Luận án Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong tình hình mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5

1.1. Những công trình nghiên cứu về căn cứ địa và tư tưởng Hồ Chí Minh về

căn cứ địa 5

1.2. Những công trình nghiên cứu về xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố 18

1.3. Nhận xét kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan và

những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết 25

Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CĂN CỨ ĐỊA 29

2.1. Một số khái niệm 29

2.2. Nội dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa 35

Chương 3: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG KHU VỰC PHÒNG THỦ TỈNH,

THÀNH PHỐ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA NHÌN TỪ TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH VỀ CĂN CỨ ĐỊA 71

3.1. Tính tất yếu của việc xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố hiện nay 71

3.2. Thực trạng xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố - nhìn từ tư tưởng

Hồ Chí Minh về căn cứ địa 87

3.3. Những vấn đề đặt ra trong xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố

theo tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa 107

Chương 4: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG KHU VỰC PHÒNG

THỦ TỈNH, THÀNH PHỐ TRONG TÌNH HÌNH MỚI THEO TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH VỀ CĂN CỨ ĐỊA 113

4.1. Dự báo tình hình mới và yêu cầu xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh,

thành phố theo tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa 113

4.2. Giải pháp xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong tình hình

mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa 131

KẾT LUẬN 148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151

PHỤ LỤC 163

pdf184 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 27/12/2022 | Lượt xem: 629 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong tình hình mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tham gia cống hiến, hy sinh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong quá trình xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn, đầy đủ về khu vực phòng thủ (đặc biệt là địa hình, địa lợi), người dân được củng cố niềm tin vào đường lối quân sự của Đảng; ủng hộ, cổ vũ, động viên tinh thần và đóng góp sức người, sức của, lực lượng và phương tiện cho xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh; đồng thời, sáng tạo ra những cách đánh độc đáo trong điều kiện mới của chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện. Hoạt động này góp phần nâng cao sức mạnh phòng thủ, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của tỉnh, thành phố. Để xây đắp ý chí, quyết tâm bảo vệ vững chắc Tổ quốc của toàn dân, các địa phương cần bắt đầu từ xây dựng con người mới, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh và hiệu quả; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; “Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh” [57, tr.159] cho toàn dân; trong đó, chú trọng giáo dục, nâng cao nhận thức về đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Vấn đề này phải được quan tâm hàng đầu trong xây dựng khu vực phòng thủ của tỉnh, thành phố hiện nay. Bởi lẽ, các thế lực thù địch tăng cường chống phá, gây hoang mang, hoài nghi trong nhân dân về đường lối xây dựng khu vực phòng thủ của Đảng; mất cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù. Xây dựng khu vực phòng thủ là xây dựng sức mạnh đoàn kết của các dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh, thành phố. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố không chỉ đơn thuần là hình thành một đơn vị quốc phòng, an 80 ninh mà còn là chủ trương xây dựng sức mạnh đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đây là tư duy lý luận mới về cách thức tổ chức sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong tình hình hiện nay. Cách thức tổ chức sức mạnh này dựa trên mối quan hệ làng, xã, huyện và tỉnh - sợi dây kết nối, đoàn kết cộng đồng của nhân dân; đồng thời, là động lực, nguồn sức mạnh đảm bảo hiện thực hóa mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong đời sống xã hội. Hiện nay, sức mạnh đoàn kết dân tộc chưa được phát huy đầy đủ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở một số địa phương, việc thể chế hóa, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về đại đoàn kết dân tộc chưa đầy đủ, chưa nghiêm túc và hiệu quả còn chưa cao. Mô hình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc chưa thật sự bám sát tình hình thực tế và đặc điểm của tỉnh, thành phố; thậm chí, còn diễn ra tình trạng “sao chép” mô hình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc giữa các địa phương. Quyền dân chủ của nhân dân chưa được đảm bảo, còn bị vi phạm trên một số lĩnh vực của đời sống - xã hội. Việc thực hành dân chủ ở cơ sở còn mang tính hình thức. Tình trạng lợi dụng dân chủ nhằm kích động, gây rối, tạo ra các “điểm nóng” về an ninh, an toàn; gây chia rẽ, mất đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc chung sống trên cùng địa bàn. Sự chống phá của các thế lực thù địch càng làm trầm trọng hơn vấn đề này. Công tác tuyên truyền, vận động, tập hợp, đoàn kết đồng bào các dân tộc cùng tham gia vào Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế; đặc biệt, ở vùng sâu, vùng xa, biên giới. Mặt khác, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân hoạt động chưa sâu sát với cơ sở và đời sống của đồng bào. Dưới tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, tình trạng phân hóa, phân tầng và di biến dân cư diễn ra rất phức tạp trong cộng đồng dân tộc. Đây là những yếu tố trực tiếp, thường xuyên làm suy giảm lòng tin, tính cố kết cộng đồng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức mạnh đoàn kết, thế trận lòng dân của nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình mới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi phải phát huy sức mạnh đoàn kết của cộng đồng, sức mạnh toàn dân dân tộc. Do đó, xây dựng 81 khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là phương thức hữu hiệu để xây dựng sức mạnh đoàn kết dân tộc sinh sống trên địa bàn tỉnh, thành phố. Xây dựng khu vực phòng thủ là xây dựng sức mạnh tổng hợp (kinh tế, chính trị, văn hóa... quân sự làm cốt) của tỉnh, thành phố trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Hơn 30 năm đổi mới, nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững; đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Chính trị - xã hội ổn định, bảo đảm quyền dân chủ cho mọi người dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, quan tâm, chăm lo phát triển con người Việt Nam về mọi mặt. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, đảm bảo giữa vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội... Do đó, sức mạnh quốc gia và sức mạnh tổng hợp của tỉnh, thành phố không ngừng được củng cố và tăng cường. Đây cũng là tiền đề xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, “nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn. Có biểu hiện chưa quan tâm đúng mức bảo đảm phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát triển văn hóa, bảo đảm phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong phát triển kinh tế thị trường; chưa bảo đảm phát triển tổng thể, đồng bộ các vùng, miền, địa phương theo lợi thế so sánh và phát huy điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta” [57, tr.108]. Thực tế này đòi hỏi phải xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Các hoạt động này hình thành sức mạnh tổng hợp khu vực phòng thủ thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Trong tình hình mới, các tỉnh, thành phố cần phát triển kinh tế địa phương gắn với quy hoạch, kế hoạch tổng thể của Trung ương, các vùng 82 kinh tế; kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh trong từng dự án, khu công nghiệp, khu chế xuất và phát huy lợi thế so sánh của địa phương như sân bay, cảng biển, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng... để phát triển loại hình, ngành kinh tế mũi nhọn, đặc thù và tập trung cho xuất khẩu. Đồng thời, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí trong các dự án, công trình có vốn đầu tư công trên địa bàn tỉnh, thành phố; chống suy thoái tư tưởng chính trị trong nội bộ... Các tỉnh, thành phố đầu tư xây dựng hệ thống công trình quốc phòng (Sở chỉ huy, căn cứ hậu cần - kỹ thuật, khu phòng thủ then chốt, hầm, hào...) hợp lý, có khả năng tồn tại trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao; tích cực, chủ động khai thác, cải tạo địa hình, địa lợi (nhất là các hang động tự nhiên) phục vụ nhiệm vụ quốc phòng an ninh khu vực phòng thủ, tăng cường khả năng tự bảo vệ địa phương khi có chiến tranh. Đặc biệt, các tỉnh, thành phố có đường biên giới, biển, đảo cần đầu tư “xây dựng và củng cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo” [57, tr.159] nhằm gia tăng sức mạnh phòng thủ, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. 3.1.3. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay Trong tình hình mới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được xác định “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc [57, tr.156]. Nhiệm vụ nặng nề này đòi hỏi phải xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh toàn diện về tiềm lực, lực lượng và thế trận; trên các mặt chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; trong đó, phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng xã, phường, thị trấn vững mạnh toàn diện làm nền tảng, gắn bó chặt chẽ, liên hoàn với thế trận khu vực phòng thủ huyện, tỉnh. Sự vững mạnh của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là một trong những yếu tố cốt lõi hình thành thế và lực của nền quốc phòng toàn dân, tạo dựng sức 83 mạnh tổng hợp của đất nước. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là cách thức chuẩn bị trước, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy. Việc chuẩn bị càng kỹ lưỡng, đầy đủ và toàn diện càng ngăn chặn, đầy lùi nguy cơ chiến tranh. Đây là phương thức tối ưu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Việc “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội” [57, tr.156] cũng đòi hỏi phải xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố nhằm củng cố, tăng cường lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ của nền quốc phòng trong tình hình mới. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh “Xây dựng lực lương dự bị động viên hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển” [57, tr.158]. Bởi lẽ, khu vực phòng thủ là nơi trực tiếp tổ chức, huấn luyện và cung cấp hậu cần tại chỗ cho lực lượng này. Lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ là lực lượng “thường trực” nằm trong dân, tham gia sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương và gắn bó chặt chẽ với địa bàn mà họ sinh sống. Khi xảy ra tình huống quốc phòng, an ninh tại địa phương, lực lượng này là chỗ dựa vững chắc, tin cậy cho đảng bộ, chính quyền và nhân dân; là lực lượng hỗ trợ hiệu quả xử lý triệt để tình huống quốc phòng, an ninh nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; củng cố và tăng cường trật tự, kỷ cương xã hội. Đây là phương cách vừa đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội, vừa bảo đảm quốc phòng, an ninh trên từng địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới và trên biển. Trong tình hình mới, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc đòi hỏi phải xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố nhằm “phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế” [57, tr.155-156]. Lực lượng bảo vệ Tổ quốc là toàn thể dân tộc Việt Nam, người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài và lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp được hình thành từ 84 những lực lượng ấy; sự đồng tỉnh, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Do đó, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là phương pháp cách mạng nhằm khai thác “tối đa” nguồn lực trong nước, nguồn lực ngoài nước và phát huy hiệu quả sức mạnh nguồn lực ấy để bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là điểm mới, tư duy sáng tạo trong đường lối bảo vệ Tổ quốc của Đảng. Trong tình hình mới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc còn đòi hỏi phải “xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân”; xây dựng, củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại” [57, tr.157]. Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, tự bản thân nó, đã hàm chứa quá trình xây dựng toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; đồng thời, kết hợp những yếu tố đó một cách sáng tạo, linh hoạt và phù hợp với từng địa phương nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp đảm bảo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc giành thắng lợi. Thực tế cho thấy, mỗi tỉnh, thành phố xây dựng một hoặc hai khu vực phòng thủ đã tạo ra thế trận liên hoàn, vững chắc và toàn diện cho nền quốc phòng đất nước, trong đó, “thế trận lòng dân” làm cốt lõi. Dựa trên thế trận của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố dễ dàng điều chỉnh, bố trí lực lượng quốc phòng, vũ khí và phương tiện phòng thủ; nhất là tập trung trên hướng biển, địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng, an ninh quốc gia. Phương thức bảo vệ Tổ quốc này cho phép kết hợp đấu tranh vũ trang tự vệ và phi vũ trang; bảo vệ từ sớm, từ xa; xử lý hiệu quả những tình huống quốc phòng, an ninh diễn ra trên từng địa bàn, vùng miền và toàn quốc. Hơn nữa, thế trận khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trên toàn quốc dễ thích ứng, có thể “quyền biến” trong điều kiện chiến tranh hiện đại ngày nay. Cùng với đó, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là hiện thực hóa quan điểm “kiên quyết, kiên trì” bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong tình hình mới. Đây là điểm nhìn mới, cách tiếp cận sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với sự 85 phát triển của thực tiễn cách mạng nước ta. Đại hội XIII của Đảng khẳng định “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” [58, tr.331]. Nội dung căn bản của quan điểm này là xây dựng ý chí, quyết tâm cao nhất, kiên trì, bền bỉ đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Đây là bước phát triển tư duy lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bởi lẽ, quan điểm này của Đảng góp phần xây dựng bản lĩnh kiên cường, thái độ dứt khoát, mục tiêu lâu dài trên bước đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Đây cũng là hành trang, tâm thế; là động lực của thế hệ cách mạng đời sau trong việc thừa kế sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Việc hiện thực hóa quan điểm “kiên quyết, kiên trì” bảo vệ Tổ quốc của Đảng càng trở nên bức thiết trước những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng “Diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam. Do vậy, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh là một phương thức khả thi, hữu hiệu và phù hợp thực tiễn nước ta hiện nay. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” [118, tr.131], “Độc lập, chủ quyền, thống nhất” là quyền bất khả xâm phạm, là lợi ích tối cao của dân tộc Việt Nam. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, phấn đấu cho mục tiêu này đòi hỏi phải “kiên quyết, kiên trì”. Khi đất nước mất “độc lập, chủ quyền, thống nhất” thì “dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập” [73, tr.203]. Khi đất nước có “độc lập, chủ quyền, thống nhất” phải kiên quyết, kiên trì giữ vững quyền thiêng liêng đó bằng mọi cách, bằng sức mạnh của cả dân tộc. “Dân tộc Việt Nam thà chết chứ không chịu mất độc lập và tự do” [107, tr.536]; “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước” [107, tr.534]. Ý chí, quyết tâm đó của con người Việt Nam được hun đúc, rèn luyện, thử thách trong đấu tranh giành, giữ độc lập dân tộc ở cuối thế kỷ XX. Ý chí, quyết tâm đó trở thành bản lĩnh của con người Việt Nam ứng xử một cách kiên nhẫn, kiên quyết và kiên trì với kẻ thù “để giữ gìn thống nhất và độc lập cho Tổ quốc” trong cuộc chiến tranh đầy khó khăn, phức tạp, có thể kéo dài “5 năm, 86 10 năm hay là lâu hơn nữa”. “Độc lập, chủ quyền, thống nhất” phải gắn với “toàn vẹn lãnh thổ” của Tổ quốc. Bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc là tổng thể những hoạt động nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc ở trên bộ, trên không, trên biển và trong không gian mạng. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này diễn ra trong tình hình thế giới, khu vực, nhất là tranh chấp chủ quyền, lãnh hải trên biển Đông hết sức phức tạp, khó lường và chứa nhiều nhân tố gây đột biến, rất dễ xảy ra xung đột. Trước tình thế đó, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phải “kiên quyết, kiên trì” bảo vệ vững chắc chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đây là vấn đề chiến lược, là lợi ích tối cao, lâu dài của đất nước; là nhiệm vụ thiêng liêng của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta ở hiện tại và tương lai. Phương thức thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng này là kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, pháp lý và ngoại giao; sử dụng đấu tranh vũ trang, phi vũ trang, lấy đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi nguy cơ dẫn đến chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Kiên quyết, kiên trì thực hiện phương thức đó còn góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước trong quá trình hội nhập sâu rộng hiện nay. Hơn nữa, sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc của nhân dân ta luôn phải đương đầu với kẻ thù mạnh hơn ta nhiều lần về tiềm lực kinh tế, quân sự. Điều này vẫn hoàn toàn đúng đắn so với thực tiễn lịch sử hiện nay. Bởi lẽ, tiềm lực kinh tế, thực lực quân sự có mạnh hơn, kẻ thù mới đem quân xâm lược nước ta. Do vậy, để đánh bại mưu đồ xâm lược kẻ thù, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là một giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện phương châm kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống. Khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là nơi đứng chân, chỗ dựa vững chắc của các lực lượng; nơi chuyển hóa thế và lực của từng địa phương thành sức mạnh tổng hợp của cả nước. Thực tiễn lịch sử dân tộc cho thấy, kiên quyết, kiên trì chuẩn bị khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố kỹ lưỡng, đầy đủ, toàn diện, sẵn sàng cho cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 87 Tổ quốc thì không kẻ thù dám xâm lược. Đây là vấn đề có giá trị lý luận sâu sắc, có ý nghĩa hiện thực đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực diễn biến rất phức tạp, khó lường. Sự nghiệp bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong bối cảnh đó đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức; nhất là thách thức trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền trên không gian mạng, vấn đề chủ quyền biển, đảo ở biển Đông; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá cách mạng nước ta, đặc biệt là âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cuộc đấu tranh đầy cam go, phức tạp, quyết liệt và diễn ra liên tục trong thời gian dài. Vì vậy, hoạt động này của Đảng, Nhà nước, nhân dân ta phải thật sự kiên quyết, kiên trì. 3.2. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG KHU VỰC PHÒNG THỦ TỈNH, THÀNH PHỐ - NHÌN TỪ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CĂN CỨ ĐỊA Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố (phòng thủ địa phương) là quá trình hoàn thiện về nhận thức và hành động theo tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa. Quá trình đó bắt đầu từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước; trong đó, có lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Sự kiện này đánh dấu bước phát triển tư duy lý luận của Đảng; tạo ra động lực cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cụ thể hóa đường lối đổi mới trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, Bộ Chính trị (khóa VI) thông qua Nghị quyết số 02-NQ/TW (7/1987) về việc giao cho các Tỉnh ủy, Thành ủy lãnh đạo xây dựng các tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc theo kế hoạch chung thống nhất của quân khu và của cả nước. Quan điểm chủ đạo của Nghị quyết này là lấy địa bàn tỉnh, thành phố làm đơn vị tổ chức của nền quốc phòng toàn dân. Đây là bước phát triển nghệ thuật quân sự dân tộc, tiền đề lý luận cho thực tiễn xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; yếu tố bảo đảm sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc giành thắng lợi trong giai 88 đoạn mới. Đặc biệt, năm 2008, Bộ Chính trị (khóa X) thông qua Nghị quyết 28- NQ/TW “Về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”. Đây là tất yếu lịch sử, phản ánh quy luật dựng nước đi đôi giữ nước. Năm 2018, tổng kết 10 năm xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố theo tinh thần Nghị quyết 28-NQ/TW nhằm đánh giá thành tựu, hạn chế và đưa ra giải pháp trong tình hình mới. Đến nay, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là quá trình hoàn thiện về chủ trương, đường lối, từng bước gia tăng tiềm lực đất nước đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc; khẳng định nghệ thuật xây dựng và sử dụng sức mạnh quốc gia trong lĩnh vực quốc phòng theo tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa. 3.2.1. Thành tựu và nguyên nhân 3.2.1.1. Thành tựu Đại hội XIII của Đảng khái quát thành tựu nổi bật của xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là “khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố được củng cố ngày càng vững chắc, góp phần bảo vệ biên giới và chủ quyền quốc gia, ổn định chính trị, xây dựng “thế trận lòng dân” tại các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển, đảo” [58, tr.55]. Thành tựu đó được biểu hiện ở những vấn đề chủ yếu sau: * Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố về chính trị Cơ chế hoạt động khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng trong thời bình và thời chiến. Đây là một trong những thành tựu lớn nhất của quá trình xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố theo tư tưởng Hồ Chí Minh về căn cứ địa. Bởi lẽ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh “Có chính quyền cách mạng của địa phương, có căn cứ địa vững vàng, đội du kích nhờ đó mà phát triển lực lượng và hoá ra quân chính quy” [106, tr.536]. Khẳng định này của Người cho thấy vai trò, tác dụng của yếu tố cấu thành cơ chế hoạt động đối với lực lượng trong căn cứ địa. Hiện nay, cơ chế hoạt động khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố là Đảng lãnh đạo; chính quyền quản lý, điều hành; cơ quan quân sự, công an, các ban, ngành, đoàn thể địa phương làm tham mưu và sự tham gia của toàn dân. Cơ chế này quyết định chất lượng, hiệu quả của khu 89 vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc tình hình mới. Với tư cách là một đơn vị quốc phòng, khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố đặt dưới sự lãnh đạo của tỉnh ủy, thành uỷ trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt; quản lý, điều hành của chính quyền cùng cấp. Cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo này bảo đảm cấp ủy đảng, chính quyền địa phương nắm chắc công tác quân sự - quốc phòng; quản lý chặt chẽ, điều hành linh hoạt các bộ phận, lực lượng ở địa phương tham gia xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Tỉnh uỷ, thành uỷ thường xuyên quán triệt và triển khai nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước về xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, cấp ủy tỉnh, thành phố xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo; xây dựng chương trình hành động, kế hoạch và đề án thực hiện xây dựng khu vực phòng thủ một cách chặt chẽ, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn địa phương. Đến nay, trong cả nước, toàn bộ 63/63 tỉnh, thành phố, 705/705 quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh đã có nghị quyết chuyên đề (Phụ lục 2), chương trình hành động, kế hoạch và đề án triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong tình hình mới. Hàng năm, cấp ủy các tỉnh, thành phố thường xuyên rà soát, đánh giá và bổ sung những nội dung này để phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới; thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và toàn dân về nhiệm vụ xây dựng và hoạt động của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Do đó, “Năng lực lãnh đạo của cấp ủy, vai trò của bí thư cấp ủy địa phương, bí thư đảng ủy quân sự cùng cấp; hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền” [128, tr.3] được nâng lên trong xây dựng và hoạt động của khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo này “ngày càng hoàn thiện, từng bước được vận hành thông suốt, đồng bộ, linh hoạt” [128, tr.3] và hiệu quả. Đây là bước chuyển quan trọng trong công tác 90 lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên là xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong tình hình mới. Cơ chế chỉ huy, hiệp đồng của cơ quan quân sự, công an và các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương trong khu vực phòng thủ từng bước được nâng lên, ngày càng tiến bộ. Cơ quan quân sự, công an của tỉnh, thành phố phát huy tốt vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố đi vào chiều sâu, vững chắc và thiết thực; bảo đảm giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đây là tiền đề quy tụ, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần, lực lượng và thế m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_xay_dung_khu_vuc_phong_thu_tinh_thanh_pho_trong_tinh.pdf
  • pdfCong van dang LA 2.pdf
  • pdfTrang thong tin (T.Anh) _ Bui Hong Can.pdf
  • pdfTrang thong tin (T.Viet) _ Bui Hong Can.pdf
  • pdfTrich yeu _ Bui Hong Can.pdf
  • pdfTT _T.Anh_ _ Can _nop QD cap HV.pdf
  • pdfTT _T.Viet_ _ Can _nop QD cap HV.pdf
Tài liệu liên quan