MỤC LỤC
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN . 6
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng đối ngoại
Hồ Chí Minh . 6
1.2. Những công trình liên quan đến vận dụng tư tưởng đối ngoại
Hồ Chí Minh trong quan hệ đối với Trung Quốc . 22
1.3. Đánh giá những kết quả nghiên cứu liên quan đến luận án và
vấn đề đặt ra luận án cần giải quyết. 25
Tiểu kết chương 1. 27
Chương 2: Tư TưỞNG ĐỐI NGOẠI HỒ CHÍ MINH . 28
2.1. Các khái niệm. 28
2.2. Nội dung cơ bản tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. 35
2.3. Tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh với Trung Quốc . 67
Tiểu kết chương 2. 77
Chương 3: QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI TRUNG
QUỐC TỪ 1991 ĐẾN NAY THEO Tư TưỞNG HỒ CHÍ MINH. 79
3.1. Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
từ 1991 đến nay. 79
3.2. Thực trạng quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc từ 1991
đến nay theo tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh. 91
3.3. Những vấn đề đặt ra trong việc vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ
Chí Minh đối với quan hệ Việt – Trung. 129
Tiểu kết chương 3. 136
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG Tư TưỞNG
ĐỐI NGOẠI HỒ CHÍ MINH TRONG QUAN HỆ VIỆT - TRUNG . 137
4.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quan hệ đối ngoại
với Trung Quốc dưới ánh sáng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh . 1374.2. Giải pháp vận dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong việc
tăng cường quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc. 149
Tiểu kết chương 4. 162
KẾT LUẬN . 163
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ . 167
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 167
182 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vận dụng tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh trong quan hệ với Trung Quốc hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lớn có tác động sâu sắc đến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu
đầu thập niên 90 của thế kỷ XX làm cho cục diện thế giới và quan hệ quốc tế
thay đổi một cách cơ bản. Chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị khủng hoảng sâu sắc, toàn diện.
Cơ cấu địa chính trị và sự phân bố quyền lực toàn cầu bị đảo lộn, cán cân so
sánh lực lượng trên thế giới nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản. Sau
gần nửa thế kỷ tồn tại kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, trật tự thế giới hai
cực chấm dứt. Quá trình hình thành trật tự thế giới mới chứa đựng nhiều yếu
tố bất trắc, khó đoán định, trong đó nổi lên hai khuynh hướng đối nghịch
nhau: Mỹ tham vọng lập lại trật tự thế giới đơn cực, trong khi Nga, Trung
Quốc và một số nước lớn khác đấu tranh cho trật tự thế giới đa cực. Phương
thức tập hợp lực lượng trong quan hệ hợp tác đấu tranh, hợp tác cạnh tranh,
đấu tranh và sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn
ngày càng tăng. Theo đó, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc chịu tác động
mạnh mẽ của trật tự thế giới, từ quan hệ đối tác, hợp tác truyền thống với
những điểm tương đồng trên nhiều lĩnh vực tiếp tục phát triển thành đối tác
chiến lược toàn diện trong trật tự thế giới đa cực.
81
Ba là, toàn cầu hóa, khu vực hóa trở thành xu thế chủ đạo, diễn ra
mạnh mẽ tác động sâu sắc đến các quan hệ quốc tế mở ra những cơ hội liên
kết hợp tác trong quan hệ quốc tế.
Toàn cầu hóa là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế vượt
khỏi biên giới quốc gia và phạm vi từ khu vực lan tỏa ra phạm vi toàn cầu
trong đó hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông tin lao động, vận động thông thoáng.
Sự phân công lao động mang tính quốc tế. Các mối quan hệ quốc tế giữa các
quốc gia, khu vực đan xen nhau hình thành mạng lưới quan hệ đa chiều, vận
hành theo các luật chơi chung được hình thành qua hợp tác và đấu tranh giữa
các thành viên của cộng đồng quốc tế83. Toàn cầu hóa kinh tế xét về bản chất
là quá trình gia tăng mạnh mẽ của những mối liên hệ sự phụ thuộc lẫn nhau
tác động qua lại của các quốc gia khu vực trên lĩnh vực kinh tế. Đảng ta nhận
định: “Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều
nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa
có đấu tranh,... Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu mà không một
quốc gia riêng lẻ nào đó có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa
phương”84. Tính khách quan của toàn cầu hóa bắt nguồn từ sự phát triển của
lực lượng sản xuất, của hàng hóa và dịch vụ đòi hỏi phải phá bỏ các rào cản
về thị trường. Sự phát triển của khoa học và công nghệ được thúc đẩy bởi quá
trình toàn cầu hóa làm cho nền sản xuất vật chất có điều kiện vượt biên giới
quốc gia và khu vực. Sự phát triển của sản xuất đòi hỏi phân công lao động
sâu rộng và gia tăng hợp tác phát triển giữa các nền kinh tế. Nhiều vấn đề
toàn cầu xuất hiện như tội phạm ma túy, dịch bệnh đòi hỏi phải hợp tác toàn
cầu mới giải quyết được. Toàn cầu hóa đặt ra yêu cầu mới trong việc tận dụng
tốt cơ hội và giảm thiểu được những rủi ro có thể mang lại trong việc thúc đẩy
quan hệ song phương giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc.
83
Ban Chỉ đạo các lớp nghiên cứu, quán triệt nghị quyết Đại hội IX, tr.59.
84
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2002, tr.13 -14.
82
B những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học công
nghiệp lần thứ tư trong những năm gần đây trên thế giới đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất toàn cầu phát triển vượt bậc, tiếp tục đặt ra các yêu cầu mới
của quá trình liên kết khu vực và liên kết quốc tế.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ dẫn đến sự xuất hiện
và phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, kinh tế thị trường. Thực tế đó
tiếp tục đặt ra các yêu cầu mới của quá trình liên kết khu vực và liên kết quốc
tế. Đồng thời, các quốc gia buộc phải điều chỉnh chiến lược toàn diện nhằm
tạo không gian phát triển cho các ngành nghề, lĩnh vực cụ thể của đời sống xã
hội vốn ngày càng phụ thuộc vào những tiến bộ khoa học, công nghệ. Nền
kinh tế thị trường trên thế giới đang được hình thành, ngày càng phát triển
hiện đại, đóng vai trò quan trọng trọng sự phát triển của đời sống kinh tế quốc
tế. Tuy nhiên, vẫn tiếp tục tồn tại các mâu thuẫn; khủng hoảng theo chu kỳ
gây thiệt hại lớn đến các nước.
Nă các cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế thế giới đã tạo ra
những nguy cơ, thách thức lớn đối với các quốc gia, đòi hỏi các quốc gia phải
cùng chung tay hành động ứng phó.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
kinh tế - tài chính giữa các quốc gia có sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn
nhau. Có rất nhiều tác nhân gây nên sự biến động của kinh tế - tài chính thế
giới, như: Các tác nhân chủ quan (sự bất ổn kinh tế - tài chính vĩ mô; bản chất
quy luật kinh tế đang được vận hành thể hiện qua việc điều hành cơ chế,
chính sách, sự thất bại trong điều tiết nền kinh tế của Chính phủ,) và khách
quan (hội nhập quốc tế, yếu tố giá, cạnh tranh giữa các quốc gia, các yếu tố về
chính trị, hội nhập, khoa học và công nghệ, biến đổi khí hậu,). Tuy nhiên,
giữa các tác nhân cũng có sự phụ thuộc, tác động qua lại lẫn nhau, tác nhân
này có thể là nguyên nhân hoặc hậu quả, kết quả của tác nhân khác. Khi một
hoặc một số tác nhân tích tụ đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến tình trạng
khủng hoảng kinh tế - tài chính và ảnh hưởng đến một hoặc nhiều quốc gia.
83
Để giải quyết khủng hoảng, đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung tay của tất cả các
quốc gia, dân tộc, các tổ chức quốc tế, nhất là các cường quốc và các tổ chức
tài chính quốc tế. Đồng thời, đặt ra yêu cầu các nước cần tiếp tục điều chỉnh
chính sách đối ngoại phù hợp nhằm giảm thiểu và ứng phó kịp thời với các
cuộc khủng hoảng có thể xảy ra.
Sáu là, tình hình an ninh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chiến
tranh khu vực, xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp chủ quyền lãnh
thổ, nhất là khu vực biển Đông đặt ra cho quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
nhiều vấn đề phức tạp cần giải quyết.
Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, tình hình an ninh thế giới có nhiều diễn
biến phức tạp, chiến tranh khu vực, xung đột vũ trang diễn ra ở nhiều nơi.
Trong đó, 70% các cuộc xung đột liên quan đến sắc tộc, tôn giáo làm ảnh
hưởng rất lớn đến sự ổn định chính trị, tác động không nhỏ đến quan hệ quốc
tế. Xung đột sắc tộc, tôn giáo đã gây ra không chỉ là những nỗi lo mà còn là
những thảm họa cho nhân loại. Sắc tộc, tôn giáo cũng ngày càng trở thành
nhân tố quan trọng ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ quốc tế. Những cuộc
xung đột trong một số quốc gia, khu vực tăng lên; một số lực lượng cực đoan
tiến hành chính sách khủng bố, đe dọa nền hòa bình và ổn định ở khu vực và
quốc tế. Giải quyết xung đột sắc tộc, tôn giáo là một vấn đề toàn cầu. Do đó,
cần phải có sự chung tay góp sức của cả nhân loại, của tất cả các quốc gia và
tổ chức quốc tế trên thế giới.
Tình trạng tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, nhất là khu vực biển Đông
diễn biến phức tạp. Các sáng kiến, mô hình hợp tác song phương và đa
phương này đã có tác dụng nhất định trong việc giảm căng thẳng, tăng cường
hợp tác và khuyến khích đối thoại giữa các bên có liên quan. Tuy nhiên, ở
một mức độ nào đó vẫn chưa giải quyết triệt để các vấn đề đặt ra. Trước thực
trạng trên, các quốc gia xung quanh biển Đông, đặc biệt là các quốc gia có
yêu sách trong vùng tranh chấp lãnh thổ trên biển tại đây vẫn tiếp tục nỗ lực
tìm kiếm và xây dựng, thực hiện các hoạt động hợp tác. Theo đó, việc thúc
84
đẩy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc cũng phụ thuộc rất lớn vào tiến trình giải
quyết các tranh chấp chủ quyền trên biển Đông, nhất là khi Trung Quốc ngày
càng đặt ra những yêu sách chủ quyền phi lý trên vùng biển quan trọng này.
B : tình hình dịch bệnh Covid đang diễn ra hết sức phức tạp và khó
lường các biến thể của nó đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Khởi nguồn
vào cuối tháng 12 năm 2019 với tâm dịch đầu tiên tại thành phố Vũ
Hán thuộc miền Trung Trung Quốc đại lục, bắt nguồn từ một nhóm người
mắc viêm phổi không rõ nguyên nhân. Những ảnh hưởng trên toàn thế giới
của đại dịch COVID-19 hiện nay bao gồm: thiệt hại sinh mạng con người, sự
bất ổn về kinh tế và xã hội, tình trạng bài ngoại và phân biệt chủng tộc đối với
người gốc Trung Quốc và Đông Á, việc truyền bá thông tin sai lệch trực tuyến
và vũ khí sinh học. Vào ngày 11 tháng 3 năm 2020, WHO tuyên bố COVID-
19 là "đại dịch toàn cầu", trước bối cảnh số ca nhiễm trên toàn cầu đã vượt
mốc 126.000 và dịch đã lan ra 123 quốc gia và vùng lãnh thổ. Tính đến tháng
5 năm 2021, số ca nhiễm đã vượt quá 150.000.000 ca nhiễm và đang gia tăng
nhanh chóng. Điều đó cũng có những ảnh hướng tới quan hệ đối ngoại giữa
hai nước trong quan hệ về kinh tế, thương mại, du lịch
3.1.1.2. Tình hình
Là một trung tâm phát triển năng động nhất thế giới, châu Á - Thái Bình
Dương trở thành một trong những động lực chủ yếu cho sự phát triển của thế
giới. Khu vực này có vị trí địa kinh tế - chính trị - quân sự chiến lược ngày
càng quan trọng trên thế giới; đồng thời, cũng là trọng tâm của sự cạnh tranh
chiến lược gay gắt giữa các nước lớn. Quá trình quốc tế hóa và khu vực hóa đã
tạo ra những biến đổi sâu sắc ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cụ thể là:
Bước vào thập kỷ 90, tình hình khu vực châu Á Thái Bình Dương có
những chuyển biến mới. Cụ thể là:
Mộ sự nổi lên của tam giác chiến lược mới Mỹ - Trung - Nhật trở
thành nhân tố chủ yếu chi phối an ninh, chính trị của khu vực châu Á - Thái
Bình Dương.
85
Hai là, trong khu vực này tuy vẫn tồn tại nhiều nguy cơ bùng nổ xung
đột như vấn đề hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên; vấn đề Đài Loan; vấn đề tranh
chấp lãnh hải ở biển Đông và việc các nước trong khu vực tăng cường vũ
trang nhưng châu Á - Thái Bình Dương sau chiến tranh lạnh vẫn được đánh
giá là khu vực yên tĩnh và ổn định nhất của thế giới.
Ba là, châu Á - Thái Bình Dương trở thành khu vực có tiềm lực lớn và
năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hòa bình và hợp tác trong khu vực
phát triển mạnh, sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, quá
trình hợp tác phát triển kinh tế của khu vực cũng đang gặp những khó khăn
trở ngại. Đó là, sự chênh lệch về trình độ và tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa
các nền kinh tế trong khu vực; xuất hiện những nhân tố mới có thể gây mất ổn
định ở khu vực, trong đó có nhân tố xuất phát từ sự tranh giành lợi ích kinh tế,
ảnh hưởng chính trị giữa một số nước lớn.
B sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn ở khu vực đã và đang
có những tác động sâu sắc, đa chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực đến Việt Nam và
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Sự điều chỉnh chiến lược của nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương làm gia tăng vai trò, vị thế chính trị của Việt Nam trong khu vực và
trên thế giới. Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn không ngoài mục
đích xác lập vị thế “vượt trội” và “tiếng nói” quyết định của họ đối với khu
vực. Trong sự tác động của điều chỉnh, cạnh tranh đa chiều đó, vị thế của Việt
Nam trên “bàn cờ chính trị” khu vực đang từng bước được nâng cao, là nhân
tố mà các nước lớn, trong đó có Trung Quốc không thể không tính đến trong
chiến lược, chính sách của mình. Với vị trí địa chính trị, địa kinh tế chiến lược
quan trọng, lại nằm trên các trục giao thông đường biển, đường bộ, đường
hàng không huyết mạch của khu vực và quốc tế, là “cửa ngõ” để vươn ra các
đại dương và để tiến vào lục địa,... Việt Nam vừa giữ vị trí trung tâm của các
hoạt động kinh tế - thương mại, vừa nắm vị trí then chốt trong phòng thủ ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Việt
86
Nam còn là “cầu nối” giữa các nước, là đầu mối quan trọng của các hợp tác
và liên kết trong khu vực.
Bên cạnh những tác động tích cực, sự điều chỉnh chiến lược của các
nước lớn trong khu vực cũng có ữ ộ V N
V N - Q Cụ thể là:
Sự điều chỉnh chiến lược của nước lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương đang làm phức tạp hóa và gây khó khăn cho Việt Nam trong quan hệ
quốc tế. Khi tiến hành điều chỉnh chiến lược, các nước lớn sẽ tăng cường lôi
kéo, chế ngự nước khác, gia tăng vùng ảnh hưởng. Cùng với quá trình đó,
xuất hiện sự “trỗi dậy” của các cường quốc mới nổi trong khu vực. Vấn đề
này sẽ gây ra nhiều hệ lụy đối với những quốc gia nhỏ yếu hơn ở xung quanh
là điều khó tránh khỏi. Việc nước lớn có tham vọng kiểm soát không gian địa
- chính trị trong khu vực sẽ tạo ra những thách thức mới trong mở rộng quan
hệ đối ngoại của các nước nhỏ. Điều này càng làm tăng thêm sự phức tạp
cũng như tính nhạy cảm trong quan hệ ứng xử của các nước nhỏ, trong đó có
Việt Nam đối với các nước lớn. Để thích ứng, mở rộng, củng cố và ổn định
quan hệ; “điều hòa lợi ích” với các nước, phát huy được sức mạnh tổng hợp
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là một thách thức lớn trực tiếp
đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương có thể đẩy các nước nhỏ vào thế bị xâm phạm lợi ích, đồng thời
làm xuất hiện loại hình “chiến tranh ủy nhiệm”. Trong cục diện khu vực có sự
điều chỉnh, cạnh tranh chiến lược gay gắt giữa các nước lớn, nước nhỏ luôn
phải cảnh giác với chính sách thỏa hiệp, “đi đêm” của các nước lớn sẽ gây
phương hại đến lợi ích quốc gia, nhất là phương hại đến độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Việt Nam luôn là trọng điểm, chịu sự tác động
nhiều nhất của quá trình này.
Trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, vai trò của các nước
ASEAN ngày càng quan trọng. Các nước ASEAN đã và đang bước vào thời
87
kỳ hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN và xây dựng Cộng đồng dựa trên
ba trụ cột: Chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội; hợp tác với các đối
tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu. Ðây được coi là một dấu mốc quan
trọng trong quá trình hợp tác và phát triển của các nước ASEAN nói chung và
Việt Nam nói riêng, Vì vậy, ASEAN ngày càng có vị trí quan trọng trong
chiến lược gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc. Đồng thời, là diễn đàn đa
phương quan trọng trong nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam, thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, tự lực tự cường.
ạ : Cục diện thế giới trong thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ
XXI vẫn tiếp tục có nhiều biến động phức tạp, diễn biến khó lường. Cuộc
chạy đua về khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hóa, sự “xoay trục”, điều
chỉnh chiến lược của các nước lớn, sự dịch chuyển tương quan sức mạnh toàn
cầu. Xu thế dân chủ hóa đời sống quốc tế, sự hợp tác ngày càng có hiệu quả của
các tổ chức khu vực và liên khu vực,... đã mở ra kỷ nguyên đa phương trong
hoạt động đối ngoại, tác động sâu sắc đến quan hệ song phương Việt Nam -
Trung Quốc. Đồng thời, tạo ra những thách thức đòi hỏi hai nước phải có những
điều chỉnh cho phù hợp với xu thế phát triển của quốc tế và khu vực.
3.1.2. Đường lối đối ngoại của Trung Quốc
Sau hơn 40 năm cải cách mở cửa, Trung Quốc đã vươn lên thành nền
kinh tế lớn thứ hai trên thế giới vào năm 2010. Với thành quả phát triển kinh
tế - xã hội sau cải cách, mở cửa, thế hệ lãnh đạo thứ 5 của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc (được bầu sau Đại hội XVIII của Đảng Cộng Sản Trung Quốc)
đã đề ra khẩu hiệu mới là “Giấc mơ Trung Quốc”, “phục hưng dân tộc Trung
Hoa vĩ đại”. Mục tiêu xuyên suốt là kỳ vọng đưa Trung Quốc trở thành cường
quốc hàng đầu thế giới, tham vọng vẽ lại bản đồ kinh tế, chính trị thế giới.
Nhằm thực hiện mục tiêu này, Trung Quốc đã tiến hành điều chỉnh chiến lược
theo một số nội dung quan trọng, cụ thể:
Trên lĩnh vực ngoại giao, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã điều chỉnh
chiến lược ngoại giao, nâng ngoại giao láng giềng lên thành ưu tiên số một,
88
hình thành nền “ngoại giao nước lớn đặc sắc Trung Quốc”, thiết lập quan hệ
nước lớn kiểu mới, thúc đẩy tiến trình thiết lập “trục riêng” tại Châu Á. Trung
Quốc ngày càng thể hiện vai trò nước lớn; từ bỏ phương châm “giấu mình chờ
thời” do Đặng Tiểu Bình đề ra; từng bước chuyển từ “thế thủ” sang “thế
công” về đối ngoại, tích cực hơn trong các công việc quốc tế, chủ động hơn
trong việc tranh giành và mở rộng ảnh hưởng về kinh tế, ngoại giao trên phạm
vi toàn cầu và khu vực; gắn chính sách “ngoại giao láng giềng” với “ngoại
giao nước lớn”, “ngoại giao năng lượng” và “chiến lược biển”, Điểm đáng
chú ý đó là, Trung Quốc đã chú trọng điều chỉnh chiến lược ngoại giao gắn
với kinh tế. Mặc dù chiến lược này được thực hiện bằng “phương thức mềm
và linh hoạt”, nhưng cũng có tác động làm thay đổi tương quan lực lượng trên
phạm vi thế giới và khu vực, đặt các định chế kinh tế quốc tế và khu vực
trước những thách thức mới, buộc phải sửa đổi hay bổ sung.
Những động thái điều chỉnh chiến lược ngoại giao gắn với chuyển đổi
phương thức phát triển kinh tế trên đây của Trung Quốc đã, đang và sẽ có tác
động cả tích cực lẫn tiêu cực đến Việt Nam và quan hệ song phương Việt
Nam - Trung Quốc. Việt Nam là quốc gia láng giềng với Trung Quốc, việc
Trung Quốc điều chỉnh chiến lược ngoại giao, chuyển đổi phương thức phát
triển kinh tế sẽ ít nhiều, trực tiếp, gián tiếp đã, đang và sẽ có một số tác động
cả tích cực và tiêu cực đến quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, cụ thể:
Mộ về tác động tích cực đến Việt Nam và quan hệ Việt Nam -
Trung Quốc.
Việc Trung Quốc điều chỉnh chính sách kinh tế, nhất là đẩy mạnh quốc
tế hóa đồng Nhân dân tệ và hiện tại đồng Nhân dân tệ đã được đưa vào rổ tiền
tệ với quyền rút vốn đặc biệt của IMF, đã làm gia tăng khả năng đồng Nhân
dân tệ chịu thêm nhiều sức ép quốc tế “phải giữ ổn định” tuân theo các quy
định quốc tế chặt chẽ về tiền tệ. Một trong những tác động tích cực của việc
đồng Nhân dân tệ trở thành đồng tiền thanh toán quốc tế đến nền kinh tế Việt
Nam, đó là Việt Nam có thể sử dụng đồng Nhân dân tệ như một ngoại tệ để
89
thanh toán thương mại với Trung Quốc, đa dạng hóa ngoại tệ thanh toán,
giảm sự tập trung vào USD, giảm sức ép lên nhu cầu sử dụng USD và giảm
chi phí chuyển đổi ngoại tệ.
Việc chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế giúp cải thiện thu nhập
của người dân nói chung và của tầng lớp trung lưu nói riêng ở Trung Quốc.
Mặc dù, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người của Trung Quốc có
giảm tốc nhưng giá trị tuyệt đối của nó lại có xu hướng tăng, qua đó góp phần
thúc đẩy nhu cầu du lịch của một bộ phận không nhỏ người dân Trung Quốc
trong việc hướng đến các chuyến đi du lịch nước ngoài gần với Trung Quốc
như Việt Nam, nhằm tiết kiệm chi phí.
Trong bối cảnh Trung Quốc đẩy mạnh thực thi Chiến lược “Một Vành
Đai, Một Con Đường”, cho dù hiện nay chưa thấy rõ những tác động đối với
Việt Nam, nhưng về mặt tích cực có thể diễn ra theo chiều hướng: Trung
Quốc sẽ tăng cường đầu tư vào xây dựng hạ tầng tại Việt Nam, tiếp tục mở
rộng kết nối thương mại với Việt Nam, thúc đẩy xây dựng khu hợp tác qua
biên giới, đẩy mạnh hợp tác tài chính tiền tệ, tiến tới ký hiệp định hoán đổi
tiền tệ song phương với Trung Quốc,
Hai là, về tác động tiêu cực đến Việt Nam và quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc.
Việc chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc sẽ dẫn
đến xu hướng điều chỉnh mạnh kết cấu kinh tế và nâng cấp ngành nghề để
dịch chuyển các ngành và sản phẩm sử dụng các công nghệ thấp và gây ô
nhiễm môi trường sang các nước khác. Việc điều chỉnh cơ cấu, giảm sản xuất
các ngành công nghiệp nặng như sắt, thép, xi măng có thể sẽ khiến cho Trung
Quốc giảm nhập khẩu các nguyên liệu và khoáng sản từ các nước ASEAN,
trong đó có Việt Nam trong ngắn hạn. Một số ngành kinh tế của Việt Nam
phải cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc, đặc biệt các lĩnh vực mà công suất
sản xuất ở Trung Quốc bị dư thừa lớn sau giai đoạn tăng trưởng nóng đang
gặp phải những thách thức lớn không chỉ trong ngắn hạn. Chính vì vậy, hàng
90
hóa dư thừa, công nghệ lạc hậu từ Trung Quốc chuyển sang các nước tiếp
nhận đầu tư của Trung Quốc và có thể kìm hãm sự phát triển của các quốc gia
này. Điều này càng làm tăng thêm những thách thức mà Việt Nam đang phải
đối mặt liên quan đến sự hiện diện của một nền kinh tế đa tốc độ, với khu vực
đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, khu vực trong nước có nguy cơ tiếp tục
trì trệ và rơi vào “bẫy gia công lắp ráp”, cũng như là “nguy cơ” trở thành bãi
rác thải công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm môi trường.
3.1.3. Đường lối đối ngoại của Việt Nam
Những năm đầu của thế kỷ XXI, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc
từ 1991 đến 2000 đã có nhiều chuyển biến tích cực và phát triển nhanh chóng
trên nhiều lĩnh vực. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt Nam (4/2001) tiếp tục “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập
tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”85. Đại hội đã có những chuyển biến
tích cực hơn trong công tác đối ngoại, đưa Việt Nam chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời với việc thúc đẩy sâu sắc trong quan hệ với các Đảng
Cộng sản anh em, các nền kinh tế lớn, các nước trong khu vực, các nước có
chung đường biên giớiđiều này thể hiện rõ sự chú trọng quan hệ đối ngoại
với Trung Quốc.
Đại hội XII (1/2016) xác định mục tiêu và nhiệm vụ của đối ngoại: mục
tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa
dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định,
tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời
85
Văn kiện Đảng p, tập 60, tr 146
91
sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự
nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”86
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1/2021) trong quan điểm
chỉ đạo khẳng định: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế,
bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”87. Lợi ích quốc gia - dân tộc đã, đang và sẽ
tiếp tục là kim chỉ nam, tiêu chí cao nhất trong triển khai hoạt động đối ngoại.
Tiếp tục đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả, không ngừng nâng cao uy tín và vị thế trên
trường quốc tế.
N tình hình thế giới và khu vực, nhất là những điều chỉnh chiến
lược của các nước lớn, đặc biệt là điều chỉnh chính sách đối ngoại của Trung
Quốc và Việt Nam đã và đang tác động sâu sắc đến quan hệ Việt Nam -
Trung Quốc theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Bằng đường lối
đúng đắn “hợp tác chiến lược toàn diện” của hai Đảng, hai Nhà nước, quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc có những bước phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh
vực. Tuy nhiên, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc còn tồn tại một số hạn chế,
bất cập cần tiếp tục phải giải quyết sao cho phù hợp với xu thế phát triển
chung của nhân loại và truyền thống quan hệ lâu đời giữa hai nước.
3.2. Thực trạng quan hệ đối ngoại Việt Nam – Trung Quốc từ 1991
đến nay theo tƣ tƣởng đối ngoại Hồ Chí Minh
3.2.1. Thành tựu trên các lĩnh vực
Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những quan điểm, tư tưởng Chủ
tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu, nguyên tắc, phương pháp đối ngoại vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng trong quan hệ đối ngoại với các quốc gia trên thế giới, trong đó nổi
86
Đảng Cộng sản Việt Nam: Vă Đạ ộ ạ b ể XII, Nxb Chính trị Quốc
gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.34-35
87
Đảng Cộng sản Việt Nam, Vă ĐHĐB XIII Nxb Chính trị Quốc gia Sự
thật, HN 2021, Tập 2, tr 324
92
bật là trong quan hệ đối ngoại với Trung Quốc. Việt Nam - Trung Quốc có
mối quan hệ truyền thống lâu đời, được nhiều thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai
nước dày công xây dựng và củng cố. Đặc biệt, trong thời gian qua, với sự nỗ
lực của Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước, quan hệ đối tác hợp tác chiến
lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc duy trì đà phát triển tích cực, đạt được
những thành quả đáng khích lệ. hai nước đã không ngừng củng cố, phát triển
quan hệ chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hóa, quốc phòng, an ninh. Những
thành tựu đó được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau:
3 2 1 1 G ữ ữ ụ ổ p ể
ớ Q
Trong quan hệ chính trị với Trung Quốc, chúng ta đã thực hiện tốt việc
quán triệt mục tiêu, nguyên tắc và phương pháp đối ngoại Hồ Chí Minh, giữ
vững được sự ổn định về chính trị, hợp tá