MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ . 1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU . 3
1.1. Đại cương về bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. 3
1.1.1. Định nghĩa . 3
1.1.2. Dịch tễ học . 3
1.1.3. Cơ chế bệnh sinh bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính . 4
1.1.4. Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính 10
1.1.5. Điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính . 14
1.2. Đại cương về tế bào gốc trung mô trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính . 15
1.2.1. Tế bào gốc . 15
1.2.2. Tế bào gốc trung mô . 17
1.2.3. Cơ chế tác động của tế bào gốc trung mô trong bệnh phổi tắc nghẽn
mạn tính . 19
1.3. Tế bào gốc từ mô mỡ . 24
1.3.1. Đặc tính của tế bào gốc từ mô mỡ . 24
1.3.2. Phân lập tế bào gốc từ mô mỡ . 27
1.4. Ứng dụng của điều trị tế bào gốc trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính . 28
1.4.1. Cơ sở điều trị tế bào gốc trong bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trên mô
hình thực nghiệm . 28
1.4.2. Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng sử dụng tế bào gốc trong điều trị
BPTNMT . 34
1.5. Tình hình nghiên cứu điều trị tế bào gốc từ mô mỡ trong bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính . 38
CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 40
2.1. Đối tượng nghiên cứu. 40
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn . 40
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ . 40
2.2. Phương pháp nghiên cứu . 42
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu . 42
2.2.2. Cách chọn mẫu . 42
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu . 43
2.3. Các bước tiến hành . 44
2.3.1. Xây dựng dự thảo quy trình điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính bằng
tế bào gốc tự thân từ mô mỡ. 44
2.3.2. Tiến hành trên đối tượng nghiên cứu . 53
2.3.3. Hoàn thiện quy trình điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính bằng tế bào
gốc tự thân tự thân từ mô mỡ và thông qua Hội đồng khoa học . 58
2.4. Các biến số chính đánh giá kết quả của nghiên cứu . 58
2.4.1. Đặc điểm chung . 58
2.4.2. Quy trình chuẩn bị khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ điều trị bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính . 58
2.4.3. Kết quả điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính bằng tế bào gốc tự thân
tự thân từ mô mỡ . 59
2.5. Các tiêu chuẩn áp dụng trong nghiên cứu . 60
2.6. Phương pháp thống kê . 63
2.7. Vấn đề đạo đức . 63
2.8. Bảo vệ dữ liệu của bệnh nhân . 63
2.9. Sơ đồ nghiên cứu . 64
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU . 65
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu . 65
3.1.1. Đặc điểm chung về dịch tễ và lâm sàng . 65
3.1.2. Đặc điểm về mức độ khó thở, chất lượng cuộc sống, chỉ số BODE . 66
3.1.3. Đặc điểm về chức năng thông khí . 66
3.1.4. Đặc điểm về khí máu động mạch . 67
3.2. Kết quả hoàn thiện quy trình chuẩn bị khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ
trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính . 67
3.2.1. Quy trình chuẩn bị khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ trong điều trị bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính . 68
3.2.2. Kết quả quy trình thu gom mỡ . 69
3.2.3. Kết quả đánh giá khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ ở bệnh nhân bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính ngay sau tách chiết . 71
3.2.4. Kết quả đánh giá khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ ở bệnh nhân bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính sau bảo quản . 72
3.2.5. Kết quả truyền tế bào gốc tự thân từ mô mỡ . 73
3.3. Kết quả điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính bằng tế bào gốc tự thân từ
mô mỡ . 73
3.3.1. Sự thay đổi lâm sàng ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trước
và sau điều trị tế bào gốc tự thân từ mô mỡ . 73
3.3.2. Sự thay đổi cận lâm sàng ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
trước và sau điều trị tế bào gốc tự thân từ mô mỡ . 77
3.3.3. So sánh sự thay đổi về lâm sàng, cận lâm sàng giữa nhóm điều trị tế bào
gốc tự thân từ mô mỡ và nhóm chứng . 80
CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN . 90
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu . 90
4.2. Hoàn thiện quy trình chuẩn bị khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ trong
điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính . 91
4.2.1. Quy trình thu gom mỡ và phân lập tế bào gốc từ mô mỡ . 91
4.2.2. Đánh giá khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ ở bệnh nhân bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính ngay sau tách chiết . 94
4.2.3. Đánh giá khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ ở bệnh nhân bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính ngay sau bảo quản và rã đông . 95
4.2.4. Kết quả truyền tế bào gốc tự thân từ mô mỡ . 96
4.2.5. Quy trình chuẩn bị khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ trong điều trị bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính . 97
4.3. Kết quả bước đầu ứng dụng điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính bằng tế
bào gốc tự thân từ mô mỡ . 99
4.3.1. Sự thay đổi lâm sàng ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trước
và sau điều trị tế bào gốc tự thân từ mô mỡ . 99
4.3.2. Sự thay đổi cận lâm sàng ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
trước và sau điều trị tế bào gốc tự thân từ mô mỡ . 103
4.3.3. So sánh sự thay đổi về lâm sàng và cận lâm sàng giữa nhóm điều trị
bằng tế bào gốc tự thân từ mô mỡ và nhóm chứng . 108
KẾT QUẢ .112
KIẾN NGHỊ . 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 116
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
262 trang |
Chia sẻ: vietdoc2 | Ngày: 28/11/2023 | Lượt xem: 281 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Xây dựng quy trình điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính bằng tế bào gốc tự thân từ mô mỡ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p với mức độ bệnh nặng.
4.2. Hoàn thiện quy trình chuẩn bị khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ
trong điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
4.2.1. Quy trình thu gom mỡ và phân lập tế bào gốc từ mô mỡ
92
4.2.1.1. Thể tích mỡ thu được và thời gian thu gom mỡ, phân lập tế bào gốc
từ mô mỡ
30 bệnh nhân BPTNMT thuộc nhóm điều trị TBG tự thân từ mô mỡ đã
được tiến hành thu gom mỡ thành công. Thể tích dịch mỡ thu được trung bình
là 92,67 ± 24,5 ml, trong đó nhỏ nhất là 70ml, lớn nhất là 180ml. Lượng dịch
mỡ thu được phụ thuộc vào vị trí lấy mỡ, độ dày của lớp mỡ dưới da, BMI,
tính chất của tổ chức dưới da. Trong kỹ thuật hút mỡ ở người trưởng thành,
các vị trí hút mỡ gồm mô mỡ dưới da bụng vùng quanh rốn, mặt trên ngoài
mông và mặt trong đùi. Tại Mỹ có khoảng 400.000 ca phẫu thuật hút mỡ mỗi
năm và lượng mỡ trung bình thu được từ 100 ml đến 3000 ml 121. Nghiên cứu
của Aris Sterodimas và Cs (2011) trên 20 đối tượng không có bệnh lý nền, chỉ
bị khuyết tật mô mỡ bẩm sinh hoặc mắc phải ở vùng má với độ tuổi trung
bình 46,3 tuổi, chỉ số BMI 21,6 kg/m2, có lượng mỡ trung bình thu được từ
155 ml đến 165 ml 122. Nghiên cứu của Kazuhiro Toriyama và Cs (2019) trên
16 bệnh nhân có độ tuổi trung bình là 74 tuổi, và BMI là 24,9 kg/m2, cho thấy
độ dày của lớp mỡ dưới da bụng ở rốn trung bình là 18,2 mm trên phim chụp
cộng hưởng từ thì lượng mỡ hút được là 250ml 123. Lượng mỡ thu được ở 30
bệnh nhân BPTNMT trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với các
nghiên cứu trên. Các bệnh nhân trong nhóm điều trị TBG tự thân từ mô mỡ
đều mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở mức độ trung bình đến nặng với độ
tuổi trung bình cao 65,8 ± 5,84 tuổi, đồng thời chỉ số BMI trung bình trong
ngưỡng bình thường là 22,36 ± 2,51 kg/m2, vì vậy lượng mỡ dưới da tại vùng
mông và vùng đùi không nhiều dẫn đến vị trí hút mỡ phù hợp nhất là lớp mỡ
dưới da bụng. Nghiên cứu của de Oliveira và Cs (2017) ở những người trên
30 tuổi cho thấy chỉ số FEV1 càng thấp thì lớp mỡ dưới da bụng càng ít 113.
Nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu trên đối tượng có FEV1 < 60% do đó
lượng mỡ thu được sẽ thấp hơn trên các đối tượng khác. Vị trí hút mỡ ở lớp
mỡ dưới da bụng ngoài là nơi giàu mô mỡ nhất, còn là nơi dễ thu gom mỡ
93
nhất, giúp rút ngắn thời gian làm thủ thuật, giảm thiểu các nguy cơ xảy ra các
biến cố không mong muốn cho bệnh nhân. Điều này được thấy trong nghiên
cứu của chúng tôi trên BN BPTNMT mức độ trung bình và nặng, đối tượng
có nguy cơ cao có thể xảy ra biến cố bất lợi khi làm thủ thuật. Thời gian lấy
mỡ trung bình trong nghiên cứu là 42,3 ± 7,8 phút, trong đó thời gian nhiều
nhất là 60 phút.
4.2.1.2. Biến cố bất lợi của quy trình thu gom mỡ
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% bệnh nhân sau lấy mỡ đều có
đau tại vết mổ. Nhưng hầu hết là mức độ đau nhẹ khi VAS 1 – 3 chiếm 80%.
Bầm tím tại vùng hút mỡ chiếm 43%. Không ghi nhận trường hợp nào bị
phản vệ, sốt, nhiễm trùng hay giảm oxy máu trong quá trình thu gom mỡ. Các
biến cố bất lợi trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn trong nghiên cứu của
Kazuhiro Toriyama và Cs (2019) trên 16 bệnh nhân khi lấy mỡ dưới da bụng
bằng phương pháp gây tê tại chỗ ghi nhận bầm tím nhẹ vùng da tại vị trí hút
mỡ gặp 100%, tê bì gặp ở 62,5%, một số sẹo bất thường gặp 33,5% 123.
Nghiên cứu của Boeni và Cs (2011) trên 4380 bệnh nhân từ năm 2003 đến
2010 được lấy mỡ bằng phương pháp gây tê tại chỗ nhận thấy không có
trường hợp nào có tổn thương thần kinh hay mạch máu, chỉ có 03 bệnh nhân
bị bầm tím tại nơi chọc hút mỡ và chỉ gặp 1 bệnh nhân viêm quanh vị trí lấy
mỡ 124. Các nghiên cứu đã chứng minh thủ thuật lấy mỡ dưới da bụng bằng
phương pháp gây tê tại chỗ là một thủ thuật an toàn. Tuy nhiên, ở bệnh nhân
nhiều tuổi có bệnh lý nền như BPTNMT nên có các phương pháp hỗ trợ giúp
giảm các biến cố như sưng nề, bầm tím, tụ máu, nhiễm khuẩn nơi chọc hút
mỡ như dùng dung dịch tumescent có adrenaline để giảm nguy cơ chảy máu
do có tác dụng co mạch, dùng kim nhỏ, đầu tù giảm chảy máu và tụ máu, đeo
đai băng ép vùng bụng cho bệnh nhân ngay sau chọc hút mỡ, tuân thủ nghiêm
ngặt nguyên tắc vô khuẩn giúp phòng ngừa biến chứng nhiễm trùng sau thủ
thuật.
94
4.2.2. Đánh giá khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ ở bệnh nhân bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính ngay sau tách chiết
Khối TBG sau khi tách chiết được đánh giá tỷ lệ sống chết, đếm số
lượng tế bào có nhân, xác định tỷ lệ tế bào biểu hiện dấu ấn CD34, CD73,
CD90, CD105 và nuôi cấy vi khuẩn, vi nấm. Việc đánh giá nhằm đảm bảo
khối TBG đạt đủ tiêu chuẩn để truyền cho bệnh nhân.
Đánh giá tỷ lệ sống chết được xác định bằng kỹ thuật Trypan blue.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% khối TBG tự thân từ mô mỡ ngay sau
tách chiết có tỷ lệ tế bào sống đạt 99%. Kết quả này tương tự đối với nghiên
cứu của Mai Trọng Khoa và Cs (2014) báo cáo tỷ lệ tế bào sống của các khối
TBG sau phân lập từ mô mỡ đều trên 95% 125, nghiên cứu của Tạ Việt Hưng
và Cs (2016) với tỷ lệ tế bào sống đạt 98% 126. Nghiên cứu của Tsekouras A
và Cs (2017) cũng cho thấy tỷ lệ tế bào sống của khối TBG tách chiết được từ
mô mỡ ở các vị trí hút mỡ khác nhau đều rất cao, từ 94 đến 95% và không có
sự khác biệt đáng kể giữa các vị trí lấy mỡ 127.
Số lượng tế bào có nhân trong 30 khối TBG phân lập được từ mô mỡ
trong nghiên cứu của chúng tôi từ 306,24 đến 1373,76 x 106 tế bào với trung
vị là 402,96 x 106. Tất cả các khối TBG đều đạt tiêu chuẩn nghiên cứu là có
số lượng tế bào có nhân > 300 x 106. Nghiên cứu của Tsekouras A và Cs
(2017) chỉ ra số lượng tế bào có nhân phụ thuộc vào vị trí thu gom mô mỡ.
Trên 40 đối tượng nữ giới với độ tuổi trung bình là 41,5 ± 13,1 tuổi, chỉ số
BMI là 28 ± 0,2 kg/m2 và lượng mỡ trung bình lấy từ vùng eo và bụng là
51,67 ± 1,1 ml thì số lượng tế bào đơn nhân trong khối TBG phân lập được từ
mô mỡ ở vùng bụng trung bình là 8 x 106 tế bào 127. Nghiên cứu của Tạ Việt
Hưng và Cs (2016) phân tích trên 42 mẫu mô mỡ với khối lượng mỡ trung
bình là 154,37 ± 36,61 gam có số lượng tế bào trung bình là 1,5 ± 0,5 x 106 tế
bào/gam mỡ 126. Tsuji W và Cs (2014) có báo cáo về 1 ca lâm sàng thu được
95
295 x 106 tế bào từ 42,3 gam mô mỡ 49. Sự khác biệt giữa các nghiên cứu phụ
thuộc vào vị trí thu gom mỡ và kít phân lập TBG từ mô mỡ.
Các khối TBG từ mô mỡ trong nghiên cứu của chúng tôi được xác định
tỷ lệ các tế bào có biểu hiện dấu ấn CD34 và tỷ lệ các tế bào có biểu hiện dấu
ấn CD73, CD90, CD105. Tỷ lệ tế bào có biểu hiện dấu ấn CD34/tổng số tế
bào có nhân rất nhỏ < 1%. Điều này phù hợp với khối TBG nguồn gốc được
phân lập từ mô mỡ vì dấu ấn CD34 biểu hiện ở các tế bào dòng tạo máu.
Nồng độ các tế bào có biểu hiện dấu ấn CD73, CD90, CD105, là những dấu
ấn đặc trưng của TBG trung mô, có trung vị là 8,4 tế bào/µL. Số lượng MSC
trong khối TBG thu được ngay sau tách chiết là 0,4 x 106 tế bào.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% khối TBG từ mô mỡ ngay sau
tách chiết được nuôi cấy tìm vi khuẩn, vi nấm và kết quả 100% âm tính. Kết
quả này cho thấy quy trình thu gom mỡ và tách chiết TBG từ mô mỡ đảm bảo
vô khuẩn.
Cùng với các nghiên cứu về phân lập TBG từ mô mỡ có thể thấy TBG
từ mô mỡ là một trong những nguồn dễ dàng tiếp cận, tỷ lệ tế bào có nhân khá
cao và tỷ lệ sống của tế bào sau tách chiết cũng rất cao nếu quy trình được
tuân thủ nghiêm ngặt. Việc xử lý mô mỡ được thực hiện ngay lập tức sau khi
thu gom mỡ để giảm tỷ lệ tế bào chết, đồng thời môi trường tiến hành quá
trình tách chiết TBG được kiểm soát vô khuẩn cao.
4.2.3. Đánh giá khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ ở bệnh nhân bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính ngay sau bảo quản và rã đông
Bảo quản lạnh tế bào gốc là phương pháp làm cho khối tế bào gốc
ngừng hoạt động song vẫn giữ được tiềm năng biệt hóa của chúng. Chúng tôi
bảo quản TBG bằng dung dịch 10% DMSO và 10% dextran sau đó hạ lạnh tới
-90 °C bằng máy hạ lạnh theo chương trình tự động. Sau đó bảo quản lạnh ở -
196°C với nitơ lỏng trong vòng 6 tháng. Tại thời điểm sau 6 tháng, quá trình
rã đông được tiến hành ngay sau khi lấy khối TBG ra khỏi ni tơ lỏng bằng
96
cách ngâm ủ trong nước cất đựng trong bể cách thủy ở nhiệt độ 37°C trong
khoảng 1-3 phút. Thời gian rã đông và quá trình tăng nhiệt độ khi rã đông có
ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của TBG. Nghiên cứu của Shahensha Shaik và Cs
(2018) đã cho thấy việc bảo quản lạnh khối TBG từ mô mỡ dài hạn 10 năm và
ngắn hạn từ 3-7 năm đảm bảo được tỷ lệ tế bào sống trên 70%. Tỷ lệ sống của
nhóm TBG từ mô mỡ được bảo quản dài hạn sau khi rã đông là 78% và của
nhóm bảo quản ngắn hạn là 79% và không có sự khác biệt giữa 2 nhóm này
128. Trong nghiên cứu này tác giả bảo quản bằng 10% dung dịch DMSO và
nước muối đệm phosphat sau đó hạ lạnh tới -80 °C với tốc độ 1°C/h. Sau đó
cho vào bảo quản lạnh ở -196°C với nitơ lỏng. Quá trình rã đông không quá 5
phút trong dung môi đã được làm ấm ở nhiệt độ 37 °C. Khi so sánh tiềm năng
biệt hóa của các tế bào gốc sau rã đông ở 2 nhóm TBG từ mô mỡ qua bảo
quản lạnh với nhóm TBG từ mô mỡ tươi bằng cách xác định các dấu ấn
CD34, CD90, CD105, CD44, CD73, không thấy có sự khác biệt đáng kể nào
về dấu ấn miễn dịch 128. Vì không có sự khác biệt rõ ràng nào trong biểu hiện
kiểu hình miễn dịch giữa khối TBG từ mô mỡ sau bảo quản lạnh dài hạn, bảo
quản lạnh ngắn hạn và khối TBG từ mô mỡ tươi, nên có thể kết luận rằng bảo
quản lạnh kéo dài hầu như không ảnh hưởng đến biểu hiện dấu hiệu bề mặt
của ASCs 128. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ sống của tế bào có nhân
trong khối TBG tự thân từ mô mỡ sau bảo quản lạnh là 86,5 ± 6,3 (%) khi xác
định bằng phương pháp Trypan blue, phù hợp các nghiên cứu kể trên. Đồng
thời, sau khi rã đông, chúng tôi cũng nuôi cấy tìm vi khuẩn, vi nấm cho 100%
khối TBG từ mô mỡ và cho kết quả âm tính. Điều này cũng cho thấy quy
trình bảo quản và rã đông khối TBG tự thân từ mô mỡ đảm bảo vô khuẩn, an
toàn sử dụng cho bệnh nhân.
4.2.4. Kết quả truyền tế bào gốc tự thân từ mô mỡ
30 bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi được truyền tĩnh mạch
khối TBG tự thân từ mô mỡ tại hai thời điểm cách nhau 6 tháng. Trong cả 2
97
lần truyền đều không ghi nhận có biến cố bất lợi nghiêm trọng, không có
trường hợp tử vong trong và sau khi truyền cũng như trong thời gian theo dõi
lâu dài. Ở lần truyền thứ 2 sau rã đông khối TBG, chỉ có 2 bệnh nhân có triệu
chứng khó thở thoáng qua trong lúc truyền. Tuy nhiên SpO2 vẫn đạt mức >
90%, xử trí bằng cách giảm tốc độ truyền và thở Oxy gọng mũi 2l/phút. bệnh
nhân hoàn toàn ổn định ngay sau đó và trong thời gian theo dõi tại bệnh viện.
Trên thế giới cũng đã có nhiều báo cáo cho thấy tính an toàn của phương pháp
điều trị TBG cho nhiều bệnh lý nói chung cũng như bệnh phổi nói riêng, trong
đó có BPTNMT. Kết quả của chúng tôi tương đồng với nhiều nghiên cứu
khác trên thế giới về tính an toàn của truyền khối tế bào gốc để điều trị
BPTNMT như nghiên cứu của Weiss và Cs (2013) nghiên cứu khi dùng TBG
đồng loài từ tủy xương để điều trị cho bệnh nhân COPD sau đó theo dõi bệnh
nhân sau 2 năm cũng không có biến cố bất lợi nghiêm trọng cũng như tử vong
78. Nghiên cứu mới công bố của Lê Thị Bích Phượng (2020) trên 20 bệnh
nhân sử dụng TBG từ máu cuống rốn cũng cho thấy tính an toàn, không có
biến cố bất lợi và tử vong 115. Ngoài BPTNMT, cũng có một số nghiên cứu
ứng dụng TBG trong các bệnh phổi khác như ARDS, xơ phổi vô căn, bụi
phổi. Các nghiên cứu này cũng cho các kết quả tương tự về tính an toàn của
liệu pháp tế bào gốc 129. Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng nguồn TBG tự
thân, không nuôi cấy, mà truyền ngay cho bệnh nhân vì vậy nguy cơ phản ứng
thải ghép, ghép chống chủ gần như không có.
4.2.5. Quy trình chuẩn bị khối tế bào gốc tự thân từ mô mỡ trong điều trị
bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
Với kết quả nghiên cứu chúng tôi thu được và phân tích so sánh, liệu
pháp điều trị TBG tự thân từ mô mỡ được chứng minh an toàn trên đối tượng
bệnh nhân BPTNMT mức độ nặng. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa ra các
điểm điều chỉnh, hoàn thiện cho quy trình phân lập TBG tự thân từ mô mỡ
trong điều trị BPTNMT và có được quy trình sử dụng TBG tự thân từ mô mỡ
98
trong điều trị BPTNMT. Do bệnh nhân BPTNMT giai đoạn nặng có nguy cơ
xảy ra các tai biến như suy hô hấp, rối loạn huyết động,... khi can thiệp thủ
thuật nên quy trình khám và sàng lọc cần thực hiện chặt chẽ và thăm dò về
chức năng hô hấp nhiều hơn so với đối tượng bệnh nhân khác. Trong quy
trình thu gom mỡ, bệnh nhân BPTNMT nên thực hiện ở tư thế nằm ngửa và
gây tê tại chỗ giúp giảm thiểu được các nguy cơ suy hô hấp, tụt huyết áp liên
quan đến tư thế cũng như gây mê toàn thân. Bệnh nhân BPTNMT với FEV1
< 60% có tình trạng rối loạn thông khí tắc nghẽn nặng, nếu gây mê toàn thân
có nguy cơ cao suy hô hấp, giảm oxy hóa máu, tụt huyết áp, rối loạn nhịp tim,
dẫn đến trụy mạch, tử vong. Vị trí thu thập mô mỡ là lớp mỡ dưới da bụng
quanh rốn vì phù hợp với tư thế nằm ngửa, kỹ thuật hút mỡ và là nơi có lớp
mỡ dưới da nhiều hơn so với mặt ngoài mông và mặt trong đùi ở bệnh nhân
BPTNMT. Mỡ được thu gom ở tổ chức mỡ dưới da bụng qua chọc hút bằng
kim hút chuyên dụng với đường rạch da nhỏ. Vì vậy, 4h sau chọc hút mỡ (hết
thời gian theo dõi hậu phẫu), bệnh nhân đã vận động sinh hoạt bình thường.
Vết rạch da thường liền, khô, sạch sau 24h và không để lại sẹo sau này. Thời
gian hút mỡ trung bình là 40 phút, không lâu và không gây áp lực tâm lý cho
bệnh nhân. Với lượng mỡ khoảng 100ml thì thời gian lấy mỡ không kéo dài,
gần như vùng bụng lấy mỡ không thay đổi so với trước khi can thiệp và bệnh
nhân hồi phục nhanh. Bệnh nhân BPTNMT ở mức độ bệnh càng nặng,
thường có cân nặng thấp do giảm hấp thu, rối loạn chuyển hóa liên quan cơ
chế bệnh sinh của BPTNMT, dẫn đến lượng mỡ dưới da ít. Vì vậy không nên
chỉ định chọc hút mỡ ở bệnh nhân có chỉ số BMI dưới 18,5 (dưới ngưỡng
bình thường) và nên siêu âm đo độ dày lớp mỡ dưới da đánh giá.
Trong quy trình phân lập TBG từ mô mỡ, chúng tôi đề xuất tăng thời
gian xoa bóp túi dịch mỡ sau được bơm dung dịch AdiStemTM Cell Extraction
Medium từ 5 phút thành 10 – 15 phút và tăng ly tâm 2000 vòng trong 10 phút
để rút ngắn thời gian phân lập mà không làm giảm hiệu suất thu thập. Việc
99
phân lập TBG tự thân từ mô mỡ trong nghiên cứu của chúng tôi mới chỉ dừng
lại bằng phương pháp thủ công sử dụng bộ kít chứa enzyme phân tách. Quy
trình phân tách TBG tiến hành qua nhiều bước nhỏ gồm pha rửa, pha tách, ly
tâm, hòa tan. Điều này đòi hỏi cán bộ thực hiện phải được đào tạo có kĩ năng
tốt, thực hiện cẩn thận, tỉ mỉ, đồng thời quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn phải
chặt chẽ, nghiêm ngặt. Một số phương pháp bán tự động mới được nghiên
cứu nhằm giảm thao tác, giảm thời gian và giàm nguy cơ nhiễm khuẩn khi
phân lập TBG từ mô mỡ. Nghiên cứu của Jonathan và cộng sự (2017) đã so
sánh phương pháp thủ công phân lập TBG từ mô mỡ trong phòng thí nghiệm
với ba thiết bị: GID SVF-1™, Puregraft™ và Stem.pras® và cho thấy ba thiết
bị tương đương về năng suất thu thập tế bào, khả năng tế bào sống. Tuy
nhiên, phân lập TBG từ mô mỡ bằng phương pháp bán tự động cần nghiên
cứu thêm và chi phí còn rất cao.
Trong quy trình bảo quản lạnh TBG, chúng tôi đề xuất sử dụng túi bảo
quản TBG chuyên dụng với thể tích phù hợp với lượng dịch chứa TBG thay
vì phải chia vào nhiều ông cryovial. Túi bảo quản chuyên dụng có hộp thiếc
bảo vệ giúp giảm nguy cơ dịch chứa TBG thoát ra ngoài trong quá trình bảo
quản lạnh và thuận lợi hơn khi rã đôn vì quy trình rã đông cần thao tác nhanh,
tránh tế bào chết.
Việc sử dụng khối TBG tự thân từ mô mỡ bằng truyền tĩnh mạch ít xâm
lấn và ít nguy cơ. Đồng thời sử dụng TBG tự thân tránh được các biến chứng
liên quan đến thài ghép cũng như sử dụng các thuốc chống thải ghép.
4.3. Kết quả bước đầu ứng dụng điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
bằng tế bào gốc tự thân từ mô mỡ
4.3.1. Sự thay đổi lâm sàng ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
trước và sau điều trị tế bào gốc tự thân từ mô mỡ
Điều trị BPTNMT bằng TBG tự thân từ mô mỡ là một phương pháp
điều trị mới không chỉ ở nước ta mà còn trên thế giới, phương pháp này đang
100
trong quá trình nghiên cứu và phát triển. Đây là phương pháp hỗ trợ kết hợp
với điều trị thuốc cơ bản trong BPTNMT. 30 bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi vẫn duy trì điều trị phác đồ thuốc nền khi được điều trị bằng TBG
tự thân từ mô mỡ. Đồng thời, 30 bệnh nhân được theo dõi, đánh giá về các chỉ
số lâm sàng hàng tháng cho đến 12 tháng.
4.3.1.1. Thay đổi về mức độ khó thở và khả năng gắng sức
Thay đổi về mức độ khó thở trước và sau điều trị BPTNMT bằng TBG
tự thân từ mô mỡ được đánh giá bằng thang điểm mMRC. Bệnh nhân tự đánh
giá mức độ khó thở theo 5 mức độ từ 0 đến 4 của thang điểm mMRC. Trong
đó, mMRC ≥ 2 được coi là khó thở mức độ đáng kể, bệnh nhân đi bộ chậm
hơn người cùng tuổi vì khó thở, hoặc phải dừng để thở khi đi cùng tốc độ của
người cùng tuổi trên đường bằng, hoặc ở mức độ nặng hơn. Trong 30 bệnh
nhân điều trị bằng TBG tự thân từ mô mỡ tại thời điểm trước can thiệp có tới
93,33% số BN có mMRC ≥ 2. Theo dõi tại thời điểm 6 tháng sau truyền TBG
lần 1, tỷ lệ này giảm xuống là 43,33% và tại thời điểm kết thúc nghiên cứu
sau 12 tháng, tỷ lệ này giảm còn 40%. Sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê
với p < 0,05 (Bảng 3.15). Kết quả của chúng tôi có sự khác biệt với nghiên
cứu của Squassoni và Cs (2021) trên 5 bệnh nhân được truyền 1 lần TBG từ
mô mỡ với liều 100 x 106 tế bào chưa thấy sự thay đổi về mức độ khó thở
(điểm mMRC) sau 12 tháng theo dõi. Sự khác biệt này có thể do cỡ mẫu của
tác giả trên nhỏ và trong nghiên cứu của chúng tôi có 2 lần truyền TBG tự
thân từ mô mỡ với liều tối thiểu 100 x 106 tế bào cách nhau 6 tháng.
Thay đổi về khả năng gắng sức giữa trước và sau điều trị BPTNMT
bằng TBG tự thân từ mô mỡ được đánh giá bằng khoảng cách đi bộ 6 phút.
Tại thời điểm trước can thiệp, khoảng cách đi bộ 6 phút trung bình là 389,74
± 75,6 mét và tại thời điểm theo dõi 12 tháng sau can thiệp, có sự tăng về
khoảng cách đi bộ 6 phút trung bình là 465,67 ± 75,67 mét, tăng hơn 50 mét
có ý nghĩa thống kê so với trước can thiệp (p < 0,05) (Bảng 3.15). Kết quả có
101
sự khác biệt với nghiên cứu của Squassoni và Cs (2021), theo tác giả này
không thấy có sự khác biệt về khoảng cách đi bộ 6 phút sau 12 tháng ở nhóm
điều trị TBG từ mô mỡ (n=5), nhóm điều trị TBG từ tủy xương (n=5), nhóm
điều trị kết hợp TBG từ mô mỡ và tủy xương (n=5) và nhóm chứng (n=5) 114.
Nghiên cứu của Lê Thị Bích Phượng và Cs (2020) cho thấy có sự cải thiện về
khoảng cách đi bộ 6 phút từ 360 mét tại thời điểm trước điều trị TBG trung
mô từ dây rốn dị sinh tăng lên 380 mét sau 6 tháng theo dõi 115.
4.3.1.2. Thay đổi về ảnh hưởng lên chất lượng cuộc sống
Bộ câu hỏi CAT và bộ câu hỏi SGRQ được dùng để đánh giá về ảnh
hưởng của BPTNMT lên sức khỏe và chất lượng cuộc sống trong nghiên cứu
của chúng tôi. Bộ câu hỏi CAT giúp lượng hóa các triệu chứng lâm sàng của
bệnh nhân thành các mức độ tương ứng với các mức điểm từ 0 đến 5 trong 8
lĩnh vực: ho, khạc đờm, nặng ngực, khó thở, hạn chế hoạt động, yên tâm ra
khỏi nhà, giấc ngủ và sức khỏe chung. Trong đó, điểm CAT từ 10 – 20 điểm
thể hiện bệnh gây ảnh hưởng nhẹ, từ 21 – 30 điểm thể hiện bệnh gây ảnh
hưởng mức độ trung bình, từ 31 – 40 điểm thể hiện bệnh gây ảnh hưởng nặng.
Trong nhóm BN điều trị bằng TBG từ mô mỡ, theo dõi 12 tháng sau can thiệp,
điểm CAT trung bình giảm từ 23,1 ± 5,99 trước can thiệp xuống 15,27 ± 4,51
có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 (Bảng 3.16). Tỷ lệ bệnh nhân có điểm CAT
> 20 tại thời điểm trước can thiệp cũng giảm từ 20 BN (66,7%) xuống 3 bệnh
nhân (10%) tại thời điểm sau can thiệp 12 tháng (p < 0,05) (Bảng 3.16). Điều
này cho thấy co sự cải thiện về triệu chứng và mức độ ảnh hưởng của
BPTNMT sau can thiệp điều trị. Bộ câu hỏi Saint George (SGRQ) là một
công cụ toàn diện giúp đánh giá ảnh hưởng của BPTNMT lên chất lượng cuộc
sống, mức điểm SGRQ càng cao càng thể hiện mức độ ảnh hưởng và suy
giảm nhiều về chất lượng cuộc sống. Điểm tổng SGRQ trung bình của nhóm
bệnh nhân điều trị TBG tự thân từ mô mỡ giảm có ý nghĩa tại thời điểm theo
dõi 6 tháng sau truyền TBG lần 1 và cải thiện thêm tại thời điểm theo dõi 6
102
tháng sau truyền TBG lần 2 tương ứng từ thời điểm trước can thiệp là 56,06 ±
15,59 xuống 39,54 ± 11,3 và 35,79 ± 10,4 (Bảng 3.17). Kết quả này tương
đồng với nghiên cứu của Squassoni và Cs (2021) cho thấy tại thời điểm sau
điều trị 3 tháng ở nhóm điều trị bằng TBG từ mô mỡ và nhóm điều trị đồng
thời TBG từ mô mỡ và tủy xương có sự cải thiện về điểm SGRQ, tại thời
điểm sau điều trị 6 tháng và 9 tháng ở nhóm điều trị đồng thời TBG từ mô mỡ
và tủy xương tiếp tục thấy sự cải thiện về điểm SGRQ 114. Nghiên cứu của
Comella và Cs (2017) cũng ghi nhận sự cải thiện có ý nghĩa thống kê ở cả
thời điểm 3 và 6 tháng sau khi điều trị TBG tự thân từ mô mỡ trên 12 bệnh
nhân với điểm SGRQ tại thời điểm ban đầu là 73 cải thiện còn 44 ở thời điểm
6 tháng sau khi điều trị (n = 7, P = 0,008) 120.
4.3.1.3. Thay đổi về chỉ số BODE
Chỉ số BODE là một chỉ số tổng hợp các khía cạnh về mức độ khó thở
(mMRC), chức năng hô hấp (FEV1%), khoảng cách đi bộ 6 phút, thể trạng
(BMI). Chỉ số BODE giúp tiên lượng tỷ lệ sống còn trong tương lai ở bệnh
nhân BPTNMT. Chỉ số BODE càng lớn thì tiên lượng càng kém, khi chỉ số
BODE ≥ 7 thì tiên lượng sống sau 4 năm chỉ còn dưới 20%. Tại thời điểm ban
đầu, tỷ lệ BN thuộc nhóm điều trị TBG tự thân từ mô mỡ có chỉ số BODE ≥ 7
rất thấp (1 bệnh nhân) và có 8 bệnh nhân có chỉ số BODE 5 – 6 tương đương
với tỷ lệ sống sau 4 năm chỉ xấp xỉ 57% (Bảng 3.18). Tại thời điểm theo dõi 6
tháng và 12 tháng sau truyền TBG tự thân từ mô mỡ, không có bệnh nhân nào
có chỉ số BODE ≥ 7 và giảm tương ứng tại các thời điểm trên còn 4 bệnh nhân
và 2 bệnh nhân có chỉ số BODE 5 – 6. Điều này cho thấy có sự tăng tỷ lệ sống
sau 4 năm ở bệnh nhân BPTNMT được điều trị TBG tự thân từ mô mỡ.
4.3.1.4. Thay đổi về tần suất đợt cấp
Tần suất đợt cấp trong 12 tháng trước là một yếu tố độc lập tiên lượng
nặng và tử vong ở bệnh nhân BPTNMT. Các bệnh nhân BPTNMT có từ 1 đợt
cấp nhập viện hoặc từ 2 đợt cấp không nhập viện trở lên được xếp vào nhóm
103
nguy cơ cao. Tại thời điểm trước can thiệp, trung vị số đợt cấp của 30 bệnh
nhân BPTNMT thuộc nhóm điều trị TBG tự thân từ mô mỡ là 2 đợt cấp trong
12 tháng trước, trong đó 3 bệnh nhân có nhiều nhất 5 đợt cấp trong 12 tháng
trước và 1 bệnh nhân có nhiều nhất 4 đợt cấp nhập viện trong 12 tháng trước.
Tại thời điểm theo dõi sau 12 tháng, trung vị số đợt cấp trong 12 tháng của
nhóm bệnh nhân truyền TBG tự thân từ mô mỡ là 0 đợt cấp (giá trị thấp nhất
là 0 đợt cấp, giá trị nhiều nhất là 2 đợt cấp), trong đó 23/30 bệnh nhân không
có đợt cấp nào trong 12 tháng theo dõi (p < 0,05) (Bảng 3.19). Nghiên cứu
của Lê Thị Bích Phượng và Cs (2020) cũng chỉ ra giảm số đợt cấp tại thời
điểm 6 tháng sau điều trị TBG trung mô từ dây rốn dị sinh. Giảm tần suất đợt
cấp trong 12 tháng có ý nghĩa lâm sàng rất lớn không chỉ giảm nguy cơ diễn
biến nặng và tử vong, mà còn giảm gánh nặng về kinh tế - xã hội.
Qua đánh giá về sự thay đổi lâm sàng ở BN BPTNMT trước và sau điều
trị TBG tự thân từ mô mỡ, có thể thấy liệu pháp điều trị TBG tự thân từ mô
mỡ bước đầu có hiệu quả giảm mức độ triệu chứng, giảm mức độ khó thở, cải
thiện khả năng gắng sức, cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, tuy
nhiên với cỡ mẫu nghiên cứu của chúng tôi còn nhỏ và chưa có nhiều nghiên
cứu tương tự để so sánh, vẫn cần thêm các nghiên cứu để có thể chứng minh
hay kết luận về hiệu quả lâm sàng của phương pháp này cũng như thời gian
duy trì được hiệu quả lâm sàng trong tương lai.
4.3.2. Sự thay đổi cận lâm sàng ở bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
trước và sau điều trị tế bào gốc tự thân từ mô mỡ
4.3.2.1. Thay đổi về chức năng hô hấp
Chỉ số FEV1 được đánh giá là yếu tố dự đoán độc lập về tử vong.
Những bệnh nhân có chỉ số FEV1 thấp nhưng mức giảm FEV1 qua các năm
chậm có khả năng sống sót cao hơn những bệnh nhân mặc dù chỉ số FEV1
ban đầu cao nhưng mức giảm FEV1 qua các năm lớn. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, các bệnh nhân được đo chức năng hô hấp tại các thời điểm trước
104
can thiệp, 6 tháng sau truyền TBG lần 1 và 6 tháng sau truyền TBG lần 2.
Chúng tôi không kỳ vọng nhiều vào việc điều trị TBG tự thân từ mô mỡ có
thể cải thiện được nhiều về chức năng hô hấp. Trong nghiên cứu của chúng
tôi, có sự cải thiện ít về chỉ số FEV1 trung bình sau 1 năm theo dõi trong
nghiên cứu, từ 0,98 lít lên 1,04 lít tương ứng tăng FEV1% từ 39,63% lên
43,81% (p < 0,05) (Bảng 3.20), nhưng lại có ý nghĩa quan trọng đối với bệnh
nhân BPTNMT. Bên cạnh đó, chỉ số FVC trung bình tăng nhẹ 18ml (5,74%)
tại thời điểm theo dõi 12 tháng so với thời điểm trước can t