Trong những thập niên gần đây, nhất là từ khi tổ chức, bộ máy, ngành
TĐKT trong cả nước được củng cố, kiện toàn, hoạt động của đội ngũ
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT hiệu quả hơn. Đội ngũ cán bộ này, đã
có những bước tiến bộ nhất định, thể hiện năng lực lãnh đạo, quản lý và khả
năng tham mưu về công tác TĐKT trong điều kiện hiện nay. Nhiều cán bộ đã
thích ứng với cơ chế mới, năng động, sáng tạo, lăn lộn với phong trào thi đua
ở cơ sở, địa phương; có trách nhiệm trong công việc; luôn tìm tòi, phát hiện
những cái mới, nắm bắt những vấn đề bức xúc nảy sinh từ thực tiễn công tác
TĐKT; nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của nhân dân để tham mưu cho
Đảng, Nhà nước và cấp uỷ địa phương ban hành những chủ trương, giải pháp
đúng đắn về công tác TĐKT, trực tiếp phổ biến, hướng dẫn, tổ chức thực hiệncó hiệu quả.
Qua khảo sát cho thấy, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
ở địa phương, cơ quan trung ương về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của
nhiệm vụ phát triển ngành TĐKT. Nhiều cán bộ có trình độ chuyên môn khá,
được thử thách qua thực tiễn đã thể hiện rõ năng lực lãnh đạo, quản lý, có khả
năng tiếp thu và vận dụng kiến thức đã học và đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước vào việc tham mưu về công tác TĐKT đạt kết quả. CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT trong các Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà
nước đã phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm góp phần
xây dựng củng cố các doanh nghiệp làm ăn ngày càng có hiệu quả, đóng góp
tích cực vào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của các địa phương, khẳng định vai trò, tác dụng của công tác TĐKT trong
doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay.
207 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 570 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t Cán bộ, công chức; Quyết định
số 83/2004/QĐ-BNV ngày 17/11/2004 của Bộ Nội vụ về ban hành tiêu chuẩn
Vụ trưởng thuộc Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc Chính phủ.
Ban TĐKT Trung ương đã tập trung chỉ đạo, triển khai xây dựng tiêu
chuẩn cán bộ, công chức của Ban, tập trung hơn vào xây dựng tiêu chuẩn cán
bộ từ phó trưởng phòng và tương đương trở lên. Trong đó, nhấn mạnh chức
năng tham mưu, đề xuất, năng lực tổ chức, hướng dẫn các phong trào thi đua
và thẩm định hồ sơ khen thưởng.
Để thực hiện có kết quả công việc này, cùng với việc quán triệt tiêu
chuẩn cán bộ lãnh đạo đảng, nhà nước, đoàn thể nhân dân do Đảng đề ra, Ban
TĐKT Trung ương đã đặc biệt coi trọng nhiệm vụ của ngành TĐKT trong
giai đoạn hiện nay và chức năng, nhiệm vụ của Ban, quan tâm đến thực trạng
đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác TĐKT, tham khảo tiêu chuẩn CBLĐQL
của các ban, ngành khác để xây dựng tiêu chuẩn CBLĐQL công tác TĐKT
của Ban. Tiêu chuẩn cán bộ, gồm:
Tiêu chuẩn chung:
Có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối
trung thành với Đảng, với nhân dân và sự nghiệp xây dựng CNXH; kiên
quyết trong đấu tranh với những quan điểm sai trái, lệch lạc và những âm
mưu thủ đoạn xuyên tạc, phá hoại của các thế lực thù địch về đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo vệ đường lối, chủ
trương, chính sách ấy, nhất là trên lĩnh vực TĐKT.
92
Có trình độ lý luận chính trị, kiến thức về luật pháp, quản lý nhà nước,
và các tri thức chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; giỏi về chuyên môn, nghiệp
vụ, nhất là về chỉ đạo, tổ chức các phong trào thi đua, hướng dẫn công tác
khen thưởng, thẩm định hồ sơ khen thưởng theo chức trách, quyền hạn và
nhiệm vụ được giao.
Có đạo đức cách mạng trong sáng, gương mẫu về đạo đức, lối sống, sống
trung thực, giản dị, không tham ô, lãng phí, không nhũng nhiễu cửa quyền,
quan liêu, độc đoán trong công tác TĐKT, không lợi dụng uy tín và vị trí công
tác để mưu cầu lợi ích cá nhân, phải lấy lợi ích của dân, của ngành TĐKT làm
mục tiêu phấn đấu của bản thân. Biết điều chỉnh hoạt động và hành vi của mình
cho phù hợp với lợi ích chung của xã hội, của Ban và ngành TĐKT.
Gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và quy định ở nơi cư trú; quan hệ mật thiết với nhân
dân và gương mẫu về đạo đức, lối sống ở nơi cư trú.
Tiêu chuẩn một số chức danh CBLĐQL ở Ban TĐKT Trung ương:
Đối với các chức danh Phó Vụ trưởng và tương đương, Chánh Văn
phòng, Phó Chánh Văn phòng; Chánh, Phó Chánh Thanh tra Ban; Tổng Biên
tập, Phó Tổng biên tập tạp chí TĐKT; Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm
Tin học; Giám đốc, Phó Giám đốc Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
TĐKT Trung ương: Ngoài tiêu chuẩn chung nêu trên, tiêu chuẩn của các chức
danh cán bộ này được xây dựng, đã nhấn mạnh về năng lực tham mưu; tổ
chức và tổng kết thực tiễn; nghiên cứu và xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật...; khả năng quy tụ đoàn kết đội ngũ cán bộ, công chức của đơn vị;
hiểu biết sâu nghiệp vụ quản lý Nhà nước về công tác TĐKT; có kinh nghiệm
công tác TĐKT...
Đối với Trưởng, Phó phòng trực thuộc các Vụ, đơn vị thuộc Ban TĐKT
Trung ương: Ngoài tiêu chuẩn chung nêu trên, tiêu chuẩn của các chức danh
93
cán bộ này, được xây dựng, đã nhấn mạnh về năng lực quản lý, điều hành
công việc thuộc một bộ phận trong đơn vị và chuyên sâu về công việc của bộ
phận đó...
Ban TĐKT Trung ương đã phổ biến cho các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và tương đương để tham khảo và hướng dẫn xây dựng tiêu chuẩn
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của tỉnh, thành phố trực thuộc tỉnh.
Đến nay phần lớn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương
đã có tiêu chuẩn chung của những cán bộ này.
Một số Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ở Trung ương, một
số tập đoàn kinh tế, tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước đã xác định
những điểm chủ yếu của tiêu chuẩn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
để thành lập các cơ quan chuyên trách về công tác TĐKT của mình.
* Về tạo nguồn và xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT
Sau khi được thành lập lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương đã quan tâm
chỉ đạo tiến hành ngay việc xây dựng quy hoạch CBLĐQL các vụ, phòng cho
nhiệm kỳ tiếp theo. Đồng thời, tiến hành các hoạt động tạo nguồn để chuẩn bị
đưa cán bộ vào quy hoạch dài hạn từ hai nhiệm kỳ trở lên, khắc phục tình
trạng hụt hẫng CBLĐQL. Là Ban mới được thành lập, cán bộ được điều động
từ nhiều nơi, cấp uỷ và lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương đã xác định việc xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực, trong đó xây dựng đội ngũ CBLĐQL các
đơn vị trong Ban là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, và đã tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo tiến hành công việc này. Ban đã xây dựng và triển khai thực hiện
Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Ban đến năm 2015 và chuẩn bị các
điều kiện để tạo bước chuyển biến căn bản về nguồn nhân lực đến năm 2020.
Đảng uỷ và Lãnh đạo Ban đã tập trung chỉ đạo xây dựng quy hoạch, cán
bộ lãnh đạo, quản lý các đơn vị. Trước hết, tập trung chỉ đạo rà soát đội ngũ
cán bộ, công chức để phát hiện và lựa chọn cán bộ đưa vào quy hoạch.
94
Quy trình giới thiệu quy hoạch cán bộ dự bị cho các chức danh lãnh
đạo cấp Vụ, phòng, các đơn vị trực thuộc Ban được các đơn vị thực hiện khá
tốt. Công tác quy hoạch CBLĐQL đã gắn với các khâu khác của công tác cán
bộ, được tiến hành theo đúng hường dẫn của cấp trên, đảm bảo dân chủ, công
khai, đúng thủ tục, quy trình và đảm bảo phương châm “động” và “mở”. Hiện
tại đối với 11 chức danh cán bộ diện lãnh đạo Ban quản lý (Vụ trưởng, Phó
Vụ trưởng và tương đương; Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ Ban, Uỷ viên Ban
Chấp hành đảng bộ Ban; Chủ tịch Công đoàn, Bí thư Đoàn Thanh niên Ban,
Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng thuộc Ban TĐKT Trung ương) đều có hai
hoặc ba cán bộ được đưa vào quy hoạch. Hiện tại, đã có 25 đồng chí được đưa
vào quy hoạch các chức danh cán bộ nêu trên, trong đó có một số cán bộ
thuộc các ban ngành, đoàn thể ở Trung ương và một số tỉnh, thành phố ở ba
miền Bắc, Trung, Nam; một số cán bộ của Ban được quy hoạch cho hai hoặc
ba chức danh CBLĐQL các đơn vị của Ban[10, tr.9].
Đảng uỷ và Lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương đã quan tâm việc tạo
nguồn dài hạn để chuẩn bị nhân sự đưa vào quy hoạch CBLĐQL các đơn vị
của Ban từ hai đến ba nhiệm kỳ. Đảng uỷ và Lãnh đạo Ban đã đề ra chủ
trương tuyển dụng công chức trẻ tuổi tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng
trong cả nước, đủ tiêu chuẩn công chức ngành TĐKT, có nguyện vọng công
tác trong ngành, trước hết ưu tiên con, em cán bộ trong ngành. Đồng thời,
chọn và tiếp nhận một số cán bộ trẻ có năng lực, phẩm chất đạo đức đang
công tác ở các cơ quan, đơn vị khác về làm việc tại Ban TĐKT Trung ương
và giáo dục, rèn luyện họ về năng lực trình độ, nghiệp vụ công tác TĐKT để
đưa vào quy hoạch dài hạn. Đến nay, đã có 11 cán bộ công chức được tuyển
dụng và tiếp nhận theo chủ trương này[10, tr. 14].
Phần lớn tỉnh, thành phố đã xây dựng quy hoạch CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT của mình cho nhiệm kỳ trước mắt, nhiều tỉnh, thành phố
đã chú ý chuẩn bị nguồn để xây dựng dài hạn, số lượng và chất lượng nguồn
95
khá dồi dào, điển hình là Thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Cần
Thơ, Đà Nẵng. Các tỉnh, thành phố này, đã chủ động xin cấp trên và Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh mở các lớp đào tạo thạc sĩ các
chuyên ngành Mác-Lênin, xây dựng Đảng, luật, quản lý kinh tế, khoa học xã
hội - nhân văn và một số chuyên ngành khác, tạo nguồn cán bộ dồi dào.
Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh còn đăng ký và mở các lớp đại
học chính trị văn bằng 2 về các chuyên ngành như : công tác tổ chức, cán bộ,
công tác kiểm tra, giám sát...để tạo nguồn cán bộ dài hạn để đưa vào quy
hoạch CBLĐQL của mình và quy hoạch CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT các cấp của các thành phố đó. Một số tỉnh như: Đồng Nai, Bình
Dương, Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc đã phối hợp
mở các lớp học theo phương thức nêu trên để tạo nguồn để xây dựng quy
hoạch cán bộ.
* Về đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT
Đảng uỷ, Lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương, các tỉnh, thành uỷ, cấp uỷ
và Lãnh đạo các bộ ngành, đoàn thể, các tổng công ty... đã tích cực chủ động
thực hiện công việc này. Lãnh đạo các cơ quan này, đã triển khai quán triệt
Quy định của Bộ Chính trị số 54-QĐ/TW, ngày 12 tháng 5 năm 1999 về “Chế
độ học tập lý luận chính trị trong Đảng” và Nghị định số 18/2010/NĐ- CP
ngày 05/3/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL ở trong nước
và ngoài nước; Quyết định số 164-QĐ/TW, ngày 01/02/2013 của Bộ Chính
trị về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho CBLĐQL các cấp... và triển
khai thực hiện các Quy định, Nghị định, quyết định này trong đơn vị, nhất là
đối với CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong quy hoạch và cán bộ dự
nguồn. Nhờ đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT trong cả nước đã đi vào trọng tâm hơn và có chuyển biến tích cực.
96
Những CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức nhưng
chưa đạt chuẩn, được cấp uỷ cử đi học các lớp tại chức về lý luận chính trị
cao cấp và quản lý nhà nước. Từ năm 2008 đến nay, toàn ngành TĐKT đã
có 35 cán bộ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT được cử đi học lý luận
chính trị cao cấp tập trung và tại chức theo quy định. Trong đó, ở Ban TĐKT
Trung ương có 12 cán bộ, 23 cán bộ ở các tỉnh, thành phố, bộ, ngành, đoàn
thể trung ương. Từ năm 2012 đến nay đã có 25 lượt cán bộ được cử đi
nghiên cứu, khảo sát, đào tạo, bồi dưỡng ngắn ngày ở các nước như Pháp,
Trung Quốc, Thái Lan theo các chương trình 165 của Ban Tổ chức Trung
ương, ADB của Bộ Nội vụ và Ban TĐKT Trung ương về những vấn đề liên
quan đến chuyên môn, nghiệp vụ. Những cán bộ tham gia các chương trình
này, gồm một số cán bộ của Ban TĐKT Trung ương và CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT các địa phương, đơn vị khác[10, tr. 9].
Ban TĐKT Trung ương đã chủ động phối hợp với Ban tổ chức Trung
ương, Bộ Nội vụ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, để
cử cán bộ tham dự các khoá đào tạo cao học, cử nhân, cao cấp lý luận chính
trị, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước. Từ khi xây
dựng quy hoạch CBLĐQL của Ban đến nay, đã có 10 cán bộ trong quy hoạch
cán bộ cấp vụ, cấp phòng được cử đi học lý luận chính trị cao cấp tại Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, giai đoạn 2012-2015; 14
cán bộ hoàn thành chương trình bồi dưỡng quản lý nhà nước; 10 cán bộ được
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh dành cho đối tượng 2; 3 cán bộ
được đi học cao học và nghiên cứu sinh[10. tr. 9].
Ban TĐKT Trung ương đã thành lập Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ TĐKT và đi vào hoạt động, góp phần quan trọng vào chuyển biến
công tác đào tạo, bồi dưỡng, nhất là công tác bồi dưỡng cán bộ làm công tác
TĐKT nói chung và CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng. Hằng
năm, Trung tâm đã mở đều đặn 3 - 4 lớp bồi dưỡng cán bộ ngành TĐKT. Nội
97
dung bồi dưỡng gồm: kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ ; chính sách mới về
công tác thi đua, khen thưởng của Đảng, Nhà nước; trao đổi kinh nghiệm về
công tác TĐKT; đã quan tâm đến việc xử lý các tình huống trong công tác
TĐKT... Từ ngày thành lập (năm 2004) đến nay, Ban và Trung tâm đã mở 14
lớp bồi dưỡng cán bộ của Ngành với hàng nghìn cán bộ[71, tr. 15].
Một số tỉnh, thành uỷ, bộ, ban, ngành, đoàn thể nhân dân ở Trung
ương và một số tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước đã chú ý luân chuyển
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT trong phạm vi địa phương, đơn vị,
nhất là cán bộ trong quy hoạch và đặt trong tổng thể kế hoạch luân chuyển
CBLĐQL của địa phương.
* Về đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và
cán bộ trong quy hoạch
Đảng ủy và Lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương, các tỉnh, thành uỷ...đã
tiến hành quán triệt các văn bản của Đảng về đánh giá cán bộ, nhất là Quyết
định số 50-QĐ/TW ngày 03-5-1999 của Bộ Chính trị về ban hành Quy chế
đánh giá cán bộ; Hướng dẫn số 11-HD/TCTW ngày 30-10-2002 của Ban Tổ
chức Trung ương về thực hiện Quy chế đánh giá cán bộ; Quyết định số 286-
QĐ/TW ngày 08-02-2010 của Bộ Chính trị về ban hành Quy chế đánh giá cán
bộ, công chức. Đồng thời, hướng dẫn cấp ủy ở cơ quan, tổ chức chuyên trách
công tác TĐKT thực hiện.
Tiêu chí đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đã được
Lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương xác định rõ hơn, gồm: tiêu chuẩn chức danh
cán bộ đã được xây dựng; uy tín của cán bộ trong đơn vị; kết quả hoàn thành
nhiệm vụ được giao. Trong đó, kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao của
cán bộ, được coi là tiêu chí quan trọng nhất. Đảng uỷ và Lãnh đạo Ban đã chỉ
đạo và duy trì thành nền nếp việc tổ chức lấy ý kiến góp ý của các đoàn thể
nhân dân trong đơn vị về từng CBLĐQL và lãnh đạo, chỉ đạo việc đánh giá
98
cán bộ theo định kỳ hàng năm. Đồng thời, công khai những ý kiến nhận xét
đánh giá cho từng cán bộ, kể cả những ý kiến góp ý của các đoàn thể và cán
bộ, công chức. Trong đánh giá cán bộ diện quy hoạch CBLĐQL được Đảng
uỷ và Lãnh đạo Ban chỉ đạo coi trọng đánh giá về xu hướng phát triển; tiến
hành các thủ tục bổ sung vào quy hoạch và đưa ra khỏi quy hoạch những cán
bộ không đáp ứng yêu cầu.
Các cấp uỷ tỉnh, thành phố và tương đương đã tiến hành đánh giá
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cấp tỉnh, thành phố và cán bộ trong
quy hoạch trong các đợt đánh giá CBLĐQL thuộc ban thường vụ cấp uỷ quản
lý. Nhiều cấp uỷ đã chú ý hơn đến việc chỉ đạo đánh giá CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT cấp tỉnh cả cán bộ đương chức và cán bộ trong quy
hoạch và duy trì thành nền nếp việc đánh giá những cán bộ này. Đồng thời,
lãnh đạo, chỉ đạo cấp uỷ trong các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT đánh
giá những cán bộ cấp phòng, ban và cán bộ trong quy hoạch. Thành phố Hà
Nội, thành Phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần Thơ. Các tỉnh: Thanh Hoá, Nam
Định, Ninh Bình, Quảng Ninh, Vĩnh Long, An Giang... đã thực hiện khá tốt
công việc này với những cách làm đem lại hiệu quả như: trước khi cấp uỷ có
thẩm quyền kết luận về đánh giá CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT cấp
uỷ đã chỉ đạo lấy ý kiến không chỉ của các đoàn thể nhân dân, cán bộ, công
chức trong đơn vị, mà còn lấy ý kiến của các đoàn thể và cơ quan, đơn vị có
nhiều quan hệ với cán bộ đó trong công tác TĐKT.
* Về quản lý và thực hiện chính sách đối với CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT
Các cấp uỷ ở các bộ, ban ngành, đoàn thể Trung uơng, nhiều tỉnh, thành
uỷ đã coi trọng việc xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên
trách công tác TĐKT của địa phương, đơn vị làm cơ sở chủ yếu để bố trí, sử
dụng cán bộ. Đặc biệt, Ban TĐKT Trung ương đã tập trung xác định rõ, cụ
thể chức năng, nhiệm vụ của các vụ, đơn vị và các phòng trực thuộc các vụ,
99
đơn vị thuộc Ban và sáp nhập các đơn vị một cách phù hợp để tinh gọn tổ chức
bộ máy, biên chế. Qua đó, đề cao tính chủ động và sự năng động, sáng tạo
trong công việc của các đơn vị thuộc Cơ quan Đại diện Ban TĐKT Trung ương
ở phía Nam có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ đã khách quan hơn, thận trọng và đảm bảo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Tình trạng bố trí, sử dụng CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT chỉ chủ yếu xem xét về lý lịch cán bộ, nhận xét của cơ
quan cũ hoặc phản ánh của một vài đồng chí có trách nhiệm hoặc dư luận ở
Ban TĐKT Trung ương và nhiều nơi khác trước đây đã giảm hẳn, ở nhiều nơi
tình trạng này đã chấm dứt.
Các cấp uỷ đã tiến hành các thủ tục, quy trình bố trí cán bộ vào vị trí
công tác trong thời điểm thích hợp. Từ sau khi thành lập Ban TĐKT Trung
ương, ở các địa phương, bộ, ban, ngành đoàn thể ở Trung ương và các Tổng
công ty, Tập đoàn kinh tế nhà nước, cơ quan chuyên trách công tác TĐKT
được củng cố, kiện toàn, chức năng, nhiệm vụ được xác định cụ thể, rõ ràng
hơn. Nhờ đó, việc bố trí, sử dụng cán bộ thuận lợi hơn.
Các cấp uỷ tỉnh, thành phố và tương đương cũng như các cấp uỷ trong
các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT, Đảng uỷ, Lãnh đạo Ban TĐKT
Trung ương đã quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Quyết định số 49 -
QĐ/TW của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ; Hướng dẫn số
11/TCTW của Ban Tổ chức Trung ương hướng dẫn thực hiện về phân cấp
quản lý cán bộ; đã xác định rõ những chức danh cán bộ thuộc ban thường vụ
cấp uỷ các cấp quản lý. Các cấp uỷ đã chỉ đạo và tiến hành quản lý CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT theo phân cấp đã được xác định.
Nội dung, phương thức quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT ở nhiều nơi đã có đổi mới, đem lại hiệu quả, như : quản lý toàn diện về
phẩm chất chính trị, quá trình và trình độ được đào tạo, bồi dưỡng; quản lý về
100
năng lực và quá trình thực thi nhiệm vụ; quản lý về quan hệ gia đình, xã hội;
quản lý về sinh hoạt, lối sống... Các cấp uỷ luôn nhấn mạnh việc quản lý về
sinh hoạt, lối sống, vì thực tế đã chỉ ra rằng không ít cán bộ từ sự suy thoái về
phấm chất đạo đức, sinh hoạt và lối sống dẫn đến suy thoái về chính trị.
Phương thức quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của
nhiều cấp uỷ địa phương và cấp uỷ ở một số bộ, ban, cơ quan, đơn vị đã có
cải tiến, như : quản lý thông qua kết quả học tập, rèn luyện và nhất là kết quả
thực hiện nhiệm vụ được giao; quản lý thông qua cán bộ cùng cấp, cán bộ
dưới quyền và cán bộ, công chức thường xuyên quan hệ, làm việc với
CBLĐQL ... Thành Phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Ban TĐKT Trung
ương và nhiều bộ, ngành đã quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT
kết hợp với việc thực hiện Quy định số 76-NQ/TW, ngày 15-6-2000 của Bộ
Chính trị “Về việc đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn
vị sự nghiệp giữ mối quan hệ với chi uỷ, đảng uỷ cơ sở và gương mẫu thực
hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”. Đồng thời, phát huy vai trò của các tổ
chức trong HTCT và nhân dân trong quản lý CBLĐQL chuyên trách công tác
TĐKT; coi trọng quản lý cán bộ trong thẩm định hồ sơ khen thưởng để hạn
chế tiêu cực.
Trên cơ sở những văn bản của Đảng và hướng dẫn của cấp trên các cấp
uỷ và Lãnh đạo Ban TĐKT Trung ương đã chỉ đạo thực hiện tốt chính sách cán
bộ đối với CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Coi trọng thực hiện chính
sách, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng, khen thưởng cán bộ; quan tâm chăm sóc
sức khoẻ, hỗ trợ những CBLĐQKL chuyên trách công tác TĐKT có hoàn cảnh
gia đình khó khăn và gia đình gặp rủi ro... Từ năm 2004 đến nay, toàn ngành
TĐKT đã có 41 cán bộ được nhận huân chương các loại [71, tr. 21].
* Về phát huy vai trò của chính quyền, lãnh đạo đơn vị, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể tham gia xây dựng đội ngũ CBLĐQKL chuyên trách
công tác TĐKT và việc tự học, tự rèn của cán bộ
101
Lãnh dạo Ban TĐKT Trung ương đã trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện các chủ trương, giải pháp của Đảng và của Đảng uỷ Ban về công tác cán
bộ và xây dựng đội ngũ CBLĐQL; giúp đỡ các cấp uỷ, chính quyền, ban lãnh
đạo các tỉnh, thành phố, cơ quan, đơn vị trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT.
Chính quyền tỉnh, thành phố, ban lãnh đạo các cơ quan đơn vị đã xác
định xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa phương,
cơ quan, đơn vị là trách nhiệm của mình. Chính quyền ở nhiều tỉnh, thành phố
và ban lãnh đạo các cơ quan đơn vị đã tích cực, chủ động thực hiện sự chỉ đạo
của cấp uỷ cùng cấp và phối hợp chặt chẽ với các ban tham mưu của cấp uỷ
trong xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Đồng thời, chỉ
đạo các cơ quan tham mưu của mình triển khai các hoạt động xây dựng đội ngũ
CBLĐQL nói chung, đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT nói riêng.
Lãnh đạo các bộ, ban, ngành, đoàn thể và các cơ quan đơn vị đã chú ý
chỉ đạo, kiểm tra các đơn vị trực thuộc về xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên
trách công tác TĐKT của mình và của cấp trên đạt kết quả. Trong đó, coi trọng
việc tham gia xây dựng tiêu chuẩn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT ;
quy hoạch, quản lý cán bộ, giám sát hoạt động của cán bộ, chỉ đạo các cơ quan
thanh tra tiến hành thanh tra những CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT khi
có sai phạm và bị tố cáo...
Các đoàn thể nhân dân ở các cơ quan chuyên trách công tác TĐKT đã
trực tiếp tham gia vào các hoạt động xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách
công tác TĐKT của đơn vị mình bằng các hình thức, phương pháp đem lại hiệu
quả như: bỏ phiếu tín nhiệm quy hoạch CBLĐQL theo quy định về đối tượng
được tham gia bỏ phiếu tín nhiệm; tham gia quản lý cán bộ đương chức và cán
bộ trong quy hoạch; giám sát hoạt động của CBLĐQL đơn vị; góp ý kiến cho
cán bộ theo định kỳ...
102
Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân ở một số tỉnh, thành phố đã
tham gia xây dựng đội ngũ CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa
phương bằng những phương thức đem lại kết quả, như: giám sát cán bộ về
chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
quy định của địa phương và việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống tại nơi cư
trú thông qua đoàn viên, hội viên của mình; qua các cuộc giao ban, làm việc
giữa cán bộ chủ chốt các đoàn thể với cấp uỷ có trách nhiệm quản lý CBLĐQL
chuyên trách công tác TĐKT theo phân cấp quản lý cán bộ ; tiếp nhận những ý
kiến của đoàn viên, hội viên về CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của địa
phương và phản ánh cho cấp uỷ có trách nhiệm quản lý cán bộ...
CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT đương chức và cán bộ trong
quy hoạch đều nhận thức rõ vai trò và sự cần thiết của việc tự học tập, tự rèn
luyện nâng cao trình độ mọi mặt và năng lực công tác trong điều kiện hiện
nay. Nhiều cán bộ đã khắc phục khó khăn, bố trí công việc hợp lý để tự học
tập và rèn luyện bản thân. Một số cán bộ đã chủ động đăng ký học tập tại các
lớp không tập trung để đạt trình độ cử nhân (văn bằng hai) về các chuyên
ngành liên quan trực tiếp đến ngành TĐKT. Những cán bộ trong quy hoạch đã
chủ động đề xuất với cấp uỷ, lãnh đạo đơn vị và bố trí thời gian theo học các
lớp không tập trung để đạt chuẩn về trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ.
Việc tự nguyện theo học các lớp ngoại ngữ, tin học được phần lớn cán bộ,
nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Cần Thơ
và Đà Nẵng thực hiện có kết quả.
Việc tự rèn luyện về năng lực, phương pháp công tác và đạo đức, lối
sống được phần lớn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT coi trọng và tự
giác thực hiện, nhất là những cán bộ trong quy hoạch. Nhiều cán bộ đã bám
sát các phong trào thi đua ở địa phương, đơn vị và ở cơ sở để chỉ đạo, giúp đỡ
tháo gỡ khó khăn duy trì các phong trào thi đua; hướng dẫn về tiến hành các
103
thủ tục, quy trình đề nghị khen thưởng; tham gia vào việc xử lý các tình
huống trong công tác TĐKT; học hỏi, trao đổi kinh nghiệm công tác với
những cán bộ làm công tác TĐKT thế hệ trước; tích cực tham gia hoạt động
của các đoàn thể để nâng cao tri thức một cách toàn diện, tạo thuận lợi để
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Các cấp uỷ, chính quyền tỉnh, thành phố và các cấp uỷ, lãnh đạo đơn vị
có cơ quan chuyên trách công tác TĐKT đã tạo điều kiện thuận lợi kể như ban
hành những quy định về dành thời gian và hỗ trợ kinh phí cho cán bộ tự học
tập nâng cao trình độ mọi mặt, tạo điều kiện thụận lợi để cán bộ tham gia học
tập đạt kết quả.
3.2.1.2. Những hạn chế, yếu kém
* Về cụ thể hóa tiêu chuẩn chức danh CBLĐQL chuyên trách công
tác TĐKT
Hầu hết các tỉnh, thành phố, các bộ, ban ngành, đoàn thể ở Trung ương,
Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế nhà nước chưa thực quan tâm cụ thể hoá tiêu
chuẩn CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT của mình. Bởi vậy, hầu như
chưa có tiêu chuẩn cụ thể về những cán bộ này.
Đối với các tỉnh, thành phố tiêu chuẩn trưởng ban, phó trưởng ban
TĐKT tỉnh, thành phố chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn chung của giám đốc, phó
giám đốc sở và nhấn mạnh thêm về trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác
TĐKT. Tương tự, tiêu chuẩn trưởng phòng, phó trưởng phòng và tương đương
trong ban TĐKT tỉnh, thành phố cũng chưa được xây dựng, mà chủ yếu dựa
vào tiêu chuẩn trưởng phòng, phó trưởng phòng của các sở trong tỉnh, thành
phố và đề cập đến một số điểm về trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác
TĐKT. Đối với cấp huyện không có cơ quan chuyên trách công tác TĐKT, mà
chỉ có cán bộ phụ trách công tác TĐKT, nên không đặt ra việc cụ thể hoá tiêu
chuẩn cán bộ này.
104
Ở các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương, các Tổng công ty và Tập
đoàn kinh tế nhà nước cũng có tình trạng tương tự. Hầu hết các cơ quan, đơn vị
này, chưa có tiêu chuẩn cụ thể về CBLĐQL chuyên trách công tác TĐKT. Tiêu
chuẩn cán bộ này, thường được dựa vào tiêu chuẩn vụ trưởng, phó vụ trưởng,
trưởng phòng, ban, phó trưởng phòng, ban của đơn vị và nhấn mạnh thêm một
số điểm về công tác TĐKT.
Mặc dù Ban TĐKT Trung ương đã xây dựng được tiêu chuẩn CBLĐQL của
Ban, gồm tiêu chuẩn vụ trưởng, phó vụ trưởng và tương đương, tiêu chuẩn trưởng
phòng, phó trưởng phòng và tương đương (cả những cán bộ công tác đảng, đoàn thể),
song vẫn còn dừng lại ở những điểm chung. Tiêu chuẩn chức danh cán bộ của Ban
TĐKT Trung ương chưa được xây dựng, chẳng hạn tiêu chuẩn củ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tv_xay_dung_doi_ngu_can_bo_lanh_dao_quan_ly_chuyen_trach_cong_tac_thi_dua_khen_thuong_o_nuoc_ta_giai.pdf