Luận án Xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Nghệ An

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC. 1

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT. 2

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ. 3

MỞ ĐẦU. 4

Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI

QUÁT VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở NÔNG THÔN TỈNH NGHỆ AN. 11

1.1. Tổng quan nghiên cứu. 11

1.2. Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài luận án. 25

1.3. Khái quát về nông thôn tỉnh Nghệ An . 43

Tiểu kết. 53

Chương 2: HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ Ở NÔNG

THÔN TỈNH NGHỆ AN . 53

2.1. Các chủ thể trong xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh

Nghệ An .53

2.2. Thực trạng hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh

Nghệ An. 57

2.3. Đánh giá thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh

Nghệ An. 106

Tiểu kết. 110

Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ

Ở NÔNG THÔN TỈNH NGHỆ AN. 111

3.1. Những căn cứ và yếu tố tác động để xác định giải pháp nâng cao hiệu

quả xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Nghệ An . 111

3.2. Giải pháp xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Nghệ An trong

thời gian tới . 135

Tiểu kết. 146

KẾT LUẬN . 148

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ . 152

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 153

PHỤ LỤC. 160

pdf246 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 508 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội... đã tác động, ảnh hưởng không tốt đến văn hóa đọc, nên dẫn đến số lượng cấp mới thẻ bạn đọc giảm sút so với những năm trước cụ thể như năm 2013 cấp mới 3.400 thẻ, năm 2015 cấp mới 4.500 thẻ và năm 2019 cấp mới 2.000 thẻ; cũng tương tự với cấp mới thẻ bạn đọc, công tác phục vụ bạn đọc, luân chuyển sách cũng giảm so với những năm trước. Tuy nhiên, kết quả hàng năm, thư viện tỉnh Nghệ An đều đạt được chỉ tiêu 100% kế hoạch đề ra với nhiệm vụ cấp mới thẻ bạn đọc và vượt mức chỉ tiêu kế hoạch do nhà nước đề ra với nhiệm vụ phục vụ lượt bạn đọc, phục vụ lượt sách luân chuyển. Việc cấp thẻ mới cho bạn đọc được triển khai rộng rãi với mọi độ tuổi, nghề nghiệp của người dân góp phần thúc đẩy sự phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân và được thể hiện qua bảng số liệu hoạt động thư viện trong thời gian qua. Bảng 2.2. Số liệu về tình hình hoạt động thư viện của tỉnh Nghệ An TT 2013 2014 2015 2016 2017 2019 Cấp mới thẻ bạn đọc (Thẻ) 3.400 4.500 4.500 2.000 2.000 2.000 Phục vụ bạn đọc (Lượt) 453.000 450.000 500.000 500.000 400.000 400.000 Luân chuyển sách (Lượt) 1.800.000 550.000 600.000 600.000 500.000 500.000 Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Nghệ An, cập nhật năm 2020 Bên cạnh đó, tốc độ phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin 4.0 như hiện nay cũng có tác động, ảnh hưởng tích cực tới hoạt động thư viện tỉnh 80 Nghệ An. Hiện tỉnh Nghệ An đã đưa ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, truyền thông nhằm tạo mũi đột phá, tạo nền tảng quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương, là công cụ chủ lực để xây dựng ĐSVH trong XDNTM. Hệ thống thư viện tỉnh Nghệ An đang từng bước đổi mới phương thức hoạt động theo hướng tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động thư viện. Công việc được triển khai đồng bộ, đặc biệt tỉnh Nghệ An chú trọng đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người trong việc ứng dụng công nghệ thông tin, như: Kéo đường dây cáp quang về tận xã, đưa thiết bị nghe, nhìn về đến hộ dân, đưa internet băng rộng đến trường học và điểm bưu điện văn hóa xã... để người dân được tiếp cận với dịch vụ internet, qua đó tìm hiểu thông tin, để nâng cao ĐSVH tinh thần cho người dân ở nông thôn. Dịch vụ internet là một trong những phương tiện có tác động mạnh mẽ đến xây dựng ĐSVH ở nông thôn, ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân ở nông thôn tỉnh Nghệ An. Ngành Văn hóa và Thể thao các cấp đã mở hàng trăm lớp tập huấn với các chuyên đề về quản lý nhà nước về văn hoá cơ sở, về Phong trào TDĐKXDĐSVH; phát hành tài liệu về Phong trào TDĐKXDĐSVH, phổ biến đến tận cơ sở như: “Nghệ An di tích danh thắng”, “địa chỉ lễ hội”, “địa chỉ làng văn hoá Nghệ An”, cuốn “hương ước Nghệ An”, sách “những điển hình tiên tiến trong Phong trào TDĐKXDĐSVH tỉnh Nghệ An”, “vấn đề gia đình và xây dựng gia đình văn hóa ở Nghệ An”... nhằm đáp ứng nhu cầu nắm bắt thông tin của người dân về hoạt động xây dựng ĐSVH trên đại bàn tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, thời gian qua hoạt động thư viện, dịch vụ internet, đọc sách, báo ở một số địa bàn nông thôn ở các huyện miền núi của tỉnh Nghệ An cũng đang còn một số hạn chế như: Cơ sở vật chất và hạ tầng còn bất cập, đặc biệt là các thư viện huyện, xã không gian chật hẹp; các chương trình phối hợp hoạt động không có kinh phí hoạt động; đầu tư kinh phí, bổ sung sách, báo, tài liệu 81 cho các thư viện huyện, xã ở nông thôn không đáng kể so với nhu cầu thực tế của người dân. Hầu hết, các phòng đọc sách của xã, thôn, làng, bản hầu hết sách, báo, tài liệu đều do thư viện tỉnh xây dựng vốn sách ban đầu và quyên góp; chất lượng hoạt động dịch vụ internet ở một số vùng nông thôn như vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng đang còn thấp. * Tổ chức hoạt động điện ảnh Nhờ chính sách mở cửa, ngày nay người dân Việt Nam nói chung và người dân ở nông thôn tỉnh Nghệ An nói riêng đã được tiếp xúc với nhiều loại hình nghệ thuật mới, nhiều loại hình văn hoá của các dân tộc trên toàn thế giới được người dân Việt Nam đón nhận. Trong đó, hoạt động lĩnh vực điện ảnh, phim ảnh nước ngoài, đặc biệt là phim phương Tây, bắt đầu được giới thiệu rộng rãi ở nước ta, kể cả phim có giá trị nghệ thuật đặc thù lẫn phim giải trí có giá trị thương mại. Đây là một trong những lĩnh vực thể hiện rõ nhất sự biến đổi trong ĐSVH của người dân Việt Nam nói chung và ĐSVH ở nông thôn tỉnh Nghệ An nói riêng trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Truyền hình và mạng internet là những công cụ đắc lực phổ biến phim nước ngoài, đặc biệt là phim phương Tây; sự thâm nhập của điện ảnh nước ngoài cũng có tác động đổi mới đến tư duy làm phim của Việt Nam và kích thích ngành điện ảnh Việt Nam phát triển. Biểu đồ 2.5. Hoạt động chiếu phim lưu động phục vụ miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số (số buổi chiếu phim các năm đều đạt 100% kế hoạch đề ra) Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Nghệ An, cập nhật năm 2018 550 550 300 284 285 256 0 200 400 600 2009 2011 2014 2015 2016 2017 82 Hiện nay, hoạt động chiếu phim lưu động chủ yếu phục vụ người dân vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa với tỷ lệ đạt 100% kế hoạch được phê duyệt, phát hành băng đĩa phục vụ người dân ở các vùng nông thôn, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo tại các điểm công cộng và đồn biên phòng theo kế hoạch; cung cấp băng, đĩa cho các địa phương Cũng giống như hoạt động thư viện, do tác động mạnh mẽ của công nghệ thông tin, internet, mạng xã hội... nên dẫn đến số lượng buổi chiếu phim lưu động giảm so với những năm trước, nhưng số buổi chiếu phim các năm đều đạt 100% kế hoạch chỉ đạo của Nhà nước đề ra: Năm 2009 là 550 buổi, năm 2014 là 300 buổi và năm 2017 là 256 buổi. Hoạt động chiếu phim lưu động tại các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn trong nhiều năm nay luôn được thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả cao. Các đội chiếu phim lưu động thuộc Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng Nghệ An (nay là Công ty Cổ phần Điện ảnh 12/9) luôn là lực lượng xung kích trong thực hiện nhiệm vụ chiếu phim phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân, thông qua các buổi chiếu lưu động lồng ghép tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động nhân dân xây dựng ĐSVH, xây dựng mô hình kinh tế gia đình, xây dựng thôn, bản văn hóa Tỉnh Nghệ An luôn xác định chiếu bóng lưu động là hoạt động văn hóa cộng đồng thiết thực và có ý nghĩa quan trọng; nhiều năm qua, các đội chiếu bóng lưu động luôn chú trọng việc đổi mới cả về nội dung lẫn hình thức hoạt động, như củng cố, nâng cao công tác quản lý, đầu tư, đổi mới công nghệ, chú trọng quảng cáo phim đáp ứng nhu cầu thưởng thức của nhân dân, nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hóa, nghệ thuật ngày càng cao của nhân dân. Công ty Cổ phần Điện ảnh 12/9 đã trang bị máy số cho hầu hết các đội chiếu bóng lưu động. Trước kia, chủ yếu sử dụng máy chiếu phim nhựa 35 ly và máy 83 chiếu video nên các đội chiếu bóng về địa phương chiếu bóng chỉ có 01 đến 02 chương trình phim truyện và 01 chương trình phim thời sự tài liệu. Hiện nay, chuyển sang công nghệ số hóa, cho nên một đội chiếu bóng có thể mang theo 60 phim truyện nhựa và phim thời sự, tài liệu, phim hoạt hình phục vụ thiếu nhi với nội dung chương trình, chất lượng âm thanh, hình ảnh cao hơn rất nhiều so với trước đây; nội dung của các phim phù hợp với nhu cầu của người dân nông thôn, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, góp phần xây dựng ĐSVH ở nông thôn tỉnh Nghệ An ngày một phát triển hơn. Tuy nhiên, trong thời gian qua hoạt động điện ảnh, chiếu phim lưu động còn gặp nhiều khó khăn như nguồn kinh phí hạn chế; khía cạnh nghệ thuật của loại hình văn hoá này chưa được phát huy tốt. Ngoài ra, ngành điện ảnh Việt Nam chưa thể cạnh tranh được với điện ảnh nước ngoài, từ đó dẫn đến tình trạng sa sút của điện ảnh Việt Nam. Trên thị trường điện ảnh, sự biến đổi rõ rệt nhất là chúng ta chấp nhận hội nhập quốc tế, cho phép phim ngoại thâm nhập vào thị trường điện ảnh trong nước, đã tác động đến hoạt động xây dựng ĐSVH ở Việt Nam nói chung và xây dựng ĐSVH ở nông thôn tỉnh Nghệ An nói riêng. * Tổ chức hoạt động dịch vụ văn hóa Hoạt động văn hoá, dịch vụ văn hoá nói chung và hoạt động karaoke nói riêng đã được chú trọng, tăng cường, thực hiện theo cơ chế mới đúng quy định của Nhà nước với thủ tục đơn giản thuận tiện, nhanh chóng, việc kiểm tra thẩm định điều kiện kinh doanh được quy định rõ ràng, giảm phiền hà, tốn kém vật chất, thời gian cho toàn xã hội. Đồng thời vẫn đảm bảo cho cơ quan nhà nước có cơ sở pháp lý để thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm. Các cơ sở kinh doanh đã có ý thức trong việc thực hiện các quy định của Nhà nước, cơ bản không sử dụng nhân viên tiếp khách riêng cho từng phòng hát, các hiện tượng sử dụng dịch vụ để hoạt động mại dâm, ma tuý đã được loại bỏ có hiệu quả. Các cơ sở đã có sự đầu tư đáng kể trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ và trang thiết bị phục vụ, đáp ứng tốt nhu cầu người sử dụng. 84 Hoạt động kinh doanh, dịch vụ văn hoá đã thực hiện phổ biến và trao truyền các giá trị văn hoá đến đông đảo người dân ở cơ sở, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền, phổ biến các giá trị là tinh hoa văn hoá thế giới và Việt Nam. Các sản phẩm sách báo, băng đĩa và văn hoá phẩm với nhiều chủng loại phong phú, đa dạng đã được chuyển tải đến từng cụm dân cư, thôn, xóm và bản làng xa xôi, nhằm thoả mãn nhu cầu hưởng thụ về văn hóa đa đạng của nhân dân. Đây thực sự là món ăn tinh thần quý giá, nó thẩm thấu sâu vào nếp nghĩ, lối sống và biến thành hành vi của người dân trong lao động sáng tạo, trong quan hệ cộng đồng và tinh thần yêu nước của người dân. Tính đến nay, 100% các huyện, thành phố, thị xã trên địa bàn toàn tỉnh Nghệ An đã có quy hoạch dịch vụ karaoke. Hoạt động dịch vụ văn hóa karaoke đang cuốn hút người dân tại các vùng nông thôn và ngày càng phát triển, đã kéo theo nhiều nhà cung cấp dịch vụ ở mọi thành phần kinh tế khác nhau tham gia với quy mô và diện hoạt động ngày càng rộng. Dịch vụ karaoke là loại hình dịch vụ giải trí đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí, ca hát của người dân ở nông thôn một cách nhanh chóng, phù hợp và tiện lợi. Số liệu khảo sát thực tiễn của NCS cho thấy, tỷ lệ người dân tham gia hoạt động dịch vụ văn hóa ngày càng cao. Nhận định này được thể hiện qua số liệu khảo sát người dân khi được hỏi với tỷ lệ 70,3% trả lời thường xuyên tham gia hoạt động dịch vụ văn hóa. Nguồn: Tác giả khảo sát, năm 2019. Hoạt động dịch vụ văn hóa đang từng bước thực hiện theo các quy định của Nhà nước, tuân thủ pháp luật, làm ăn chân chính, góp phần tích cực nâng cao ĐSVH và sự hưởng thụ văn hóa lành mạnh của nhân dân. Song bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh, dịch vụ văn hoá ở nông thôn tỉnh Nghệ An hiện nay cũng đã và đang bộc lộ một số hạn chế, bất cập như: Sử dụng băng đĩa không tem nhãn, phương tiện hoạt động, cơ sở vật chất nghèo nàn, phổ biến các sản phẩm ngoài luồng, vi phạm luật bản quyền, tuyên truyền cho những 85 sản phẩm không phù hợp với định hướng giáo dục của Nhà nước. Một số cơ sở kinh doanh karaoke về thiết bị âm thanh ánh sáng chưa đảm bảo theo quy định, hoạt động quá giờ quy định, sử dụng rượu bia có nồng độ cồn trên 15 độ. Một số phòng karaoke có hiện tượng biến tướng thành quầy ba, vũ trường tổ chức mở nhạc để nhảy gây mất trật tự vi phạm quy định và một số cơ sở kinh doanh karaoke chưa đủ điều kiện vẫn cấp phép hoạt động... Bên cạnh đó, ngày càng có sự chênh lệch về mức hưởng thụ văn hoá của người dân giữa các vùng nông thôn đồng bằng và miền núi. * Tổ chức hoạt động lễ hội Hiện nay, tỉnh Nghệ An có 126 lễ hội thuộc cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã quản lý, chỉ đạo, tổ chức. Hoạt động lễ hội được sự phối hợp của chính quyền các cấp cùng với nhân dân đóng góp công sức, tiền của, trí tuệ và sự sáng tạo để tổ chức, tham gia và hưởng thụ các giá trị văn hoá. Mặc dù là địa phương có nhiều di tích, nhiều lễ hội, nhưng ở trên địa bàn tỉnh Nghệ An không có lễ hội mang tầm quốc gia như một số địa phương Bắc Ninh, Phú Thọ, Nam Định... Bên cạnh, lễ hội dân gian thì các lễ hội lịch sử cách mạng “uống nước nhớ nguồn” tri ân các anh hùng liệt sỹ, lễ hội Làng Sen gắn với kỷ niệm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lễ hội Du lịch Cửa Lò khai trương mùa du lịch biển hàng năm và các lễ hội làng, dòng họ, đón rước bằng công nhận di tích lịch sử văn hoá, danh hiệu văn hoá... do chính quyền các cấp và nhân dân phối hợp tổ chức ở nhiều làng quê trong tỉnh, đã góp phần làm phong phú hơn lễ hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Hoạt động tổ chức lễ hội cơ bản đã đảm bảo thực hiện theo đúng quy định, đi vào nề nếp. Lễ hội có quy mô quốc gia đến các lễ hội nhỏ trong phạm vi làng, xã đều được tổ chức trang trọng, linh thiêng. Nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian trong các lễ hội được phục dựng như các lễ hội Đền Quả Sơn, Đền Cờn, Đền Đức Hoàng, Đền Vua Mai, Đền Bạch Mã, Đền 86 Cuông, Đền thờ Nguyễn Xí... Đặc biệt là, các lễ hội dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số được khôi phục như các lễ hội Pẩn Pang - Nang Ny, Hang Bua, Bươn Xao, Pu Nhạ Thầu... làm phong phú giá trị văn hóa lễ hội; nghiên cứu, sưu tầm về bản sắc văn hóa dân ca, dân nhạc, dân vũ của dân tộc Khơ Mú, H’Mông, Thổ. Hoạt động lễ hội gắn với phát triển du lịch và trùng tu, tôn tạo di tích - lịch sử văn hóa mang lại nhiều kết quả khích lệ. Cảnh quan vệ sinh môi trường khu vực lễ hội ngày càng sạch, đẹp hơn; trật tự an ninh từng bước được cải thiện. Nhiều lễ hội có chuyển biến tích cực, khắc phục được những hạn chế, tồn tại như mê tín dị đoan, cờ bạc, lưu hành ấn phẩm trái quy định. Công tác xã hội hóa các lễ hội ở địa phương được thực hiện tương đối tốt nên đã huy động được nguồn lực lớn từ nhân dân ngày càng tăng, như: Nguồn tài trợ, cung tiến, nguồn thu qua công đức, lệ phí, dịch vụ và nguồn lực xã hội hóa này được sử dụng cho việc tôn tạo di tích và tổ chức lễ hội. Hoạt động lễ hội đã đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân, giúp cho mọi người dân cùng hướng về một mục tiêu chung đó là cội nguồn dân tộc, tổ tiên. Chính vì vậy, nó trở thành phương tiện nhằm củng cố và phát triển mối liên hệ giữa cá nhân với gia đình, cá nhân với cộng đồng, cá nhân với dân tộc - quốc gia. Hoạt động vui chơi giải trí trong lễ hội nói chung là môi trường thuận lợi tạo ra sự cảm thông một cách dễ dàng giữa cá nhân, nhóm, cộng đồng thoả mãn các nhu cầu giao tiếp, hưởng thụ văn hóa. Chính hoạt động vui chơi giải trí là nhân tố làm cho tinh thần đoàn kết ngày càng bền chặt giữa các cá nhân, các nhóm, các cộng đồng với nhau. Nó là sợi dây vô hình tạo ra sự giao lưu một cách tự nhiên, thoải mái giữa các cộng đồng có nền văn hoá, ngôn ngữ, sắc tộc Các hoạt động văn hóa được tổ chức trên địa bàn nông thôn tỉnh Nghệ An đã cơ bản dựa vào nhu cầu thực tiễn về hưởng thụ văn hóa của người dân, nên tạo được sự hứng thú đối với nhiều tầng lớp 87 người dân tham gia. Tuy nhiên, ngành Văn hóa và Thể thao các cấp cần có giải pháp đổi mới hơn nữa về phương thức, nội dung của một số hoạt động văn hóa, thể thao và cần có biện pháp giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc (PVS ông NMH - Trường THPT Đô Lương 3, tỉnh Nghệ An). Việc khôi phục lễ hội gắn với di tích ở Nghệ An đã được phát huy có hiệu quả, nhưng vẫn còn có một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục như: Một số lễ hội còn nặng về phần lễ, các hoạt động hội ở một số lễ hội cũng chưa được phong phú. Ở đâu đó trong lễ hội vẫn còn có một số biểu hiện tiêu cực, lệch lạc so với các lễ hội dân gian truyền thống vốn có và quy chế hoạt động lễ hội quy định như mê tín, bói toán, xóc thẻ, ăn xin, chữa bệnh bằng phù phép, cờ bạc, rượu chè làm mất đi vẻ đẹp, sự linh thiêng của lễ hội, làm ảnh hưởng đến bầu không khí trong lành của ngày hội, ảnh hưởng đến tâm lý và cuộc sống của từng người dân tham gia lễ hội. 2.2.4.2. Tổ chức các hoạt động sáng tạo giá trị văn hóa * Tổ chức hoạt động văn hoá, nghệ thuật quần chúng Xây dựng và phát triển phong trào văn nghệ quần chúng tại tỉnh Nghệ An từ trước đến nay luôn là một trong những hoạt động có tính chất thúc đẩy hoạt động xây dựng ĐSVH nói chung và xây dựng ĐSVH ở nông thôn nói riêng. Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Nghệ An đã đưa ra chủ trương chỉ đạo cấp ủy Đảng, chính quyền, sở, ban, ngành, đoàn thể các cấp phát động phong trào xây dựng các đội văn nghệ quần chúng, hiện nay trên địa bàn tỉnh có 4.025 đội văn nghệ quần chúng, với hàng nghìn hạt nhân văn nghệ hoạt động thường xuyên; bồi dưỡng các hạt nhân văn nghệ làm nòng cốt cho phong trào trong cộng đồng dân cư; tổ chức biểu diễn văn nghệ, các cuộc liên hoan, giao lưu hội diễn văn nghệ quần chúng hàng năm; khai thác, bảo tồn các làn điệu dân ca, dân vũ, các diễn xướng dân gian truyền thống ở địa phương. 88 Qua khảo sát thực tế của NCS, cho thấy hoạt động văn hóa, nghệ thuật quần chúng đạt hiệu quả cao, đã quy tụ được số lượng hội viên đông đảo, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa, văn nghệ trên địa bàn. Minh chứng cho đánh giá trên với tỷ lệ 86,6% người dân trả lời thường xuyên tham gia hoạt động văn hóa, nghệ thuật quần chúng. Nguồn: Tác giả khảo sát, năm 2019. Nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống, nhất là ở vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được duy trì, bảo tồn và phục dựng, như: Chỉ tính trong năm 2019, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Nghệ An đã tổ chức 03 đợt đi nghiên cứu, sưu tầm về bản sắc văn hóa dân ca, dân nhạc, dân vũ của dân tộc Khơ Mú, H’Mông, Thổ; bảo tồn không gian trình diễn nghệ thuật các dân tộc thiểu số ở huyện Con Cuông; phục dựng văn hóa, nghi lễ dân gian của dân tộc Ơ Đu ở huyện Tương Dương và huyện Quỳ Hợp... Nhiều giá trị văn hoá dân tộc trong gia đình, giao tiếp ứng xử cộng đồng, thuần phong, mỹ tục ở nông thôn được bảo tồn. Hoạt động biểu diễn nghệ thuật gắn với các sự kiện trên địa bàn theo kế hoạch từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân, nhất là đồng bào các dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa như: Liên hoan Tiếng hát Làng Sen, Liên hoan Dân ca ví, giặm, Hội diễn văn nghệ các dân tộc thiểu số... Các liên hoan, hội diễn này được chính quyền từ cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh tổ chức được người dân đón nhận và đánh giá cao về tính nghệ thuật, tính thời sự, phản ánh hoạt động của cuộc sống, bản sắc văn hóa của dân tộc. Bên cạnh đó, hoạt động nghệ thuật biểu diễn của các đơn vị nghệ thuật tỉnh Nghệ An còn được thể hiện rõ nét qua kết quả đạt giải cao, khi tham gia liên hoan, hội diễn nghệ thuật toàn quốc, khu vực về các hoạt động ca, múa, nhạc, dân ca, thơ, tuồng như: Đoàn Ca múa nhạc dân tộc đạt 03 Huy chương Vàng tại Hội diễn ca múa nhạc chuyên nghiệp toàn quốc năm 2015 tại tỉnh Thái Nguyên, Trung tâm Văn hóa tỉnh đạt Huy chương Vàng toàn đoàn tại Chương trình nghệ thuật kết nối 89 các miền di sản năm du lịch quốc gia năm 2015 tại tỉnh Thanh Hóa, Trung tâm Bảo tồn và Phát huy di sản dân ca Xứ Nghệ đạt Huy chương Vàng tại Liên hoan nghệ thuật sân khấu toàn quốc về “Hình tượng người chiến sĩ công an nhân dân” năm 2020 tại thủ đô Hà Nội... Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Nghệ An, cập nhật năm 2021. Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Nghệ An cũng đã chỉ đạo ngành văn hóa và chính quyền các cấp tổ chức liên hoan dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh từ cấp cơ sở và cấp tỉnh; thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng qua các phóng sự tài liệu, chuyên trang, chuyên đề trên Đài PTTH các cấp, Đài Truyền thanh cơ sở, Báo Nghệ An, tạp chí Văn hoá, bản tin nội bộ ngành về các giá trị văn hóa, du lịch. Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật quần chúng đã đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa và đã nhận được ý kiến đánh giá cao, hưởng ứng tham gia nhiệt tình của người dân; hoạt động này đã phát huy tốt vai trò xung kích, góp phần nâng cao nhận thức, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân trong tỉnh, với tỷ lệ 52% số người dân tham gia hoạt động văn hóa, văn nghệ quần chúng và CLB văn hóa, văn nghệ. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Nghệ An, cập nhật năm 2019. Hoạt động văn hoá, văn nghệ quần chúng đã được tỉnh Nghệ An tiếp tục chỉ đạo các địa phương tổ chức tốt, đúng với bản sắc truyền thống và thuần phong mỹ tục của địa phương, các hoạt động văn hoá, văn nghệ, các trò chơi dân gian tạo điều kiện cho nhân dân được tham gia sáng tạo các giá trị văn hoá và tự tổ chức các hoạt động văn hoá mang tính cộng đồng. Công tác chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương xây dựng chương trình, tổ chức các cuộc liên hoan, hội thi văn hóa, văn nghệ từ cơ sở đến cấp tỉnh và phục vụ tốt nhiệm vụ xây dựng ĐSVH tại địa phương, như: Liên hoan Tiếng hát Làng Sen, Liên hoan Dân ca ví dặm...; các huyện miền núi tổ chức các hoạt động tuyên truyên lưu động và bảo 90 tồn và phát huy các loại hình văn hóa dân tộc. Phong trào TDĐKXDĐSVH được các ngành, các cấp quan tâm chỉ đạo, các huyện, thành, thị quan tâm triển khai thực hiện cơ chế, chính sách về xây dựng thiết chế văn hóa, thể thao và phát triển ĐSVH ở nông thôn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2012 - 2020 gắn với chương trình mục tiêu quốc gia về XDNTM trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được, hoạt động văn hóa, nghệ thuật quần chúng trên địa bàn nông thôn tỉnh Nghệ An vẫn tồn tại những hạn chế nhất định cần thay đổi, như ở một số chương trình văn hóa, nghệ thuật quần chúng xuất hiện vẫn còn ít tác phẩm khai thác và sáng tạo từ nghệ thuật truyền thống, mà đang có xu hướng thiên về các tiết mục ca nhạc, trình diễn ca khúc của các tác giả chuyên nghiệp với nhạc sống và dàn nhạc điện tử. Một số địa phương cũng chưa chủ động xây dựng tiết mục, dàn dựng chương trình, mà thường sắp đến ngày hội diễn văn hóa văn nghệ quần chúng mới bắt đầu tập trung hạt nhân văn nghệ, mời nghệ sĩ chuyên nghiệp hướng dẫn; vai trò của yếu tố tự biên tự diễn, tài năng văn hóa văn nghệ độc đáo riêng của quần chúng còn ít được phát huy. Một số địa phương ở khu vực miền núi tổ chức chưa tốt trong việc quy hoạch xây dựng, phát huy công năng của hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở làm cho tiết mục và chương trình giảm tính sinh động, hồn nhiên vốn có của hoạt động văn hóa văn nghệ quần chúng. * Tổ chức hoạt động thể dục thể thao quần chúng Hoạt động TDTT quần chúng trên địa bàn toàn tỉnh Nghệ An diễn ra sôi nổi, phong phú và đa dạng, điển hình như năm 2018 tỉnh Nghệ An đã tổ chức Đại hội thể thao với tỷ lệ đạt 100% cấp xã, 100% cấp huyện và tham gia Đại hội thể thao tỉnh Nghệ An lần thứ VIII năm 2018 với hơn 10.000 cán bộ, vận động viên. Trong năm 2018, tỉnh Nghệ An đã tổ chức thành công các giải thể thao quần chúng như: Giải thể thao cán bộ chuyên trách văn hóa tỉnh Nghệ An, giải gia đình thể thao, giải cầu lông toàn tỉnh, giải bóng đá thiếu 91 niên, nhi đồng Cúp Báo Nghệ An, hội thi thể thao người cao tuổi, giải bơi các lứa tuổi trẻ tỉnh Nghệ An, giải quần vợt Cúp truyền hình tỉnh Nghệ An, giải đua xe đạp tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh... Biểu đồ 2.6. Tỷ lệ người dân tham gia luyện tập thể dục thể thao thường xuyên và gia đình thể dục thể thao qua một số năm Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Nghệ An, cập nhật năm 2019 Phong trào TDTT quần chúng phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng; có nhiều bước phát triển khá toàn diện, góp phần tìm kiếm tài năng cho lĩnh vực thể thao thành tích cao tham gia và đạt được nhiều thành tích tại các giải, số lượng, chất lượng cao của quốc gia, quốc tế. Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Nghệ An đã chỉ đạo, hướng dẫn các huyện xây dựng kế hoạch hoạt động, tổ chức thi đấu thể thao gắn với các sự kiện chính trị trọng đại, các ngày lễ, kỷ niệm lớn trong năm của đất nước, của tỉnh, phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, đồng thời phục vụ đáp ứng được nhu cầu của người dân. Tỷ lệ người dân tập luyện TDTT thường xuyên trên địa bàn tỉnh Nghệ An tương đối cao so với một số tỉnh/thành phố trong cả nước, với số người luyện tập thường xuyên 33%, số gia đình thể thao 22,7% và 895 CLB. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Nghệ An, cập nhật năm 2019. Thông qua các hoạt động trong phong trào, các chỉ tiêu về TDTT quần chúng có bước phát triển mạnh mẽ, nâng cao sức khỏe quần chúng nhân dân. 32% 32.3% 32.7% 33% 21.7% 22% 22.2% 22.7% 0 5 10 15 20 25 30 35 2015 2016 2017 2018 Người dân tham gia luyện tập TDTT thường xuyên Gia đình TDTT 92 Nhiều hội thi, hội diễn TDTT quần chúng được chính quyền các cấp, các ngành, làng, thôn, bản tổ chức định kỳ, thường xuyên tạo khí thế sôi nổi, qua đó phát hiện nhiều tài năng thể thao triển vọng, nhiều vậ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_xay_dung_doi_song_van_hoa_o_nong_thon_tinh_nghe_an.pdf
  • pdf3. Nguyen Tat Hao - tom tat Luan an Tieng Anh (1).pdf
  • pdf4. Nguyen Tat Hao - Trich yeu luan an Tieng Anh.pdf
  • pdf5. Nguyen Tat Hao - Dong gop moi cua luan an Tieng Viet (1).pdf
  • pdf6. Nguyen Tat Hao - Dong gop moi cua luan an Tieng Anh.pdf
  • pdf7. Nguyen Tat Hao - Trich yeu luan an Tieng Viet.pdf
  • jpgQDNGUYENTATHAO.jpg
  • jpgQDNGUYENTATHAO2.jpg
Tài liệu liên quan