Luận văn Ảnh hưởng của đạo đức nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN 7

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án 7

1.2. Đánh giá chung các công trình tổng quan và vấn đề đặt ra cần tiếp tục

nghiên cứu của luận án 25

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC

NHO GIÁO ĐỐI VỚI XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA 29

2.1. Đạo đức Nho giáo 29

2.2. Gia đình văn hóa và xây dựng gia đình văn hóa 49

2.3. Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa 58

Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐỐI VỚI XÂY DỰNG

GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY -

THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 73

3.1. Những nhân tố tác động đến ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với

xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 73

3.2. Thực trạng ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình

văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay - một số biểu hiện chủ yếu 82

3.3. Một số vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng

gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 106

Chương 4: QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT

HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA

ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐỐI VỚI XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở

VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY 116

4.1. Quan điểm cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh

hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa

vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 116

4.2. Giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh

hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa

vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 120

KẾT LUẬN 149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

PHỤ LỤC

pdf194 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của đạo đức nho giáo đối với xây dựng gia đình văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình ĐBSH vẫn tiếp tục được kế thừa và phát huy, góp phần khắc phục tình trạng người già cô đơn, không nơi nương tựa; hơn 80% hộ gia đình đã thực hiện tốt công tác chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ già [5, tr.126]. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội trong thời điểm hệ thống phúc lợi và các dịch vụ chăm sóc người già chưa thật sự tốt. Đây cũng là một cơ sở quan trọng góp phần vào sự thành công của công cuộc xây dựng GĐVH ở các địa phương. 3.2.1.2. Ảnh hưởng tiêu cực Một là, cha mẹ coi trọng con trai hơn con gái, “trọng nam khinh nữ” Do ảnh hưởng tư tưởng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của Nho giáo dẫn đến nhiều gia đình ở vùng ĐBSH đều mong muốn (thậm chí là bắt 89 buộc) phải có con trai để nối dõi tông đường. Trong tình cảm yêu thương của cha mẹ đối với con cái thì có không ít bậc cha mẹ vẫn còn sự phân biệt đối xử, quan tâm và coi trọng con trai hơn con gái. Chính điều đó dẫn đến tình trạng “trọng nam khinh nữ”, bất bình đẳng trong quan hệ ứng xử của cha mẹ với những đứa con trong gia đình. Thông qua kết quả khảo sát của tác giả luận án, khi được hỏi “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử của cha mẹ đối với con cái trong gia đình hiện nay thường biểu hiện ở những điểm nào sau đây?” thì có 40% người trả lời cho rằng “cha mẹ thường coi trọng con trai hơn con gái”. Trong một phỏng vấn sâu (nam, 47 tuổi, thợ kim hoàn), anh khẳng đinh:“Nếu người phụ nữ lấy chồng về mà người ta đẻ ra toàn con trai thì người ta vẫn cảm thấy đàng hoàng, còn nếu lấy chồng mà chỉ đẻ toàn con gái thì người ta vẫn cảm thấy buồn bã. Nếu người vợ không đẻ được con trai thì người đàn ông sẵn sàng tìm người khác ngay”. Cũng trong cuộc phỏng vấn này, một người dân khác cho rằng: “Có con gái thì nó có bên cạnh mình đâu, vì nó phụ thuộc vào gia đình nhà chồng. Có con trai, con dâu ở gần thì nó mới sớm tối được chứ” (nữ, 41 tuổi, nông dân) [49, tr.108]. Do tâm lý có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên, phụng dưỡng cha mẹ khi về già, dẫn đến tư tưởng “trọng nam khinh nữ” trong ứng xử của cha mẹ đối với con cái. Không những vậy, nó còn tác động tiêu cực, gây ra hiện tượng mất cân bằng giới tính trong sinh đẻ ở ĐBSH do tình trạng điều chỉnh giới tính thai nhi, đẻ bằng được con trai vẫn còn tồn tại khá phổ biến (tỷ lệ giới tính khi sinh ở ĐBSH hiện nay là 116,2 nam/ 100 nữ, cao hơn trung bình chung của cả nước - 112,1 nam/100 nữ) [100, tr.97]. Điều này, dẫn đến những tác động tiêu cực trong việc thực hiện chức năng gia đình, là rào cản lớn đối với việc thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình “no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh” trong xây dựng GĐVH ở địa phương hiện nay. Hai là, cha mẹ áp đặt ý kiến, dạy con bằng đòn roi “Tôn trọng - bình đẳng - yêu thương - chia sẻ” là bốn tiêu chí chung trong Bộ tiêu chí ứng xử gia đình do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề ra (08/12/2017) (Phụ lục 3) nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử trong các mối quan hệ gia đình. Có thể thấy, quyền được tôn trọng và quyền bình đẳng giữa các thành 90 viên gia đình là rất thiêng liêng và được coi trọng hiện nay. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bởi tư tưởng “Tam cương”, trật tự trên dưới trong trong đạo đức Nho giáo nên ở vùng ĐBSH vẫn còn một bộ phận gia đình duy trì quan điểm giáo dục “cha mẹ dạy gì con cái phải nghe”, “đạo làm con phải nghe theo lời dạy bảo của cha mẹ”... Vì thế, con cái không có quyền được đưa ra ý kiến và quan điểm của mình, kể cả những vấn đề trực tiếp của bản thân... tất cả đều theo sự sắp đặt của cha mẹ. Theo khảo sát của tác giả luận án khi đưa ra câu hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử của cha mẹ đối với con cái trong gia đình hiện nay thường biểu hiện ở những điểm nào sau đây?” thì có 53.3% người dân cho rằng “Cha mẹ thường áp đặt ý kiến của mình đối với con” (phụ lục 5.4). Cũng về vấn đề này, trong kết quả nghiên cứu định tính của đề tài cấp Bộ về “Mối quan hệ cha mẹ - con cái vị thành niên ở Việt Nam: Thực trạng và những vấn đề cần quan tâm” (qua khảo sát tại tỉnh Bắc Ninh) do Viện Gia đình và Giới thực hiện, thông qua một số kết luận rút ra của đề tài có thể thấy: Ứng xử của cha mẹ đối với nhu cầu và lối sống của con cái vị thành niên, ứng xử của cha mẹ khi con cái mắc lỗi và những biện pháp cha mẹ thực hiện nhằm quản lý hành vi của con cái thể hiện nhiều yếu tố tiêu cực hơn tích cực. Nhiều cha mẹ sử dụng quyền uy của người làm cha làm mẹ để ngăn cản và cấm đoán các nhu cầu, sở thích cá nhân của con cái mà không có sự trao đổi và lý giải thỏa đáng Khi con cái mắc lỗi, cha mẹ thường không kiềm chế được cảm xúc cá nhân, có những ứng xử không phù hợp như quát tháo và đánh đòn, thậm chí là đuổi con cái ra khỏi nhà [79, tr.70]. Không ít bậc làm cha mẹ coi việc dạy con một cách cứng rắn theo hướng đòn roi là một cách thể hiện tình yêu thương (“Thương cho roi cho vọt”), coi đây là cách để con cái trưởng thành trong cuộc sống, nhưng điều này đã vô tình làm tổn thương con cái cả về thể chất lẫn tinh thần, gây cản trở đến việc thực hiện quyền bình đẳng giữa cha mẹ và con cái, hạn chế sự độc lập, tự chủ của con cái trong gia đình. Theo số liệu “Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam lần thứ 2” cho thấy, có 4,1% trẻ vị thành niên tuổi 14 - 17 cho biết đã bị người trong gia đình đánh thương tích [95, tr.147]. Trong “Điều tra gia đình Việt Nam 2006”, khi được 91 hỏi về phản ứng của cha mẹ đối với hành vi lỗi lầm của con cái trong 12 tháng qua cho thấy, có 12,1% người làm cha mẹ sử dụng hình thức quát mắng, và 1,4% đã đánh trẻ [98, tr.281]. Trong một cuộc khảo sát khác cũng cho thấy, có 9,4% trẻ em tưởi 2-14 đã bị cha mẹ hoặc thành viên trong gia đình xử phạt nặng bằng roi vọt. Đặc biệt, có 45,8% số bà mẹ tin rằng cần phải dùng roi vọt đối với trẻ em [96, tr.122] Cha mẹ thường dùng đến hình phạt, đòn roi để giáo dục con cái mà không chú trọng đến các hình thức khác như khuyên bảo, giải thích, làm gương... dẫn đến hệ quả nhiều em nhỏ có những hành vi chán nản, buồn bã trong cuộc sống, gây gổ, đánh nhau, sử dụng chất gây nghiện, bỏ nhà đi điều này dẫn đến mất ổn định xã hội và ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển nhân cách của trẻ. Trong khảo sát của tác giả luận án, khi đưa ra câu hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử của cha mẹ đối với con cái trong gia đình hiện nay thường biểu hiện ở những điểm nào sau đây?” thì vẫn còn 37.5% người dân khẳng định “cha mẹ sử dụng đòn roi trong giáo dục con” (phụ lục 5.4). Đây là một biểu hiện tiêu cực trong ứng xử của cha mẹ đối với con cái ở vùng ĐBSH. Có thể nói, cách thức “dạy con” mang tính áp đặt, gắn liền với đòn roi trong các gia đình ĐBSH hiện nay một phần lớn xuất phát từ quan điểm lễ giáo đạo Nho mang tính thứ bậc, áp đặt quyền uy và mệnh lệnh của cha mẹ đối với con cái. Điều này dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật, bạo hành gia đình, vi phạm quyền trẻ em được quy định trong luật hiện nay. Đây là một vấn đề nghiêm trọng cần phải được giải quyết trong quá trình xây dựng GĐVH. Trong bối cảnh hiện nay, khi các vấn nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, bạo lực học đường, quan hệ tình dục ở tuổi vị thành niên, trẻ em gái bị xâm hại..., đang ngày một gia tăng, tác động thường xuyên và trực tiếp đến tâm sinh lý của đối tượng thanh thiếu niên, rất cần có sự quan tâm, chia sẻ, động viên, định hướng của các bậc làm cha làm mẹ. Trong khi đó, vai trò của cha mẹ ở một số gia đình hiện nay giảm sút do mải mê công việc, kiếm tiền thiếu quan tâm đến con cái hoặc quan tâm giáo dục con cái nhưng thiếu sự khéo léo, đồng cảm, chia sẻ mà thay vào đó là sử dụng đòn roi, mệnh lệnh, dẫn đến con cái ngày càng lạnh nhạt với cha mẹ, dễ sa vào các tệ nạn xã hội, cũng như các hành vi vi phạm pháp 92 luật. Vì thế, rất cần thiết phát huy những ảnh hưởng tích cực và khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức Nho giáo đến quan hệ ứng xử và cách giáo dục của cha mẹ đối với con cái trong bối cảnh hiện nay. Ba là, con cái thiếu chính kiến, lệ thuộc vào cha mẹ; quá nặng nề về lễ nghi trong gia đình, dòng họ. Hiện nay, trong một số gia đình vùng ĐBSH, con cái do quá coi trọng chữ “hiếu”, luôn muốn làm hài lòng cha mẹ và đáp ứng mọi nguyện vọng để cha mẹ được vui, dẫn tới lệ thuộc vào cha mẹ, sống thiếu chính kiến, không dám nói lên quan điểm sống, suy nghĩ, mong muốn của mình, đôi khi hy sinh cả hạnh phúc bản thân vì không muốn làm trái lời cha mẹ. Thực tế đã có những người con trong gia đình vì không muốn làm phật ý cha mẹ mà phải bỏ người mình yêu để lấy người cha mẹ chọn; bỏ vợ đi lấy người khác vì vợ không đẻ được con trai theo yêu cầu của cha mẹ hoặc do có mâu thuẫn với cha mẹ ... Có những người con biết cha mẹ sai nhưng không những không can ngăn, khuyên nhủ để cha mẹ hiểu mà tiếp tục dẫm lên sai lầm vì nghe theo lời của cha mẹ; hay có những gia đình, con cái kinh tế khó khăn nhưng sẵn sàng vay nợ để có tiền tổ chức tang ma, giỗ chạp hay xây mộ cho cha mẹ, coi đó là một cách báo hiếu với cha mẹ. Theo khảo sát của tác giả luận án khi đưa ra câu hỏi: Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử của con cái đối với cha mẹ trong gia đình hiện nay được biểu hiện ở điểm nào sau đây? Thì có 31.5% người dân trả lời “Con cái bao che cho cha mẹ cả những việc làm sai trái”. Điều này cho thấy, giữ gìn đạo hiếu với cha mẹ là hành động có ý nghĩa rất thiêng liêng, nhưng biểu hiện đạo hiếu sao cho phù hợp để đảm bảo hạnh phúc gia đình và sự phát triển của xã hội thì đòi hỏi con cái cần phải hiểu thật sự thấu đáo về giá trị của đức “hiếu” và tránh những biểu hiện lệch lạc, mang tính tiêu cực. 3.2.2. Trong quan hệ giữa vợ và chồng 3.2.2.1. Ảnh hưởng tích cực Thứ nhất, thể hiện thông qua sự gắn bó, thủy chung Gắn bó, thủy chung là chuẩn mực đạo đức đặc trưng cơ bản của quan hệ vợ chồng đã được ĐĐNG khẳng định trong tư tưởng “tam cương”, “tam tòng, 93 “tứ đức”, cũng là một tiêu chí ứng xử cơ bản của quan hệ vợ chồng được quy định trong Bộ tiêu chí ứng xử trong gia đình do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề ra (Phụ lục 3). Trong quan hệ vợ chồng, sự gắn bó thủy chung chính là cơ sở duy trì sự tồn tại và bình yên của mỗi gia đình. Đây là giá trị đạo đức và truyền thống văn hóa tốt đẹp trong quan hệ vợ chồng người Việt mà hiện nay các gia đình ĐBSH vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc. Trong cuộc khảo sát người dân ở 6 tỉnh ĐBSH (2017) của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy, khi được hỏi về “những phẩm chất đạo đức cần có của gia đình hiện nay?” thì có tới 91,2% người trả lời cho rằng “Vợ chồng tình nghĩa, thủy chung” là một phẩm chất đạo đức cần có [88, tr.92]. Cũng về vấn đề này, trong một cuộc điều tra của tác giả Lê Ngọc Văn khi khảo sát người dân vùng ĐBSH, cho thấy: Quan điểm về “Vợ chồng chung thủy” là một giá trị gia đình, một phẩm chất đạo đức được đánh giá rất cao, “hầu như được bảo lưu hoàn toàn so với truyền thống”, với 96% người dân lựa chọn. Mặc dù, với những đối tượng khảo sát khác nhau về độ tuổi, về trình độ học vấn, về mức sống nhưng quan điểm về “Vợ chồng chung thủy” vẫn mang tính tương đồng cao (giao động từ 94% đến 99%) [114, tr.115]. Còn trong khảo sát của tác giả luận án, khi đưa ra câu hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử giữa chồng và vợ trong gia đình hiện nay được biểu hiện ở điểm nào sau đây?” thì 94.5% người trả lời khẳng định “Vợ chồng gắn bó, coi trọng thủy chung” (phụ lục 5.6). Từ các số liệu này cho thấy, chuẩn mực về sự thủy chung gắn bó trong quan hệ vợ chồng của Nho giáo cho đến nay vẫn được người dân vùng ĐBSH đánh giá rất cao và lưu giữ trong quan hệ gia đình. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xây dựng GĐVH hiện nay, khi đứng trước sự tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường, những yếu tố tiêu cực của lối sống phương Tây du nhập, làm cho sự bền vững của hôn nhân và gia đình ngày càng bị đe dọa - thể hiện thông qua tỷ lệ các cặp vợ chồng ly hôn ngày càng tăng nhanh (đặc biệt ở các cặp vợ chồng trẻ) mà trong đó nguyên nhân cơ bản là do tình trạng ngoại tình (chiếm 25,9% trong tổng số 6 nguyên nhân được thống kê) [96, tr.105]. 94 Thứ hai, thể hiện thông qua sự quan tâm, chia sẻ Tình yêu thương, sự quan tâm, chia sẻ giữa hai vợ chồng thể hiện trước hết ở sự chăm sóc nhau trong cuộc sống thường ngày, từ những việc rất nhỏ như chăm lo miếng cơm manh áo hay những lúc ốm đau bệnh tật, mà thực tế cho thấy sự quan tâm chăm sóc này không ai có thể thay thế được (“Con chăm cha không bằng bà chăm ông”). Tình yêu đó còn thể hiện ở sự đồng cam cộng khổ, cùng nhau vượt qua những khó khăn thử thách của cuộc sống với tinh thần “thuận vợ, thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, vượt qua những cám dỗ vật chất “Chồng em áo rách em thương, chồng người áo gấm xông hương mặc người ” để giữ gìn hạnh phúc. Điều này thể hiện rất rõ trong cuộc sống vợ chồng các gia đình vùng ĐBSH. Trong khảo sát của tác giả luận án, khi đưa ra câu hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử giữa chồng và vợ trong gia đình hiện nay được biểu hiện ở điểm nào sau đây?” thì 89% người trả lời cho rằng: “Vợ chồng quan tâm, chăm sóc nhau” và 72.3% người trả lời khẳng định “Vợ chồng chia sẻ với nhau các vấn đề trong cuộc sống” (phụ lục 5.6). Đặc biệt ở các vùng đô thị như thủ đô Hà Nội, tưởng chừng do sự tác động mặt trái của nền KTTT, với lối sống đô thị hóa sẽ làm cho các cặp vợ chồng sống lạnh nhạt với nhau, nhưng qua khảo sát hơn một nghìn người dân ở Hà Nội “Nhận định về mối quan hệ giữa vợ và chồng trong gia đình” cho thấy: Hầu hết các cặp vợ chồng đều có chung quan điểm về sự “quan tâm, chia sẻ”, với phương án trả lời “Phần lớn là đúng” thì có tới 83,4% người trả lời cho rằng vợ chồng thường “lắng nghe những khó khăn của nhau”, 80% người cho biết: vợ/chồng thường nói cho nhau biết về những khó khăn và 84,4% cho rằng: những mối quan tâm chung của họ luôn được vợ/chồng chia sẻ [54, tr.247]. Đây là biểu hiện rất tích cực của quan hệ vợ chồng trong xã hội hiện đại, góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình. Thứ ba, thể hiện thông qua sự hòa thuận, giữ gìn yên ấm gia đình “Chồng giận thì vợ bớt lời; Cơm sôi bớt lửa cả đời không khê” đã trở thành lời dăn dạy của ông cha bao đời đối với con cháu để giữ gìn yên ấm, hạnh phúc gia đình. Đây cũng là quan điểm thể hiện rõ sự ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với quan hệ vợ chồng - sự nhường nhịn lẫn nhau trong cuộc sống - một 95 chuẩn mực đạo đức không thể thiếu để giữ gìn hòa khí, bình yên và sự bền vững của gia đình. Thông qua số liệu khảo sát của tác giả luận án, khi được hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử giữa chồng và vợ trong gia đình hiện nay được biểu hiện ở điểm nào sau đây?” thì có 62.5% số người trả lời cho rằng “Vợ chồng nhường nhịn nhau, giữ gìn êm ấm gia đình” (phụ lục 5.6). Số liệu này cho thấy, so với chuẩn mực đạo đức “chung thủy” và sự “yêu thương chia sẻ” thì chuẩn mực về sự “nhường nhịn” trong quan hệ vợ chồng hiện nay không phải là lựa chọn chiếm ưu thế, nhưng qua đây cũng cho thấy, giá trị về sự nhường nhịn để giữ gìn êm ấm gia đình trong quan hệ vợ chồng vẫn được nhiều người dân coi trọng và gìn giữ, đặc biệt là ở những người cao tuổi và người dân sống ở vùng nông thôn. Nhường nhịn không có nghĩa là phục tùng, tuân lệnh và hy sinh, mà nó là biểu hiện của tình yêu thương, sự thấu hiểu và tôn trọng nhau vì niềm vui, hạnh phúc và sự bền vững của gia đình. Do đó “nhường nhịn lẫn nhau” giữa vợ và chồng cũng là một giá trị đạo đức không thể thiếu góp phần xây dựng GĐVH ở vùng ĐBSH hiện nay. 3.2.2.2. Ảnh hưởng tiêu cực Một là, thể hiện ở sự tuyệt đối hóa vai trò của người chồng Trong xã hội hiện nay, quyền dân chủ, bình đẳng giữa vợ và chồng được xã hội coi trọng và bảo đảm. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo nên trong quan hệ vợ chồng một số gia đình vùng ĐBSH vẫn còn tồn tại tư tưởng “phu xướng phụ tùy”, vợ phải phục tùng chồng một cách vô điều kiện. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng bạo lực gia đình đối với người phụ nữ. Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, chỉ trong vòng bốn năm gần đây, cả nước đã có 178.847 vụ bạo lực gia đình, thì riêng bạo lực đối với phụ nữ là 106.520 vụ [97, tr.85]. Đặc biệt, tỷ lệ phụ nữ bị bạo lực gia đình ở các tỉnh ĐBSH cao gần nhất cả nước (sau Đông Nam Bộ), tiêu biểu như ở Ninh Bình, trong số 935 vụ bạo lực gia đình xảy ra thì có tới 851 vụ nạn nhân là phụ nữ [75, tr.4], chiếm 91%. Điều này cho thấy quyền của người phụ nữ trong gia đình ĐBSH còn bị vi phạm nghiêm trọng, xuất phát từ sự gia trưởng và tuyệt đối hóa vai trò của người chồng. Trong kết quả khảo sát của tác 96 giả luận án, khi được hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử giữa chồng và vợ trong gia đình hiện nay được biểu hiện ở điểm nào sau đây?” thì có 23.3% người dân khẳng định “Vợ phải tuyệt đối phục tùng và làm theo ý kiến của chồng”, 36.3% người dân cho rằng “Chồng có hành vi bạo lực nếu vợ không nghe lời”, đặc biệt 76.8% người khẳng định “Chồng thường áp đặt ý kiến của mình đối với vợ” (phụ lục 5.6). Sự thiếu bình đẳng trong quan hệ vợ chồng còn thể hiện thông qua vai trò quyết định các vấn đề của gia đình. Trong một khảo sát người dân ở Thái Bình của tác giả Lê Ngọc Văn, khi được hỏi về quyền quyết định giữa vợ và chồng trong gia đình thì có 2,6% nam giới trả lời “Chồng quyết định hoàn toàn”; 62,5% trả lời “Có bàn bạc nhưng sức nặng thuộc về phía chồng”; chỉ có 0,9% trả lời “Vợ quyết định hoàn toàn”; 4,3% trả lời “Có bàn bạc nhưng sức nặng thuộc về phía vợ” và 29,7% trả lời “Hai vợ chồng ngang nhau”; số liệu khảo sát nữ giới thì 5,2% nữ giới khi được hỏi trả lời “Chồng quyết định hoàn toàn”; 41,7% trả lời “Có bàn bạc nhưng sức nặng thuộc về phía chồng”; 5,2% trả lời “Vợ quyết định hoàn toàn”; 10,1% trả lời “Có bàn bạc nhưng sức nặng thuộc về phía vợ” và 37,9% trả lời “Hai vợ chồng ngang nhau” [114, tr.226]. Cũng trong cuộc khảo sát này, khi được hỏi về khuân mẫu “Vợ phải nghe lời chồng” thì 33,6% nam giới trả lời “Đúng hoàn toàn”; 55,2% trả lời “Đúng một phần”, 11,2% trả lời “Không đúng”; về phía nữ giới thì 30,2% trả lời “Đúng hoàn toàn”; 58,9% trả lời “Đúng một phần”, 10,9% trả lời “Không đúng” [114, tr.228]. Thông qua kết quả khảo sát này cho thấy: Mặc dù pháp luật khẳng định và bảo vệ quyền bình đẳng giữa các thành viên trong gia đình, nhưng trong thực tế, quyền quyết định cuối cùng các vấn đề trong nhiều gia đình người dân vùng ĐBSH vẫn thuộc về người chồng, “vợ phải nghe lời chồng” vẫn là khuôn mẫu ứng xử trong nhiều gia đình. Đây là ảnh hưởng mang tính tiêu cực của đạo đức Nho giáo đến quan hệ giữa chồng và vợ trong gia đình người dân ĐBSH hiện nay. Hai là, thể hiện ở sự ràng buộc người vợ trong khuôn mẫu định sẵn Cùng với việc tuyệt đối hóa vai trò của người đàn ông trong gia đình thì nhiều người dân vùng ĐBSH vẫn giữ những quan điểm và lối sống mang tính khắt khe và áp đặt đối với người phụ nữ, thể hiện rõ tư tưởng “trọng nam khinh 97 nữ” vẫn còn tồn tại ở nhiều địa phương trong Vùng hiện nay. Nguyên nhân tồn tại tình trạng này là bởi vì: Do ảnh hưởng của tư tưởng “tứ đức” - “nữ nội nam ngoại”, nên đa số người dân thường ủng hộ cho sự nghiệp, công danh thăng tiến của người đàn ông, họ dễ dàng chấp nhập và coi là chuyện bình thường với những người đàn ông vì công việc xã hội mà thường xuyên vắng nhà, về muộn, đi công tác dài ngày và không có thời gian chăm sóc vợ con, họ gọi đó là người đàn ông có chí tiến thủ. Nhưng với người phụ nữ vì công việc xã hội mà thường xuyên vắng nhà, đi sớm về muộn, không có nhiều thời gian chăm sóc chồng con, thì bị coi là người vợ, người mẹ “vô trách nhiệm”. Trong gia đình, đa số người chồng chỉ muốn vợ an phận thủ thường, chăm lo tốt việc gia đình, nuôi dạy con cái, họ tỏ ra khó chịu khi vợ bận rộn với công việc xã hội. Nhiều mâu thuẫn, bạo lực trong gia đình nảy sinh từ việc người chồng không đồng tình, thiếu chia sẻ với công việc xã hội của vợ. Trong một phỏng vấn sâu người dân (nữ, 34 tuổi, trí thức, Hà Nội), chị khẳng định: “Em cho rằng bình đẳng giới trong ứng xử vợ - chồng liên quan đến việc làm ngoài xã hội là không bao giờ đạt được. Chẳng hạn như gia đình em, cả hai vợ chồng em đều đang làm nghiên cứu sinh, nhưng bây giờ em có khả năng bảo vệ trước anh ấy. Thế là vừa rồi ông chú anh ấy gọi điện ra hỏi thăm và nói phải dành thời gian cho chồng học tập. Chú không nói thẳng ra nhưng em hiểu chú có ý bảo em không nên bảo vệ tiến sĩ trước chồng. Bản thân chồng em thỉnh thoảng cũng nói, em học gì thì học nhưng vẫn phải quán xuyến mọi việc gia đình, phụ nữ không cần học nhiều Em nghĩ, nếu em bảo vệ luận án tiến sĩ trước anh ấy thì thế nào cũng có chuyện”; một người dân khác (nữ, 35 tuổi, trí thức, Hà Nội) khẳng định: “Chồng em thường xuyên đi làm về muộn thì được xem là chuyện bình thường. Nhưng nếu em đi làm về muộn là anh ấy không nói gì, mặt cứ nặng ra” [31, tr.128]. Còn trong khảo sát của tác giả luận án, khi được hỏi: “Theo ông/bà (anh/chị), ứng xử giữa vợ và chồng trong trong gia đình hiện nay biểu hiện ở điểm nào sau đây?” thì vẫn còn 30% người dân cho rằng: “Chồng chỉ lo việc xã hội, việc trong gia đình là trách nhiệm của vợ” (phụ lục 5.6). Chính vì nhiều phụ nữ không được chồng ủng hộ, chia sẻ trong công việc xã hội nên ngoài những áp 98 lực, vất vả, nặng nhọc do công việc xã hội mang lại, về đến nhà họ lại phải làm đủ các công việc gia đình, từ nội trợ đến chăm sóc cha mẹ già, chồng con Điều này làm cho người phụ nữ phải chịu nhiều áp lực trong cuộc sống và rất khó để phát huy được năng lực của mình trong hoạt động xã hội. Cho đến nay, trong GĐ vùng ĐBSH, phụ nữ vẫn là người đảm nhiệm hầu hết các công việc gia đình, đặc biệt là việc nội trợ và chăm sóc con cái, mặc dù mức độ thực hiện có khác nhau, tùy thuộc vào đặc trưng từng gia đình, từng vùng (thành thị hay nông thôn). Gánh nặng công việc gia đình đã khiến cho người phụ nữ phải chịu áp lực rất lớn về thời gian, điều đó làm hạn chế cơ hội nghỉ ngơi, giải trí, chăm sóc sức khỏe, đồng thời khó có điều kiện để nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp, cũng như tham gia vào công việc xã hội, đặc biệt ở các vị trí lãnh đạo quản lý chủ chốt. Trong khi công việc gia đình có tầm quan trọng rất lớn đối với cuộc sống con người, nhưng phần đông người dân (đặc biệt nam giới) vẫn coi công việc này là việc nhỏ, việc không quan trọng, không tạo ra giá trị kinh tế, gắn liền với “thiên chức”, trách nhiệm của phụ nữ. Vì thế, phụ nữ với trọng trách là người đảm nhiệm chính công việc gia đình nhưng địa vị kinh tế của họ không được thừa nhận. Đây không chỉ thể hiện sự bất bình đẳng giới trong phân công công việc xã hội, hạn chế khả năng tham gia công việc xã hội của người phụ nữ, mà còn là nguồn gốc dẫn đến sự bất bình đẳng giữa vợ - chồng trong GĐ và tình trạng bạo lực gia đình đối với người phụ nữ. Do bản thân người phụ nữ luôn tồn tại tư tưởng “nữ nhi an phận thủ thường” - đây là rào cản lớn nhất, cũng là nguyên nhân chính hạn chế khả năng phát triển của người phụ nữ trong xã hội. Tư tưởng đạo đức Nho giáo với việc đề cao trách nhiệm của người phụ nữ trong quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc cha mẹ già, chồng con, đã ăn sâu vào tiềm thức, tâm lý, thói quen, cách sống của người phụ nữ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chính vì vậy, mặc dù hiện nay, xã hội đã bảo vệ quyền bình đẳng của người phụ nữ với nam giới, cũng có những gia đình tạo điều kiện để người phụ nữ tham gia vào công việc xã hội. Nhưng chính bản thân người phụ nữ chưa thoát ra khỏi tư tưởng “công, 99 dung, ngôn, hạnh” xưa, chưa mạnh dạn sống, làm việc và đấu tranh để khẳng định vai trò của mình trong gia đình và xã hội. Bản thân người phụ nữ luôn tự hài lòng với công việc nội trợ, chăm sóc gia đình; họ coi đó là thiên chức, là niềm hạnh phúc; và thành công của chồng con chính là thành công của họ, với tư tưởng “của chồng công vợ”, “gái có công chồng chẳng phụ” Vì thế, nhiều phụ nữ tình nguyện nghỉ việc xã hội ở nhà chăm sóc GĐ khi bắt đầu lấy chồng, sinh con; khi gia đình có việc cần giải quyết thì họ cũng là người đầu tiên tình nguyện xin nghỉ việc ngoài xã hội để ở nhà giải quyết việc gia đình. Trong một khảo sát người dân ở ĐBSH cho thấy: 44,9% nữ giới sẽ chủ động xin nghỉ việc để lo việc gia đình khi cần thiết, trong khi số này ở nam giới chỉ có 22,1% [31, tr.132]. Có thể nói, do ảnh hưởng của tư tưởng “tam cương”, “tam tòng”, “tứ đức” của Nho giáo đã làm hạn chế quyền dân chủ, bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình vùng ĐBSH, chưa phát huy được hết khả năng, sự năng động, sáng tạo và vai trò của họ trong hoạt động xã hội. 3.2.3. Trong quan hệ giữa anh, chị, em 3.2.3.1. Ảnh hưởng tích cực Thứ nhất, thể hiện trong sự hòa thuận, thương yêu, đoàn kết Trong quan hệ huyết thống giữa anh và em, hòa thuận được Nho giáo đề cao như là yêu cầu và chuẩn mực hàng đầu. Hòa thuận đòi hỏi anh chị em phải thương yêu, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau; đồng thời hòa thuận cũng là kết quả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_anh_huong_cua_dao_duc_nho_giao_doi_voi_xay_dung_gia.pdf
Tài liệu liên quan