Đồng, Gia Lai và Đắk Nông, tỉnh Kon Tum chỉ chiếm 9.1%. Tây Nguyên đã trở thành vùng trọng điểm cà phê, hồ tiêu của cả nước. Đắk Lắk là địa phương có diện tích, sản lượng cà phê nhân nhiều nhất trong cả nước, với 201.152 ha, chiếm trên 40% diện tích cà phê của cả vùng Tây nguyên và 30% diện tích cà phê của cả nước, với sản lượng mỗi năm đạt từ 450.000 tấn cà phê nhân trở lên. Đây cũng là mặt hàng nông sản chiếm tới 86% kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông sản, đóng góp trên 20% tổng thu ngân sách của địa phương. Điều này đã dẫn đến những thay đổi tập quán, sinh hoạt xung quanh sản xuất của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, dẫn đến những thay đổi trong văn hoá ứng xử với nương rẫy, cây trồng về vùng đất trồng trọt, quy trình chăm sóc, phân bón, chăm sóc, các lễ nghi xung quanh vòng đời sinh trưởng của cây lúa thưa thớt dần. Do điều kiện diện tích đất đai canh tác ngày một thu hẹp, sự bùng nổ dân số trong cộng đồng, cùng với sự xuất hiện của những phương thức canh tác theo lối hiện đại Hiện nay, để đảm bảo việc khai thác hiệu quả nguồn lợi đất đai nhằm phục vụ cho sản xuất và đời sống, các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên không thể chỉ giữ mãi những tập quán canh tác truyền thống mà đã có những biến đổi phù hợp hơn trong 78 đời sống sản xuất của vùng Tây Nguyên hiện nay. Đó là việc phải thay đổi hình thức du canh cho đất có thời gian phục hồi độ màu mỡ, bằng việc luân canh có chu kỳ các loại cây trồng khác nhau trên cùng một diện tích đất canh tác để cải tạo qua từng mùa vụ. Hoặc để tăng năng suất trong lao động ngoài việc trồng theo phương pháp xen canh các giống cây trồng truyền thống, đưa vào canh tác các giống cây trồng mới cho năng suất cao hơn. Thực hiện tốt việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp, ngoài canh tác các loại cây lương thực truyền thống, các dân tộc thiểu số Tây Nguyên đã trồng thêm các loại cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày như: hồ tiêu, điều, cà phê, cao su, để đẩy nhanh tiến độ phát triển kinh tế gia đình và cộng đồng một cách bền vững. Sự biến đổi trong cơ cấu cây trồng kéo theo sự phân bố và sắp xếp lại chu kỳ sản xuất trong năm. Vì thế khó có thể phân biệt được thời vụ và kỹ thuật canh tác cây trồng của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên với các dân tộc khác trong vùng. Điển hình cho biến đổi trồng trọt của người Cơ - ho huyện Di Linh là các xã Tân Châu, Tân Thượng, Đinh Trang Hoà, Gung Ré, Liên Đầm. Do kết quả của quá trình chuyển đổi vượt bậc, nhiều buôn làng dân tộc Cơ - ho ở các xã trên đã đưa vào các giống cây trồng mới, các giống lúa lai, ngô lai, sắn cao sản, các loại cà phê, cao su, hồ tiêu. Các kỹ thuật canh tác mới, bao gồm kỹ thuật canh tác cây lương thực, canh tác ruộng nước cùng kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch cây công nghiệp, thông qua người dân mới đến và thông qua công tác khuyến nông, từng bước được du nhập. Tạo đời sống ổn định trên cơ sở tự túc lương thực từ ruộng nước và phát triển hàng hoá từ trồng trọt nông sản như cà phê, chè, dâu tằm. Có thể thấy so với vùng miền núi phía Bắc, việc chuyển nương rẫy thành ruộng khô và việc thực hiện nông - lâm kết hợp để giải quyết lương thực ở Tây Nguyên có những thuận lợi hơn. Đất đai ở Tây Nguyên trù phú và màu mỡ, địa hình khá bằng phẳng nhưng bên cạnh đó cũng có những khó khăn. Trình độ kỹ thuật canh tác của đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên còn thấp kém, thay đổi về kỹ thuật, công cụ, về tập quán tín ngưỡng. Lại thêm không ít những khó khăn về việc chống xói mòn đất, chống và diệt cỏ dại Do đó trong thời gian qua, các cấp chính quyền địa phương đã có sự kết hợp giữa đầu tư khoa học kỹ thuật với vận động, giáo dục và hướng dẫn để đồng bào thấy 79 được tính ưu việt của quá trình cải tạo các hình thức trồng trọt. Thông qua việc thay đổi cơ cấu cây trồng, dùng phân bón và đắp bờ chống xói mòn đã có tiền lệ ở một số vùng xung quanh các thị xã, thị trấn. Đối với các nhà truyền giáo, để phát triển kinh tế vùng người dân tộc thiểu số theo đạo nhằm lôi kéo những người đồng tộc của họ, các nhà truyền giáo phải đưa vào đây những phương thức canh tác tiến bộ dẫn đến sự thay đổi trong văn hoá ứng xử với nương rẫy và cây trồng của vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo. Nhưng việc làm ấy cũng vấp phải những khó khăn có nguồn gốc từ tín ngưỡng truyền thống của các tộc người. Việc đưa lưỡi cày và sử dụng sức kéo của trâu, bò vào sản xuất là một ví dụ. Người Công giáo cày ruộng bằng chiếc cày, cái bừa do các vị thừa sai đem vào phổ biến Các nơi khác, dân bản địa dùng cái bới, cái cuốc sắt nhỏ làm rẫy, chặt trỉa. Dân tộc Ba Na cho rằng sở dĩ không cày bừa vùng đất rộng được trận lụt định kỳ đem lại màu mỡ đến, là bởi vì họ cho rằng nếu làm như vậy, thần sẽ bị đau nên yang kăp pơgra (thần đòi chúng tôi nhiều quá) mà không cúng theo yêu cầu của thần sẽ bị phạt. Chẳng hạn như mỗi năm đòi một con trâu nên dân tộc Ba Na không dùng cày nữa. Luật tục của các dân tộc thiểu số một mặt thể hiện rõ nội dung của văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên, mặt khác nó còn góp phần tích cực vào việc nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sống của chính các dân tộc thiểu số. Nó vừa mang một số yếu tố của luật pháp như quy định các hành vi phạm tội, bằng chứng, xét xử, hình phạt, lại vừa mang tính chất của lệ tục, phong tục như các quy ước, lời răn dạy, khuyên răn mang tính đạo đức đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Thông qua những điều hạn chế, cấm kỵ được quy định trong các luật tục của các dân tộc thiểu số quy định các hành vi ứng xử của con người đối với tự nhiên, cũng như quy định chung cho con người trong quan hệ với tự nhiên mang tính khuôn thước của cộng đồng, các phong tục tập quán đã góp phần định hướng cho cách ứng xử, hành vi của mọi thành viên trong cộng đồng các dân tộc thiểu số mang đậm tính nhân văn. Từ những năm 2000, nhằm tạo ra một cơ sở vững chắc để xây dựng đời sống mới ở khu dân cư, các huyện Cư M’gar, Krông Buk, Krông Păk, Buôn Đôn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, các huyện trên địa bàn tỉnh Gia Lai, KonTum đã xây dựng và tiến 80 hành thực hiện quy ước thôn, buôn. Trong đó đặc biệt chú trọng đến yếu tố tiến bộ của luật tục trong đời sống sinh hoạt của các cộng đồng người dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên. Bản quy ước này của thôn buôn, ngoài việc vận dụng các điều khoản của Bộ luật Hình sự hiện hành, các quy định của Đảng và Nhà nước... Ban tự quản của buôn cũng đã linh hoạt đưa một số luật tục truyền thống của cộng đồng để hoàn chỉnh thêm. Nội dung luật tục chủ yếu quy định các vấn đề liên quan đến ứng xử với môi trường tự nhiên như: Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống; Phân chia tài sản đất đai; Bảo vệ môi trường, cảnh quan; Xử lý mọi hành vi trộm cắp và gây rối an ninh, trật tự xã hội... Bản quy ước này được tất cả các thành viên trong cộng đồng buôn thực hiện một cách nghiêm túc, đem lại hiệu quả thiết thực trong việc xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn. Việc triển khai thực hiện áp dụng quy tắc ứng xử trong gia đình và cộng đồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên, xây dựng các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người đã đem lại những hiệu quả thiết thực trong tiến hành sản xuất, sinh hoạt của đồng bào các dân tộc thiểu số. Các hủ tục lạc hậu gây ảnh hưởng xấu đến đời sống và sản xuất ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên cũng từng bước được hạn chế và xóa bỏ. Buôn Tring là buôn có lịch sử cách đây hơn 100 năm, là một trong những buôn Êđê lớn nhất huyện Krông Buk, tỉnh Đắk Lắk. Ở buôn Tring có văn bản Quy ước được mọi người trong buôn nhất trí thông qua và có hiệu lực đã được Uỷ ban nhân dân huyện Krông Buk phê duyệt và đưa vào sử dụng trong quản lý cộng đồng buôn. Nội dung Quy ước gồm có 33 điều, trong đó có 6 điều liên quan trực tiếp đến vấn đề văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên. Chẳng hạn điều 23 quy định: “Mọi người dân trong buôn phải bảo vệ các danh lam thắng cảnh của buôn như: thác Drai Ga, hang đá, các cây to lâu đời của buôn, rừng thông, sông suối, Không vứt rác bừa bãi ra đường, trường học, xung quanh nhà và các nơi công cộng khác. Phải vứt rác theo nơi quy định”. Điều 24: “Mọi người trong buôn phải thường xuyên giữ vệ sinh chung cho buôn. Không thả heo, trâu bò ra ngoài đường làm mất vệ sinh buôn làng và phá hoại cây trồng của các gia đình khác. Khi phun thuốc trừ sâu trong vườn cà phê phải tránh gây ô nhiễm môi trường cho các gia 81 đình xung quanh. Bảo quản đúng kỹ thuật thuốc bảo vệ thực vật, phân bón”. Hiện nay đối với các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên khi trong nhà có người chết, không để quá 3 ngày, đồng thời hạn chế và tiến tới việc không đốt vàng mã nhằm bảo đảm vệ sinh chung, giảm sự tốn kém tài chính cho mỗi gia đình. Có thể nói đây là sự tiến bộ rõ nét, góp phần làm chuyển biến tích cực đời sống kinh tế - xã hội của của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Ứng xử với động vật Trong xã hội cổ truyền, việc săn bắt, thuần dưỡng và chăn nuôi voi cũng là truyền thống nổi bật ở một số dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Nếu như trâu được phát triển ở Kon Tum, ngựa ở Gia Lai thì thuần dưỡng và nuôi voi lại tập trung ở Đắk Lắk, trong các cư dân Ê đê và M’nông với hai trung tâm nổi tiếng là Buôn Đôn và Ea Súp. Trong tâm thức nguyên thuỷ của người Tây Nguyên coi con trâu, con voi như là một thành viên trong gia đình, trong cộng đồng. Con trâu đối với người Tây Nguyên không giống như đối với người Kinh là “đầu cơ nghiệp”. Con vật hiền lành này có vị trí rất to lớn trong đời sống tâm linh của đồng bào. Voi là biểu tượng tài sản, sức mạnh và niềm kiêu hãnh. Khác với trâu và ngựa, nguồn voi bổ sung không bằng sinh sản mà bằng săn bắt và thuần dưỡng. Có thể nói các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên cũng có cách ứng xử với một số động vật tương tự như là cách ứng xử đối với con người. Họ nuôi trâu bò, nhất là trâu, chủ yếu để dùng vào việc hiến sinh thần linh. Khi cần thịt trâu, người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên tách con trâu đó ra khỏi đàn, đem nó ra xa thật xa chuồng rồi mới giết. Đồng bào làm như vậy để đàn trâu còn lại trong chuồng không phải nhìn thấy đồng loại bị chết và không phải ngửi thấy mùi thịt, mùi phân, mùi máu của đồng loại. Lễ đâm trâu của người M’nông và các dân tộc thiểu số khác ở Tây Nguyên không hề “dã man” như cách nhìn của con người hiện đại. Đồng bào tin thần linh có tác động tốt hoặc xấu đến cuộc sống của con người, nên đã “hiến trâu”. Trong lễ “ăn trâu” của người M’Nông, trâu trước khi chết được một người “tâm sự” với trâu lần cuối qua bài “Khóc trâu”. Thầy cúng lấy ống đựng rượu và nắm cỏ đưa cho người khóc trâu, người này thả từng cọng cỏ, rồi vừa đổ rượu lên đầu con trâu vừa hát khóc: 82 “Trâu ơi, ta thương trâu lắm. Cây cọc nêu họ đã chôn rồi Trâu hãy ăn lá cỏ lần cuối Ta thương tiếc trâu lắm, trâu ơi!” [78; tr.127] Con trâu chết đi nhưng cái chết của nó mang lại sự yên lành cho cuộc sống cộng đồng. Đây còn là một lối ứng xử mang tính nhân văn sâu sắc của người M’nông với con vật hiến sinh. Các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên luôn ý thức và tự hào rằng họ là những người con của núi rừng, đối với họ rừng như một người mẹ. Cho nên các dân tộc thiểu số có những cách khai thác các nguồn lợi từ rừng một cách hợp lý, không lãng phí, cũng không tàn phá, chỉ đủ để duy trì sự sinh tồn của chính bản thân mình bên cạnh muông thú và thiên nhiên. Trước đây, rừng Tây Nguyên có nhiều chim muông, trên cành cây có chim chóc, vượn, khỉ bám đậu; dưới đất có thỏ, lợn, bò rừng, tê giác,.v.v... Cách ứng xử của đồng bào đối với mỗi loại động vật là khác nhau. Các loại thú không phá hoại mùa màng, không làm hại con người thì đồng bào không có ý hại nòi giống của chúng. Còn những loài thú phá hoại nương rẫy, đe doạ mạng sống của con người thì khi săn bắt chúng, đồng bào cũng chỉ nhằm vào việc giảm bớt số lượng chứ không có ý diệt chủng chúng. Như vậy, khi săn bắt thú rừng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có ý bảo tồn và phát triển, chứ không theo cách huỷ diệt. Khai thác động vật rừng cũng được xem là một trong những hoạt động kinh tế của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Mặc dù đây không phải là hoạt động lao động chính nhưng nó cũng đem lại những lợi ích nhất định đối với nhu cầu đời sống hàng ngày của gia đình và cộng đồng họ. Trong lịch sử, các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên có cả một quá trình lâu dài sinh sống hài hoà cùng với môi trường rừng núi bạt ngàn có rất nhiều loài thú tự nhiên chính vì vậy họ cũng đã tích luỹ được rất nhiều những kinh nghiệm trong việc tận dụng khai thác các nguồn lợi từ các loại động vật rừng. Những nơi có “nhà của thần” người M’nông không dám khai thác nguồn lợi thiên nhiên. Nếu chẳng may có hành động nào sơ suất như chặt cây, bẻ măng, bắt tôm tép ở khu vực “nhà thần” thì đồng bào phải làm lễ cúng để “đền thần” và xin thần tha thứ cho lỗi lầm của mình. Thần linh cai quản thế giới động vật 83 nên nếu con người săn bắt thú vật, hải sản bừa bãi là mang tội với thần. Muốn được thần tha thứ, không trừng phạt thì phải làm lễ cũng, cầu khấn và hứa với thần về sau sẽ không tái phạm nữa. Nỗi ám ảnh tôn giáo này in sâu trong tâm thức của đồng bào dân tộc thiểu số M’nông. Ngoài rừng thần, suối thần, việc săn bắt thú rừng, bắt cá dưới suối là quyền của tất cả mọi người trong buôn làng Tây Nguyên. Các dân tộc thiểu số Tây Nguyên đốt rừng làm nương rẫy nhưng vẫn bảo vệ rừng, săn bắn thú rừng, đánh bắt tôm cá nhưng vẫn bảo vệ nguồn lợi thiên nhiên. Ở một số nơi đồng bào M’nông việc đánh bắt cá thường được diễn ra theo cách, trước ngày đánh bắt cá đồng bào M’nông sẽ đeo gùi lên rẫy lấy vỏ cây rle và Znhau, rải lên các tảng đá bằng phẳng, sau đó mỗi người cầm một thanh cây cứng đập cho đến khi vỏ cây nát rồi thu gom vào gùi mang về hôm sau mang đến dòng suối đã định đánh bắt thả vô dòng nước. Các loại tôm, cá say thuốc vỏ cây nổi lên mặt nước được đồng bào M’nông bắt mang về. Việc dùng lá cây độc (thuốc) để bắt cạn kiệt tôm cá này được luật tục M’Nông nghiêm cấm: “Suối nuôi cá là của chung Cá dưới suối ai xúc cũng được Bắt con ếch phải chừa con mẹ Chặt cây tre phải chừa cây con Đốt tổ ong phải chừa ong chúa Thuốc cá suối làm suối nghèo” [119; tr.280] Trước đây hái lượm và săn bắt là nguồn thực phẩm quan trọng của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Việc đánh bắt cá, săn bắn chim muông mang lại cho họ một nguồn thực phẩm khá đồi dào. Vào mùa săn bắn - mùa mưa, thịt thú rừng nhiều, những người thợ săn đem phơi khô để làm thức ăn dự trữ trong năm. Tuy nhiên, trong khi đi săn thú rừng, cư dân Tây Nguyên bản địa có những quy định rất riêng. Họ tuyệt đối không săn bắt các con vật khi mang thai. Theo họ, như vậy sẽ không làm phật ý thần linh và đó cũng là cách tốt nhất để thú trong rừng sinh sôi nảy nở. Tục vào rừng săn bắn của người Êđê gắn liền với việc cầu khấn thần linh và kiêng cữ sao cho công việc được may mắn, suôn sẻ. Ngày mai đoàn người đi vào rừng thì tối 84 nay thầy cúng làm lễ xin thần Rừng, thần Núi, thần Suối, thần Sông, cầu mong ông bà tổ tiên phù hộ cho những người đi săn bắn, hái lượm không bị rắn cắn, cọp vồ, voi quật, không bị nước cuốn, cây to đổ đè vào người. Các mối quan hệ này được coi như là một sợi dây bền chặt. Người nào làm đứt mối quan hệ hài hoà này cuộc sống sẽ bị đe doạ. Tuy nhiên, từ sau năm 1975 đến nay do đời sống kinh tế đã thay đổi, dưới tác động của di dân, của môi trường sống nên các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay đã không còn quan tâm nhiều đến việc bảo vệ và duy trì trật tự sinh tồn đa dạng của các loài động vật tự nhiên. Khi săn bắt ở nhiều nơi đồng bào dân tộc thiểu số vẫn vi phạm các quy định về khu rừng cấm săn bắt, đặt bẫy ở nhiều nơi không còn chú ý đến mùa sinh sản hay không bắt những con thú nhỏ hoặc đang mang thai như trước kia. Ở một số nơi đồng bào dân tộc thiểu số còn sử dụng thuốc hoá học, cần câu điện trong khai thác đánh bắt thuỷ sản ở các ao hồ tự nhiên, làm ô nhiễm môi trường sinh sống của các loài động, thực vật. Điều này khác với cách ứng xử nhân văn trước đây của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên với môi trường tự nhiên khi họ không bao giờ triệt thu, tận diệt, huỷ hoại môi trường, mà họ luôn thể hiện sự hài hoà với môi trường tự nhiên và luôn ý thức giữ gìn nguồn sống cho mình và các thế hệ mai sau. Để tham gia được vào hệ thống văn hoá đương đại, những giá trị văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên có thể được giữ nguyên mọi mặt như trong quá khứ, nhưng phần lớn chúng phải chịu những biến đổi. Có thể đưa ra một vài ví dụ như lễ đâm trâu trước kia người ta tổ chức trong nhiều dịp như cầu mùa của cộng đồng, mừng chiến thắng quân sự, chúc sức khoẻ, cầu bình an cho con người. Ngày nay, người ta chỉ giữ lại lễ đâm trâu chúc sức khoẻ cho con người, còn lễ đâm trâu cộng đồng hầu như không còn tổ chức bởi quan niệm hiện nay cho rằng việc đâm trâu mang tính hơi dã man đối với các loài vật nên đã không còn phổ biến như trước. Theo báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk số lượng voi ở Đắk Lắk đến năm 2021 còn khoảng 140 con, so với năm 1980 giảm khoảng 90%. Đây là một hiện tượng đáng báo động, tháng 12 năm 2021 Tổ chức Động vật Châu Á (Animals Asia) đã ký kết với Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk 85 biên bản “Hợp tác về mô hình du lịch thân thiện với voi”. Trong đó nội dung của biên bản ký kết nhấn mạnh Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk sẽ thực hiện các biện pháp trong quyền hạn, chức năng để hạn chế tối đa các hoạt động ảnh hưởng tới phúc lợi của voi nha. Cụ thể sẽ dừng các loại hình du lịch cưỡi voi trong thời gian sắp tới, mà thay thế bằng mô hình du lịch sinh thái với voi nhằm góp phần bảo tồn voi tại địa phương có số lượng voi lớn nhất ở Tây Nguyên. Lễ bỏ mả của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên vẫn được duy trì nhưng không kéo dài nhiều đêm và quy mô không lớn như trước kia. Như vậy, trong văn hoá ứng xử với nương rẫy, cây trồng, động vật đã có những sự thay đổi to lớn, đặc biệt là do thay đổi tập quán sản xuất nên kéo theo đó là sự thay đổi trong văn hoá ứng xử với nương rẫy, cây trồng. Trong văn hoá ứng xử với động vật đã bỏ một số những tục lệ không còn phù hợp như đâm trâu, cúng vật hiến sinh cũng dần hạn chế do tính nhân văn với các loài động vật. Tuy nhiên có thể thấy rằng bên cạnh những mặt thay đổi tích cực chúng ta cũng đang lãng quên những giá trị văn hoá ứng xử tốt đẹp với nương rẫy, cây trồng, động vật trong môi trường tự nhiên nên dẫn đến môi trường tự nhiên với các loại động, thực vật đang có sự suy giảm nghiêm trọng, văn hoá khai thác nhưng không tận diệt đang mất dần đi thay bằng sự huỷ diệt tận gốc trong khai thác tự nhiên của con người, đây là thực trạng đáng báo động. 3.1.2. Thực trạng giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá tôn trọng và bảo vệ rừng Rừng nuôi sống thể chất người Tây Nguyên, rừng cũng là cơ sở quan trọng tạo nên đời sống tinh thần của họ. Đối với người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, rừng là một thực thể giống như thực thể con người, thậm chí rừng còn là một phần “bản nguyên” của con người. Đó cũng là điều lý giải vì sao các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên quý trọng rừng. Rừng đem lại sản phẩm ăn, mặc, ở cho các dân tộc thiểu số. Mật ong, phấn hoa, nấm hương, đọt mây, măng tre, các loại cây, hoa quả là nguồn thức ăn dồi dào, cung cấp cho con người, đàn gia súc và chim chóc trong không gian sinh tồn của họ. Vỏ một số loại cây rừng được người dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên dùng cả tấm để che thân, dùng làm nguyên liệu nhuộm chỉ, dệt khố, váy áo, chăn và các trang phục khác. Rừng cung cấp gỗ làm cột nhà, cỏ tranh lợp 86 mái, nứa, lồ ô che vách, rừng còn cung cấp nhựa cây cho đồng bào làm nến thắp sáng trong sinh hoạt, các dụng cụ như nong, nia, gùi, giường, sạp, phản, ghế ngồi đều lấy nguyên liệu từ rừng mà ra. Người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên sinh ra từ rừng, sống trong rừng và khi chết thân xác được rừng bao bọc. Trong các khu nhà mồ có các tượng gỗ mô tả phỏng theo các đường nét của con vật sinh sống trong rừng cũng được chạm bằng các loại gỗ quý lấy từ rừng. Chính vì vậy, rừng gắn bó như máu thịt với người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. “Hi sa bri” (Chúng tôi ăn rừng) là cách mà người M’Nông nói về sự ứng xử của mình với tự nhiên, với đất đai, với rừng - môi trường tự nhiên của họ. Không phải ngẫu nhiên mà người M’Nông chọn động từ “ăn” để nói về cách mà họ canh tác trên các khoảnh rừng, cách mà họ lấy các sản vật từ rừng, rừng chở che mọi tai họa, khi chết, họ được đưa vào rừng để về với tổ tiên. Sự linh thiêng và huyền bí của rừng đã tạo nên “văn hoá rừng”, Hay nói đúng hơn, rừng chính là môi trường góp phần tạo nên tri thức bản địa của người M’Nông. Đất làm rẫy là đất được cắt ra từ rừng, bên cạnh các khu rừng được khai thác, mỗi làng Êđê, Gia Rai, M’Nông đều có một khu rừng cấm, đồng bào gọi là “Rừng thần”. Trong khu rừng này không ai được khai thác lâm thổ sản. Nếu một ai vô tình chặt đọt mây, bẻ măng, lấy mật ong, hái quả trong khu rừng cấm chẳng may trong làng có người bị bệnh, dịch bệnh, hạn hán, mất mùa thì người này bị quy tội và bị phạt rất nặng. Trong quan niệm của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, rừng từ bao đời nay là môi trường sinh tồn và là nơi cung cấp các nguồn tài nguyên nuôi sống cộng đồng cho nên họ luôn có ý thức trân trọng, bảo vệ rất nghiêm ngặt. Luật tục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên có các điều cấm kỵ quy định trong việc chặt phá rừng, bán đất rừng, bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ rừng thiêng, tôn trọng không được xúc phạm tới thần linh, các phong tục tập quán và lễ nghi liên quan tới rừng núi,Những tri thức này đã được định hình và trở thành các nguyên tắc sống, lẽ sống của mỗi con người trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Trong sử thi Êđê, cây rừng được xây dựng thành hình ảnh như là hình ảnh con người. Chúng ta hãy nghe người và cây đối thoại với nhau. 87 “Dăm Bhu nói với con trai: - Cha chặt cây này làm con quay cho con nhé? Hai cha con nghe tiếng cây nói: Không được đâu cha con Mdrong Dăm ạ! Tôi là giống cây rễ nhỏ, lõi bé, gốc mọc dưới nước, lá xoè ra hai bên đường. Đừng chặt chúng tôi, ông đi tìm cây giây, cây giàu có, ông đi tìm cây giàu sang mà chặt. Ông chặt chúng tôi, ông hạ chúng tôi để làm gì? Dăm Bhu: - Tôi chặt cây để làm con quay cho con tôi Cây: - Ôi, thôi đi! Chúng tôi rừng non, trẻ còn nhỏ, là đường đi của voi, tê giác, ông đi tìm thân cây già, cây to gốc, lấy cành làm con quay. Chúng tôi làm lối đi mát như vậy, con cháu ông mới mạnh khoẻ” [78; tr.115]. Các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên cho rằng, rừng cây, sông suối, đất đai khu vực mình sinh sống là do ông bà, tổ tiên để lại, mỗi một cánh rừng, ngọn núi, con suối, dòng sông đều có thần linh cai quản. Về phần mình, họ có trách nhiệm giữ gìn bảo vệ để tổ tiên “vui lòng” và thần linh không quở trách. Hai yếu tố này - tổ tiên và thần linh - cùng trải nghiệm thực tế đã giúp bảo vệ không gian sinh tồn tốt hơn, khai thác nguồn tài nguyên hợp lý hơn. Văn học dân gian của các dân thiểu số ở Tây Nguyên có nhiều loại hình phong phú và đa dạng, mang tính giáo dục khá sâu sắc đối với con người về tình yêu thiên nhiên, thái độ tôn sùng và ngưỡng mộ trước những vẻ đẹp hùng vĩ của tự nhiên. Thông qua những câu chuyện huyền bí được thể hiện trong sử thi của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên về những cuộc đấu tranh giữa con người với thiên nhiên, những hình ảnh của thế giới tự nhiên xuất hiện trong các làn điệu hát múa, hát ru của các dân tộc phần nào đã nói lên sự linh hoạt của họ trong ứng xử với môi trường tự nhiên, rất uyển chuyển để thích nghi nhưng cũng rất chủ động trong ứng phó để chống chọi lại những cơn thịnh nộ của tự nhiên. Thông qua những lời cảnh tỉnh về nạn phá rừng của con người qua những lời sử thi Êđê về lời nói của “cây rừng” với người muốn đốn hạ rừng: Ông chặt chúng tôi, ông hạ chúng tôi để làm gì? Chúng tôi làm lối mát như vậy, con cháu ông mới khỏe mạnh. Tôi cho rằng đây là lời cảnh tỉnh 88 sớm nhất về nạn phá rừng từ con người. Ở đây, tác giả sử thi dân gian đã có “trực kiến thiên tài”, như Ph. Ăngghen đã ca ngợi khả năng nhận biết tự nhiên của người Hy Lạp cổ đại. Qua đó có thể thấy văn hoá ứng xử tôn trọng và bảo vệ môi trường tự nhiên giữa con người và tự nhiên trong văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên đã có sự thay đổi rất lớn trong nền kinh tế thị trường, từ mối quan hệ hài hòa đã chuyển sang quan hệ khai thác, tận dụng tự nhiên một cách triệt để

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_van_de_giu_gin_phat_huy_gia_tri_van_hoa_ung_xu_voi_m.pdf
  • pdf2. Tóm tắt Luận án Tieng Anh LTHHANH.pdf
  • pdf2. Tóm tắt Luận án Tieng Viet LTHHANH.pdf
  • pdf3. BẢN GIẢI TRÌNH SỬA CHỬA LTTHANH.pdf
  • pdf4.TRANG THÔNG TIN LUẬN ÁN TV+TA LTTHANH.pdf
  • pdfCV dang luan an.pdf
Tài liệu liên quan