MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN
NỘI DUNG LUẬN VĂN 5
1.1. Khái niệm về ẩn dụ 5
1.2. Các kiểu ẩn dụ 9
1.3. Đặc điểm của ẩn dụ tu từ 17
1.4. Một số nét khái quát về nhà thơ Tố Hữu 23
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU 29
2.1. Thống kê, phân loại về ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu 29
2.2. Tính chất của hình ảnh ẩn dụ trong thơ Tố Hữu 51
Chương 3: CHỨC NĂNG CỦA ẨN DỤ TRONG THƠ TỐ HỮU 60
3.1. Chức năng xây dựng hình tượng 60
3.2. Chức năng biểu cảm 69
3.3. Chức năng thẩm mỹ 75
3.4. Chức năng nhận thức 81
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
PHỤ LỤC 99
123 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3790 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụ xuyên suốt sáng tác của Tố Hữu. Biểu tượng mùa xuân thấm sâu, có sức lan
tỏa mạnh trong thơ của người thi sĩ cộng sản. Mùa xuân không chỉ là hình ảnh
của không gian, thời gian, xuân trong thơ Tố Hữu còn mang ý nghĩa biểu trưng
cho cái đẹp, cho sức mạnh của tuổi trẻ, cho tương lai tươi sáng của dân tộc, cho
những con người đẹp đẽ, kiên trung, cho niềm vui ngập tràn hạnh phúc, và rộng
lớn hơn là xuân của thời đại, của kỉ nguyên mới xã hội chủ nghĩa. Cả một thế
giới xuân đầy ắp sức sống trong 34 bài thơ với muôn sắc điệu: buổi xuân đào,
vườn đầy xuân, đào xuân thắm, bạc xuân rắc, mùa xuân lại nhà, xuân của
chúng ta, xuân của lòng dũng cảm, xuân đang vẽ, một khúc ca xuân, ta vẫn là
xuân, xuân ơi !…Mỗi hình ảnh gợi một liên tưởng sâu xa và thú vị.
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng, thơ ông là tiếng nói chung của dân tộc,
của thời đại. Đất nước kinh qua hai cuộc kháng chiến thần thánh và đã đóng
những dấu son chói lọi với những chiến công hiển hách. Thời đại này cũng đã
sản sinh ra biết bao người con anh hùng, những "chàng Thạch Sanh của thế kỉ
hai mươi". Do đó, cảm hứng ngợi ca cách mạng là cảm hứng chủ đạo của thơ
Tố Hữu. Với nguồn cảm xúc ấy, lẽ tự nhiên, thơ Tố Hữu phải tìm đến những
hình ảnh mang kích cỡ lớn lao, kỳ vĩ, huyền thoại. Có thể nói, cảm hứng nghệ
thuật là yếu tố chi phối cách lựa chọn kiểu hình ảnh ẩn dụ tu từ trong thơ Tố
Hữu. Và chính kiểu hình ảnh ẩn dụ ấy cũng đã góp phần tạo nên một phong
cách thơ mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng.
2.2.3. Tạo lập ẩn dụ với những hình ảnh trong thế giới tự nhiên
thân thuộc, gần gũi với con ngƣời và quê hƣơng, đất nƣớc.
Tố Hữu là người con của xứ Huế, miền đất nổi tiếng thơ mộng, trữ
tình. với biết bao hình ảnh tươi đẹp của cảnh vật và con người đã đi vào thơ
ca, nhạc họa. Dường như, chất Huế đã thấm vào tâm hồn, máu thịt của thi sĩ
trên mỗi trang thơ. Xem xét các hình ảnh ẩn dụ thơ ông người đọc dường như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
được sống giữa không gian Huế, cảm xúc Huế. Đã bao lần Tố Hữu cất lên
tiếng gọi tha thiết, đau đáu và cháy bỏng của hồn mình: Nỗi niềm chi rứa,
Huế ơi !, Hương Giang ơi, dòng sông êm. Hình ảnh Huế đã được nhà thơ
nhân hóa tựa như hình ảnh của một người mẹ tảo tần, người yêu chung thủy
để từ đó nhà thơ cất lên tiếng gọi da diết. Huế và dòng sông quê hương ấp ủ
bao tình thương nỗi nhớ. Và khi ông bước chân ra đời, thì như một lẽ tự
nhiên, không gian quê hương từ xứ Huế đã trải rộng trên khắp nẻo đường
kháng chiến. Có biết bao những cái tên thân thương được cất lên như: Hòn
Nẹ, Hanh Cát, Hanh Cù, Tây Nguyên, Sài Gòn…Dường như đó không còn
chỉ là những cái tên ghi trong bản đồ địa lí, lịch sử mà nó đã trở thành những
tâm hồn, những mảng đời gắn bó máu thịt với nhà thơ. Biết bao cảm xúc thân
thương, sâu nặng khi ông gọi tên mảnh đất mà mấy mươi năm trước đã từng
cưu mang, che chở cho những đứa con chiến sĩ: Hòn Nẹ ta ơi, mảng về chưa
đó/ Nhớ nhau chăng hỡi Hanh Cát, Hanh Cù ?, hay khi ông cất tiếng gọi Tây
Nguyên anh dũng, trung kiên: Tây Nguyên ơi ! Bước truân chuyên Và nhức
nhối, băn khoăn, day dứt trong lời hoài vọng: Sài Gòn ơi, lại phải đi bao ngày
?. Nghệ thuật nhân hóa góp phần tạo cho tiếng thơ của Tố Hữu thân thương,
ruột rà hơn bội phần. Ngoài ra, tâm hồn người đọc còn được rong ruổi cùng
nhà thơ trên mọi miền đất nước cùng những nỗi niềm riêng khó nói thành
lời… Và biết bao tên đất, tên làng, tên núi, tên sông của nước non yêu dấu
này đã đi về trong thơ ông như một niềm day dứt khôn nguôi.
Màu sắc gợi cảm của những hình ảnh ẩn dụ gần gũi thân thương, giàu
cảm xúc cũng là một cơ sở để khiến cho thơ Tố Hữu mang khuynh hướng của
thơ trữ tình - chính trị.
2.2.3. Tạo lập ẩn dụ với những hình ảnh thơ tràn đầy cảm xúc
trạng thái mạnh mẽ, say mê, trẻ trung, giầu nhiệt huyết
Một tính chất nổi bật khác nữa không thể không kể đến của ẩn dụ
trong thơ Tố Hữu là sự xuất hiện của hàng loạt hình ảnh ẩn dụ gợi cảm xúc,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
trạng thái mạnh mẽ, mê say như: say mùi hương chân lí, hồn ta chạy, lòng ta
múa, mắt Bác Hồ cười, lửa vui, chim reo, gà mừng, gió lộng, mạch suối trẻ,
rung rinh quả ngọt, không gian hồng, rạo rực muôn màu sắc, đường thơm
tho, đường óng ả, ga hồng đôi má…
Chẳng hạn, khi nói về lý tưởng cách mạng, nhà thơ đã có những sáng
tạo hết sức độc đáo:
Khi đã say mùi hương chân lí
(Như những con tàu)
Hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày
(Tâm tư trong tù)
Chân lí, tự do là những khái niệm trừu tượng nhưng đã được nhà thơ
gắn cho chúng một mùi hương. Nhà thơ khi ấy đang là một chàng thanh niên
say mê lý tưởng, giầu cảm xúc, nhiệt huyết đã cảm nhận được tất cả sự thơm
tho, tinh khiết tuyệt diệu của nó. Ở đây, phép chuyển đổi cảm giác làm cho
những tư tưởng cách mạng vốn mang tính chính trị khô khan trở nên hấp dẫn,
say cuốn hơn. Con người như ngây ngất, đắm say trong hương thơm ngào
ngạt. Phải chăng, đó là vẻ đẹp và sức hấp dẫn của lý tưởng cách mạng và cuộc
sống tự do? Không chỉ những khái niệm trừu tượng, mà cả những cảnh,
những vật quen thuộc trong đời cũng được cảm nhận thông qua sự chuyển đổi
cảm giác tài tình của nhà thơ:
Đường thơm tho như mật bọng trưa hè
(Hy vọng)
Từ những hình ảnh thị giác, nhà thơ lại cảm được những cảm nhận
của vị giác như hương thơm ngọt ngào của đường thơm tho. Chính sự chuyển
đổi này làm cho cảnh vật như được bao bọc trong hương thơm. Con đường
vàng, thơm mùi lúa chín, mùi rơm rạ ven đường, hương thơm của hoa đồng
cỏ nội và cả hương vị trong tưởng tượng của một tâm hồn lãng mạn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
Tố Hữu cũng có nhiều hình ảnh ẩn dụ nhân hóa kết hợp với ẩn dụ chuyển
đổi để đem đến những cảm xúc mạnh mẽ, trẻ trung, tràn đầy khí huyết:
Hồn ta chạy sáng ngời trên ngọn đuốc
Lòng ta múa lồng lên theo đám rước
(Vui bất tuyệt)
Niềm vui chiến thắng - niềm vui bất tuyệt ùa về làm xôn xao, rạo rực
những dòng thơ. Động từ chạy và múa được nhà thơ gắn cho hồn ta và lòng ta
thật sống động. Hàng loạt hình ảnh, sắc màu lộng lẫy, động tác mạnh mẽ, âm
thanh sôi động đã diễn tả một niềm vui lớn đang trào dâng trong tâm hồn, cảm
xúc của con người.
Chính những hình ảnh ẩn dụ tràn đầy cảm xúc như thế cũng đã góp
phần làm cho tiếng thơ Tố Hữu trở thành tiếng nói của những "tình cảm lớn,
niềm vui lớn" giữa cuộc sống lớn lao của dân tộc.
2.2.4.Tạo lập hình ảnh vật hóa để miêu tả bản chất của kẻ thù
Như phần khảo sát ở mục 2.1, Tố Hữu cũng sử dụng nhiều hình ảnh
ẩn dụ vật hóa. Những hình ảnh này được sử dụng tập trung với nội dung biểu
đạt bản chất xấu xa của kẻ thù: bầy chó dữ, bầy sói tanh hôi, quỷ dữ, thằng dạ
chó, hùm sói, lũ diều hâu, lũ sói beo, quạ đen, lũ chó đê hèn và lũ vật tanh
hôi…Ở đây, những đặc tính của các loài thú dữ đã được gán cho quân giặc
cướp nước và bè lũ bán nước để thể hiện sự hung bạo, tàn ác của chúng, đồng
thời diễn tả thái đội coi thường, khinh bỉ và căm giận của nhà thơ. Tuy nhiên,
đây cũng là những môtíp ẩn dụ quen thuộc mang tính cũ mòn, không phải là
những ưu thế nổi bật của phép ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu.
TIỂU KẾT
Qua khảo sát và phân loại ẩn dụ trong thơ Tố Hữu, ta nhận thấy ẩn dụ
tu từ trong thơ ông có một số đặc điểm:
Ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu xuất hiện với nhiều kiểu loại đa dạng.
Nổi bật nhất phải kể đến ẩn dụ hình tượng, trong đó ẩn dụ chỉ đặc điểm, tính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
59
chất xuất hiện nhiều hơn cả. Ẩn dụ bổ sung và biến thể của ẩn dụ như nhân
hóa và vật hóa cũng chiếm một tỉ lệ khá lớn… Phương thức tu từ ấy có mặt
trên các trang thơ với mức độ và hiệu quả thẩm mỹ khác nhau. Nó góp phần
thể hiện đời sống tâm hồn phong phú, tinh tế của nhà thơ.
Ẩn dụ tu từ mang tính sáng tạo riêng của người viết. Cùng chỉ một đối
tượng nhưng trong ngữ cảnh khác nhau, ở mỗi tác giả và trong mỗi thời đại
lại có những cách diễn đạt khác nhau. Chính điều đó góp phần làm phong phú
diện mạo văn học của mỗi dân tộc. Thi nhân xưa và nay thường nói đến sóng
tình, thuyền tình hay thuyền trăng. Còn Tố Hữu lại nói sóng cách mạng hay
thuyền cách mạng. Nếu trong ca dao trữ tình, hình ảnh mặt trời thường được
ví với trái tim nóng bỏng tình yêu đôi lứa: Thấy anh như thấy mặt trời thì nhà
thơ của lý tưởng cộng sản lại dùng hình ảnh mặt trời để chỉ tình cảm đối với
lý tưởng cách mạng và thời đại. Ẩn dụ tu từ in đậm dấu ấn trong suốt 7 tập
thơ của người thi sĩ cách mạng, nó xuất hiện hầu hết trên trong các bài thơ và
trên mỗi trang thơ.
Trước sau, tiếng thơ Tố Hữu luôn kiên định với lý tưởng cách mạng
mà ông trọn đời dâng hiến. Ông là nhà thơ cách mạng, nhà thơ của lý tưởng
cộng sản. Ông say sưa ca ngợi lý tưởng, ca ngợi Đảng vĩ đại và nhân dân anh
hùng, ca ngợi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Mọi biểu hiện nghệ
thuật của thơ ông đều quy tụ về tâm điểm này. Ẩn dụ tu từ trong các tập thơ
cũng không nằm ngoài quỹ đạo ấy. Điều đó được thể hiện ở trở đi trở lại của
một số hình ảnh ẩn dụ chủ đạo trong các tập thơ. Đặc biệt là sự thống nhất của
một số tính chất trong các hình ảnh ẩn dụ của thơ ông. Đó là chuỗi hình ảnh
ẩn dụ thuộc về thế giới tự nhiên có tầm vóc lớn lao, kỳ vĩ, mang màu sắc sử
thi, huyền thoại. Hay chuỗi hình ảnh ẩn dụ mang thuộc tính bền vững, có giá
trị vĩnh cửu. Và những hình ảnh ẩn dụ tràn đầy cảm xúc trạng thái mạnh mẽ,
say mê, trẻ trung, giầu nhiệt huyết. Những tính chất này không chỉ thể hiện
những nét sáng tạo riêng của ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu mà từ đó còn cho
thấy đặc điểm nổi bật của phong cách thơ Tố Hữu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
60
Chương 3
CHỨC NĂNG CỦA ẨN DỤ TRONG THƠ TỐ HỮU
Ẩn dụ tu từ là một cấu tạo ngôn ngữ hết sức mềm dẻo. Quy luật
biểu hiện của nó là cách nói có vẻ xa xôi bóng gió và kín đáo nhưng lại rất
gần, rất cụ thể, công khai và rõ ràng. Không gọi thẳng tên đối tượng nhưng
nó lại nói được rất nhiều về đối tượng. Đó là quy luật của một lối diễn đạt
lấy cực nọ để biểu hiện cực kia; lấy xa nói gần, lấy vòng nói thẳng; lấy kín
nói hở, lấy ít nói nhiều.
Ẩn dụ tu từ khai thác khả năng biểu hiện của các đơn vị ngôn ngữ,
thông qua thao tác lựa chọn và thao tác kết hợp trong quá trình tổ chức và cấu
trúc văn bản. Các từ ngữ liên quan với nhau và tạo ra nội dung ngữ nghĩa của
toàn cấu trúc, khác với nghĩa của từng yếu tố riêng lẻ. Sẽ không lĩnh hội được
ý nghĩa sâu xa và tiềm ẩn của lời thơ nếu các từ ngữ được sử dụng trong ẩn dụ
tu từ lại nằm ngoài văn cảnh, ngoài cấu trúc văn bản. Chính cách thể hiện đặc
biệt ấy đã góp phần tạo cho thơ ca những khả năng kì diệu.
Là hình thức hiện đại của thơ tiếng Việt, thơ Tố Hữu "mở cửa cho những
tiếng lòng gần gũi, mang cái hổn hển, dào dạt của đời vào thơ. Nó mở cửa cho
tiếng nói hàng ngày, chất văn xuôi đủ cung bậc, lĩnh vực có thể vào thơ. Nó mở
cửa thông sang truyền thống dân gian. Nó mở ra cho các hình thức tư duy mới
mẻ, cho phép sử dụng các ẩn dụ, liên tưởng đầy nghịch lí bất ngờ. Và dĩ nhiên,
nó cho phép cá tính nhà thơ bộc lộ rõ nét hơn bao giờ hết" [51, tr. 186]. Ẩn dụ tu
từ đã đem lại cho thơ Tố Hữu vẻ đẹp độc đáo, bất ngờ và đầy sức lôi cuốn. Có
thể nhận thấy một số chức năng quan trọng của ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu.
3.1. CHỨC NĂNG XÂY DỰNG HÌNH TƢỢNG
Hình tượng nghệ thuật là bức tranh sinh động của cuộc sống được xây
dựng nhờ trí tưởng tượng, óc sáng tạo và cách đánh giá của người nghệ sĩ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
61
trước thế giới. Mỗi loại hình nghệ thuật có cách xây dựng hình tượng khác
nhau. Âm nhạc dùng âm thanh, điêu khắc dùng đường nét và hội họa dùng
màu sắc… Còn trong thơ ca: "Hình tượng thơ là một bức tranh sinh động và
tương đối hoàn chỉnh về cuộc sống được xây dựng bằng một hệ thống các đơn
vị ngôn ngữ có tính chất vần, điệu với trí tưởng tượng sáng tạo và cách đánh
giá của người nghệ sĩ" [12, tr. 100]. Trên cơ sở chất liệu ngôn từ, hình tượng
nghệ thuật trong các tác phẩm đã cho ta những hình ảnh hiển hiện, sống động
của cuộc sống và thế giới tâm hồn phong phú của con người. Nếu việc tạo
dựng hình tượng nghệ thuật trong thơ văn của người cầm bút cũng tựa như
việc tỉ mỉ đẽo gọt một bức phù điêu của nhà điêu khắc thì ẩn dụ chính là
những nét chạm khắc xuất thần làm cho hình tượng hiện lên luôn luôn sống
động và đầy biến ảo. Ẩn dụ đã cho thấy sự liên tưởng tinh tế của người nghệ
sĩ tới những điểm giống nhau giữa các đối tượng mà trong thực tế chúng có
thể rất cách biệt để tạo nên sự bất ngờ, mới lạ, hấp dẫn trong bản thân những
cái vốn quen thuộc quanh ta. Nghĩa ẩn dụ bao giờ cũng bóng bẩy, mềm mại,
giàu hình ảnh với những hàm ý mà người đọc phải suy ra mới hiểu được. Và
có thể nói, Tố Hữu cũng là một người thợ tài hoa khi sử dụng các hình ảnh ẩn
dụ để tạo dựng hình tượng nghệ thuật. Nhờ có ẩn dụ tu từ mà có thể diễn đạt
ngắn gọn, cô đọng và súc tích điều mình muốn nói.
Chẳng hạn, Tố Hữu đã dùng hình ảnh mùa xuân để gợi tả không khí tưng
bừng, khởi sắc của miền Bắc trong những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Xuân ơi xuân em mới đến năm năm
Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội
(Bài ca mùa xuân 1961)
Xuân trong câu thơ trên được Tố Hữu dùng để gọi chủ nghĩa xã hội.
Mùa xuân là mùa đầu của một năm, mùa vạn vật sinh sôi nảy nở, mùa của
những lễ hội rộn rã, tưng bừng…Có thể nói, đó là mùa tươi đẹp nhất trong
năm. Còn chủ nghĩa xã hội lại là một khái niệm trừu tượng. Cuộc sống mới
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
62
với những đổi thay lớn lao mà chủ nghĩa xã hội đem đến cho miền Bắc khó có
thể diễn tả trong một câu, một đoạn thậm chí một bài. Vậy mà, chỉ với một
hình ảnh mùa xuân Tố Hữu đã nói được tất cả: Sắc màu tươi mới tràn đầy sức
sống của hoa lá, cỏ cây, con người, vạn vật; không khí tưng bừng, rộn ràng,
náo nức của một ngày hội lớn, và sâu xa hơn nữa, là một cuộc sống đầy tương
lai, hứa hẹn những ngày mai ấm no hạnh phúc.
Còn khi viết về miền Nam chia cắt dưới gót thù xâm lược, Tố Hữu lại
dùng hình ảnh cành lá quế. Cành quế đã lìa cây, rời cội, héo khô, cạn kiệt
nhựa sống mà chẳng thể nhạt phai vị thơm cay, ngọt bùi. Cũng như miền Nam
đi trước về sau, đau thương mà quật cường, anh dũng. Có thể nói, đây là một
hình ảnh thơ có sức gợi lớn:
Hương đâu thơm lựng rừng hè
Nhặt cành lá quế mà tê tái lòng
Trà My đây, hỡi Trà Bồng
Có hay cây quế đợi trông tháng ngày?
Nâng cành quế héo trên tay
Càng thương quế ngọt càng cay cùng người!
(Nước non ngàn dặm)
Ta cũng bắt gặp hình tượng miền Nam chiến đấu trong một hình ảnh
gần gũi, thân thương - chiếc mũ tai bèo của anh phóng quân:
Ôi cái mũ vải mềm dễ thương như một bàn tay nhỏ
Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành
Sáng trên đầu như một mảnh trời xanh
Mà xông xáo, mà tung hoành ngang dọc
Mạnh hơn tất cả đạn bom, làm run sợ cả
Lầu năm góc!
(Bài ca xuân 68)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
63
Chiếc mũ tai bèo đã cùng anh giải phóng quân tung hoành ngang dọc
trên khắp chiến trường chống Mĩ. Chiếc mũ ấy nhỏ bé, hiền lành dễ thương
như một bàn tay nhỏ, chẳng làm đau một chiếc lá trên cành nhưng nó cũng
lớn lao, thần kì, nó có thể làm nên những kì tích vang dội năm châu, chấn
động địa cầu, làm run sợ cả lầu năm góc. Chiếc mũ tai bèo vừa là biểu tượng
của lòng nhân ái vừa là biểu tượng của lòng dũng cảm vô song. Nó chính là
ẩn dụ của phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ trong thời đại chống Mĩ, những chàng
Thạch Sanh đã viết nên những huyền thoại đẹp của thế kỉ XX.
Biểu tượng miền Nam - thành đồng Tổ quốc còn được Tố Hữu khắc họa
trong nhiều hình ảnh ẩn dụ khác như: người lính đi đầu, trái tim làm ngọn lửa...
Mỗi hình ảnh lại gợi một nét riêng, đem đến một sắc điệu thẩm mỹ riêng,
song nhìn chung đều tập trung khắc họa một miền Nam kiên trung, bất khuất,
nhân hậu và giàu hi sinh, một miền Nam đã tỏa sáng trên đài chiến thắng.
Khi nói đến những ẩn dụ trong thơ Tố Hữu, hẳn người ta sẽ nghĩ ngay
đến hình ảnh trái tim. Đây là một hình ảnh ẩn dụ trở đi trở lại trong nhiều bài
và nhiều tập thơ của ông. Trái tim, nơi hội tụ của khí huyết, đã được nhà thơ
lấy làm một biểu tượng đẹp của tình yêu, của bầu máu nóng tràn đầy nhiệt
tình cách mạng. Ở những dòng thơ viết về xứ Huế, thi sĩ đã để ngỏ lòng mình
nơi trái tim đang đập những nhịp đập yêu thương tha thiết:
Hương giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình
(Bài ca quê hương)
Rồi khi viết về sức mạnh bách chiến bách thắng của dân tộc trong
cuộc Cách mạng Tháng tám, Tố Hữu lại khắc họa hình ảnh trái tim hồng vụt
chói sáng trong vồng ngực của chàng lực sĩ:
Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh
Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời
(Huế tháng Tám)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
64
Tim bỗng hóa mặt trời là một hình ảnh ẩn dụ đẹp, kỳ vĩ, mang màu
sắc sử thi, huyền thoại. Nó thể hiện sức vươn dậy kì diệu của đất nước, của
mỗi cá nhân anh hùng ở cái khoảnh khắc đáng nhớ của lịch sử.
Trái tim của Tố Hữu trong thơ là biểu tượng của sự hội tụ với biết bao
cung bậc cảm xúc. Ở đấy là một khối hồng dồn nén cảm xúc yêu thương:
Ta biết em rất khỏe, tim ơi!
Không khóc đấy. Nhưng mà sao nóng bỏng
(Bài ca mùa xuân 1961)
Trái tim ấy không chỉ mang nhịp đập của một tấm lòng thi sĩ mà còn
thức đập với bao nỗi khổ, niềm vui của những cuộc đời.
Hay trái tim giàu khát vọng, muốn dâng hiến cho đất nước, quê
hương. Trái tim yêu thương, trái tim nhân hậu mà Đảng đã cho mỗi con người
trong cuộc sống này. Những cung bậc cảm xúc ấy được gửi trong hình ảnh:
trái tim giàu dồn nén nhiều cảm xúc. Đó là trái tim biết yêu thương "người
yêu người sống để yêu nhau":
Đảng cho ta trái tim giàu
Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay !
(Bài ca mùa xuân 1961)
"Trái tim" ấy còn nhức nhối, quặn đau vì Miền Nam máu chảy:
Có thể nào yên ? Miền Nam ơi máu chảy
Tám năm rồi. Sáng dậy, giữa bình minh
Tim lại đau, nhức nhối nửa thân mình
(Có thể nào yên ?)
Trái tim nhói đau niềm cô đơn, trống vắng của người thi sĩ trước cuộc
đời dâu bể:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
65
Có khổ đau nào đau khổ hơn
Trái tim tự xát muối cô đơn
(Một tiếng đờn)
Trái tim ân tình, ân nghĩa với anh em, đồng chí đã soi đường chỉ lối
cho con người trong mọi hoàn cảnh:
Mây dày không thấy đâu trời đất
Mà trái tim ta chẳng lạc đường
(Về chiến khu xưa)
Khi trái tim lớn ấy mang biểu tượng của lãnh tụ thì nó lớn lao, có sức
ôm trùm tất cả:
Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ
(Sáng tháng năm)
Và khi trái tim là biểu tượng của Tổ quốc Việt Nam thì nó thật vĩ đại
và ngời sáng ánh hào quang của những giá trị vĩnh cửu:
Ôi ! Việt Nam, đất nước nghĩa tình
Trái tim lớn yêu Chân Thiện Mĩ
(Chào xuân 99)
Cùng với hình ảnh trái tim, hình ảnh con đường cũng được sử dụng
nhiều lần trong thơ Tố Hữu để đem đến những biểu tượng giầu ý nghĩa. Có
khoảng trên 30 lần hình ảnh này xuất hiện. Ví dụ:
(1) Đường thơm tho như mật bọng trưa hè
(Hy vọng)
(2) Ta bước tới. Chỉ một đường: Cách mạng
(Như những con tàu)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
66
(3) Đường tranh đấu không bao giờ thoái bộ
(Trăng trối)
(4). Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng
(Lượm)
(5) Đường cách mạng dài theo kháng chiến
(Ta đi tới)
(6) Đường gai góc đang nở đầy hoa thắm
(Trên miền Bắc mùa xuân)
(7) Đường hạnh phúc gian nan lắm khúc
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
(8) Đường nở ngực. Những hàng dương liễu nhỏ
Đã lên xanh như tóc tuổi mười lăm
(Bài ca mùa xuân 1961)
(9) Phải chăng có những khúc đường nóng lạnh
(Trên đường thiên lí)
(10) Đường vui không đợi mùa trăng
(Đường vào)
(11) Đường ra phía trước. Đường về tuổi xuân
(Nước non ngàn dặm)
(12) Con đường xưa của trái tim, đường này
(Nước non ngàn dặm)
(13) Sợ chi khúc khuỷu đường muôn dặm
(Bảy mươi)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
67
Hình ảnh con đường trong những câu thơ trên không còn dùng với
nghĩa gốc vốn có mà đã chuyển nghĩa mới. Nội dung, sắc thái ý nghĩa và mức độ
biểu cảm của các ẩn dụ trong mỗi câu thơ có khác nhau. Vì thế, nó đã đem lại
cho hình tượng thơ nhiều tầng nghĩa mới. Có thể xếp 13 ẩn dụ đường thơm tho,
đường cách mạng, đường tranh đấu, đường vàng, đường gai góc, đường hạnh
phúc, đường nở ngực, khúc đường nóng lạnh, đường vui, đường về tuổi xuân,
con đường xưa của trái tim, đường muôn dặm vào 4 nhóm gần gũi nhau:
Nhóm 1: ẩn dụ ở câu 1 đường thơm tho, câu 4 đường vàng, câu 7
đường hạnh phúc câu 8 đường nở ngực và câu 10 đường vui ngầm hiểu là con
đường của niềm vui, con đường hạnh phúc, con đường chiến thắng. Con
đường vốn cụ thể, hữu hình, giờ đây được cảm nhận qua khứu giác với hương
thơm, qua tâm trạng, niềm vui và hạnh phúc. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác
được Tố Hữu sử dụng thật tinh tế. Phải là người có tâm hồn trẻ trung, mến
yêu cuộc sống đến nhường nào thì Tố Hữu mới có những rung cảm tinh tế
đến thế ! Phải là người nghệ sĩ đầy tài năng thì ông mới chọn lựa được ngôn
từ đẹp đến vậy! Quả thật, nói như Xuân Diệu "Thơ hay, lời thơ chín đỏ trong
cảm xúc".
Nhóm 2: Ở câu 2 - 3 và câu 5, ẩn dụ đường cách mạng và đường
tranh đấu để chỉ con đường hoạt động cách mạng của người chiến sĩ cộng
sản. Lý tưởng Đảng đã soi đường chỉ lối cho nhà thơ và cho dân tộc Việt
Nam. Cả dân tộc một lòng đi theo con đường ấy. Vì thế, con đường cách
mạng đầy gian khổ hi sinh đã trở thành con đường chiến thắng, đường vui,
đường hạnh phúc.
Nhóm 3: Trong câu 6 - 9 và câu 13, đường gai góc, khúc đường nóng
lạnh và đường muôn dặm là ẩn dụ chỉ những khó khăn, thử thách trên con
đường cách mạng mà dân tộc ta phải đương đầu và vượt qua. Đó không chỉ là
con đường chiến tranh đầy chết chóc còn là con đường đầy thử thách trong
công cuộc dựng xây đất nước hôm nay. Đó là những gai góc trong cuộc sống,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68
những khuất lấp trong tư tưởng, những thói xấu, lạc hậu và trì trệ, thói cá
nhân ích kỉ, sự cơ hội…mà mỗi người cần nhận thấy để đấu tranh và vượt qua
những thử thách ấy.
Nhóm 4: Ở câu 11- 12 là con đường của kỷ niệm, kí ức đường về tuổi
xuân, con đường xưa. Sự trở về thật ngọt ngào, tươi mới như buổi ban đầu.
Cái thưở bừng nắng hạ trong tâm hồn người thanh niên trẻ tuổi khi gặp ánh
sáng của lý tưởng Đảng lúc nào cũng tươi mới, trinh nguyên. Nó được bao
bọc trong ánh hào quang của hoài niệm rất đỗi ngọt ngào. Con đường đầy
nắng hồng và xuân sắc mà Tố Hữu đã trọn đời dâng hiến cho quê hương đất
nước cứ thức hoài trong nỗi nhớ niềm thương của ông.
Hình ảnh ẩn dụ con đường trong thơ Tố Hữu phần nào giúp người đọc
hình dung về những gian khổ, hi sinh mà nhân dân ta phải trải qua trong chiến
tranh cũng như niềm vui chiến thắng của dân tộc qua các chặng đường cách
mạng. Những năm kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, nhiều lần nhà thơ đã vào
tuyến lửa và mang về những "chùm hoa thơ nóng bỏng" góp phần đốt cháy
lên ngọn lửa anh hùng cách mạng rực rỡ của con người dân tộc - dũng sĩ trong
thời đại. Dù đã ở tuổi khá cao, năm 1973, không quản ngại gian lao, nguy
hiểm, Tố Hữu vẫn làm cuộc hành hương vào chiến trường miền nam, dọc
theo tuyến Trường Sơn - đường mòn Hồ Chí Minh để làm nên những câu thơ
hùng tráng và bi tráng về tiền tuyến lớn có sức lay động đến toàn quân:
Trường Sơn, xẻ dọc, rọc ngang
Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng.
Trường Sơn, vượt núi, băng sông
Xe đi trăm ngả, chiến công bốn mùa
(Nước non ngàn dặm)
Nhận thức hiện thực cuộc sống thông qua các hình ảnh giàu sức biểu
cảm là một chức năng của ẩn dụ tu từ. Các hình ảnh ẩn dụ như hình ảnh mùa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
xuân, cành lá quế, chiếc mũ tai bèo, trái tim và con đường đã phân tích ở trên
đều đã cho thấy khả năng khắc họa hình tượng của ẩn dụ trong thơ Tố Hữu.
Qua phép ẩn dụ, hình tượng nghệ thuật hiện lên đẹp hơn, sống động hơn và
luôn luôn lung linh, biến ảo. Con người đi nhiều, từng trải nhiều, sống chết nhiều
với cuộc sống đã giúp cho nhà thơ có sự tinh tế trong óc quan sát, liên tưởng, đối
chiếu các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tế khách quan với thế giới nội
tâm con người để từ đó có thể sáng tạo được nhiều hình ảnh ẩn dụ độc đáo.
3.2. CHỨC NĂNG BIỂU CẢM
Cùng với xu thế phát triển của ngôn ngữ, việc làm phong phú cách
diễn đạt, việc mở rộng phương thức chuyển nghĩa theo phép ẩn dụ đã đáp ứng
phần lớn nhu cầu biểu đạt cảm xúc thẩm mỹ tinh tế của con người. Ẩn dụ tu
từ có khả năng làm "mềm hóa" những vấn đề được coi là khó diễn đạt. Nó là
công cụ để diễn đạt tình cảm một cách kín đáo và tế nhị, thể hiện nhận thức
sâu sắc về đối tượng. Do đó mà ẩn dụ không chỉ có giá trị hình tượng, là
phương tiện để xây dựng hình tượng mà còn hàm chứa sức mạnh biểu cảm
lớn [32, tr. 196].
Là nhà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_SP_VH_NHY.pdf