Buổi đầu của quá trình xây dựng chủnghĩa xã hội, nhiều nước bắt đầu
bằng công cuộc kiến thiết, bởi những cuộc chiến liên tiếp đã đểlại sau lưng
nó những đổnát. Xác định cuộc sống lao động xã hội chủnghĩa là một địa
bàn nhiều tiềm năng, các nhà văn Xô-viết hăm hởkhám phá và khai thác nó.
Nhà văn Việt Nam từkhi xây dựng chủnghĩa xã hội trên miền Bắc (sau 1954)
cũng mang tâm thế đó.
Sôlôkhốp đểlại một tiếng vang lớn với đềtài xây dựng chủnghĩa xã hội
ởnông thôn với bộtiểu thuyết hai tập Đất vỡhoang. Thực ra viết vềtài này
có các tác giảkhác cũng thành công không kém, nhưA. Platônôp, nhưng tác
phẩm Hốmóngcủa ông bịcoi là tác phẩm “trật đường ray”, không tiêu biểu
cho phong cách CNHT XHCN nên không được Việt Nam tiếp nhận.
91 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2369 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của văn học Xô Viết đối với việc xây dựng hình tượng con người mới trong văn xuôi Việt Nam 1945 – 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng đội cho ngày
ra đi vĩnh viễn. Sự hy sinh thầm lặng nhưng quả cảm của họ đã để lại một dấu
ấn khó phai mờ nơi đồng chí, đồng đội: “Là lửa chứ không còn là một thằng
thanh niên nữa! Quả là một bí thư chi đoàn xứng đáng, những thằng như thế
đi khắp trung đoàn mà tìm cũng không thấy đâu”, “Nó đã bị xe tăng đè lên,
nửa người lấp đất, ngực đã dập nát […] Nó ném cái chai và đã đốt được!”
[55, tr.138]. Đó là lời Lôpakhin, một nhân vật trong Họ chiến đấu vì Tổ quốc,
nhận xét về sự hy sinh của một đồng chí trẻ: đoàn viên Côtrêtưgốp của trung
đoàn. Sự hy sinh ấy đã giúp người chiến sĩ trẻ góp phần gìn giữ quân kì của
đơn vị.
Một điều rất đáng nể phục ở những nhân vật anh hùng trong chiến đấu là
họ luôn đeo đuổi mục tiêu đến cùng, luôn như bùng lên một sức nóng để đồng
đội được “tiếp lửa”. Hình ảnh người đoàn viên Kômxômôn trong chuyện kể
của Sôlôkhốp khiến ta nghĩ đến nhân vật Lữ trong Dấu chân người lính của
Nguyễn Minh Châu. Lữ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ giữ đài liên lạc
của đơn vị. Hai trái lựu đạn bọn Mỹ ném xuống hầm liên lạc, nơi Lữ đang
thực hiện nhiệm vụ, đã khiến cha anh (Kinh – chính ủy đơn vị) vĩnh viễn mất
đứa con trai mà ông vẫn tự trách rằng mình chưa kịp hiểu nó. Dưới ngòi bút
Nguyễn Minh Châu, sự hy sinh ấy nhẹ tựa lông hồng: “Người chiến sĩ điện
thanh ấy trước khi hy sinh còn ngẩng cao dầu lên một lần cuối cùng : Trên
nền trời cao, rất cao và xanh, lá cờ đỏ mỗi lúc một thắm tươi đang bay, lá cờ
mỗi lúc càng tiến dần lên trước mặt” [6, tr.267].
Để có thể lập nên kì tích, một điều không thể thiếu ở những người anh
hùng trong chiến đấu là tinh thần quả cảm, là khả năng tính toán tinh nhạy để
không ảnh hưởng đến tổn thất của đơn vị (dù có thể ảnh hưởng đến tính mạng
bản thân). Nhân vật Tú trong tiểu thuyết Vùng trời của Hữu Mai là một con
người như thế. Anh là đại đội trưởng không quân, sau khi truy kích địch, đã
gặp sự cố (máy bay hết dầu), chỉ huy sở cho phép nhảy dù. Bằng quyết tâm
của một người lính và kĩ năng của một chiến sĩ không quân, Tú quyết cứu lấy
chiếc máy bay. Nhờ tính toán chính xác và sự bình tĩnh hơn lúc nào hết, anh
đã hạ cánh an toàn. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã chắp cánh cho lí tưởng
sống của các nhân vật mới trong lửa đạn. Với họ, đền nợ nước, trả thù nhà là
một đòn bẩy giúp họ tiến lên không ngừng trong những bước ngoặt khác nhau
trong đời. Các nhân vật trong một số tác phẩm đã kể mang tâm trạng ấy. Và
do vậy, khi đối diện kẻ thù (có thể lớn mạnh hơn, hung bạo hơn và đầy thú
tính hơn), những nhân vật mới của chúng ta luôn “hơn” kẻ thù và bọn tay sai
về sức mạnh tinh thần. Người lính trong Khoa học căm thù, anh Trỗi trong
Sống như anh, người chiến sĩ Nguyễn Đức Thuận trong Bất khuất, T’nú trong
Rừng xà nu,… là những con người như thế.
Lê Sơn viết về sức âm vang của văn học Xô-viết: “Bởi vậy cho nên
những tác phẩm viết về chiến tranh trong văn học Xô viết hiện đại […] là lời
cảnh cáo đanh thép đối với mọi thế lực đế quốc hiếu chiến và phản động quốc
tế, kẻ thù của hòa bình, của văn minh và tiến bộ” [58, tr.401]. Nhận định trên
gặp gỡ với ý kiến của Nguyễn Minh Châu khi nói về văn học ba mươi đấu
tranh cách mạng của Việt Nam: “Ít hoặc nhiều, thể loại này hoặc thể loại
khác, là những trang đã viết giữa hai trận đánh, trước hết với ý thức nóng
bỏng được cùng toàn dân tham gia đánh giặc” [7, tr.21]. Âm điệu chung của
các tác phẩm viết về đề tài chiến trận, vì thế, là âm điệu hào hùng, có tổn thất
thì có cái bi nhưng bi mà không lụy. Ở đó, hơn ai hết, chính những nhà văn
chiến sĩ đã “ghi công” những người anh hùng. Một đoạn trong Dấu chân
người lính được Nguyễn Minh Châu cất lên đầy hào sảng: “Sử sách về sau sẽ
ghi tên Quả đồi không tên, gần một chục chiến sĩ trẻ tuổi, tất cả đều là đoàn
viên thanh niên do một đồng chí đảng viên chỉ huy, họ đã đem ngực mình
dựng thành chiến lũy cản mười đợt tấn công điên cuồng của địch. Họ chiến
đấu đến người cuối cùng, không có một tên lính Mỹ nào bước nổi qua cái
mảnh đất của Tổ quốc họ đứng, cầm súng và ngã xuống…” [6, tr.271].
@. Nêu cao đạo đức cộng sản, đấu tranh không khoan nhượng
với chủ nghĩa cá nhân tư sản
Sinh ra trong bối cảnh hết sức khác thường, khi mà mỗi bờ tre, gốc rạ,
mỗi giếng nước, sân đình đều mang trên mình một vết tích nào đó, những
người lính Vệ quốc thời kháng Pháp, những anh bộ đội cụ Hồ thời kháng Mỹ
luôn mang trên mình một quyết tâm. Ngoài quyết tâm tiêu diệt kẻ thù và loại
trừ bọn gián điệp phản động, họ còn mang một quyết tâm cao hơn: đấu tranh
với chính mình. Có đấu tranh với mình thì họ mới có thể xác định hướng đi
tiếp theo trên con đường mình lựa chọn. Khi đó, những công dân mặc áo lính
đã biết lấy đạo đức cộng sản làm tiêu chuẩn cho hành động. Người lính trong
văn học Xô-viết và văn học cách mạng Việt Nam đều mang tâm thế đó.
Con đường trở thành người cộng sản chân chính của Paven Coócsaghin
không thuận chiều, một mạch. Từ cậu thiếu niên cho đến lúc là người thanh
niên công nhân, Paven đã chịu nhiều cay đắng trong đời để cuối cùng có thể
tự hào cất lên “phải sống sao cho khỏi tiếc những năm tháng sống hoài sống
phí…”. Con đường đó, cuộc đời đó ta bắt gặp thấy trong hình ảnh người
thanh niên có tên Nguyễn Kim Thành (nhà thơ Tố Hữu) ở những năm trước
Cách mạng tháng Tám và nhiều chiến sĩ cách mạng của ta. Như thế, có thể
thấy rất rõ một điều là, con đường “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” của một
con người trong thời chiến không đơn giản. Và nếu như bản thân một nhân tố
tích cực nào đó đã xác định cho mình một hướng đi thì ở họ lại xuất hiện nhu
cầu chỉ ra, vạch ra cho người khác cùng đi với mình trên con đường sáng. Đó
cũng là công thức thể hiện con người mới – người anh hùng.
Có lẽ nhờ một phần vào lí do kể trên mà nhân vật Núp của đồng bào Tây
Nguyên trên tác phẩm Nguyên Ngọc thu hút được sự quan tâm của nhiều thế
hệ độc giả. Từ tự phát lên tự giác, từ thiếu tổ chức đến có tổ chức, con đường
đó của người anh hùng làng Kông Hoa gắn với bước đi của nhân dân Tây
Nguyên hồn nhiên nhưng bộc trực, ngay thẳng như cây rừng. Có lúc, thậm
chí là nhiều lúc, người anh hùng phải gác lại lợi ích gia đình mình hoặc nén
lại những nỗi đau vì sự tồn tại chung của cộng đồng, vì mong muốn được
giúp ích cho người khác. Anh Trỗi, chị Út Tịch, T’nú,… đã hành xử như thế.
Nhân vật Anđrây Xôcôlốp trong Số phận một con người của Sôlôkhốp cũng là
một con người như thế.
Đặc biệt, với Số phận một con người, người đọc có cơ hội để hiểu hơn
tâm hồn Nga, tính cách Nga. Đây là một tác phẩm mà khi nhắc tác giả, người
ta nghĩ ngay đến những đóng góp của ông cho sự cách tân truyện ngắn Xô-
viết một thời. Cuộc đời Anđrây Xôcôlốp đã khái quát được cuộc đời của bao
người lính Hồng quân một thời: mất mát, thương tổn và chia cắt nhưng cuối
cùng chính tình người đã khiến họ trụ vững được sau khi tưởng như đã quỵ
ngã. Xôcôlốp trong truyện của Sôlôkhốp đã tìm thấy cho mình một bình minh
mới khi chỉ còn lại cậu bé con nuôi Vania. Đoạn viết của Sôlôkhốp về cuối
truyện chất chứa nỗi niềm nhà văn và những người Xô-viết chân chính khác
khi khám phá tâm hồn, tính cách dân tộc mình. Tác giả viết : “Hai con người
côi cút, hai hạt cát đã bị sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt
tới những miền xa lạ… Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước ? Thiết nghĩ
rằng, con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường sẽ đứng vững được và
sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên sẽ có thể đương đầu với mọi thử
thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường nếu như Tổ quốc kêu gọi”
[63, tr123].
Cái đôn hậu nhưng kiên gan của những người chiến sĩ cộng sản có được
chính nhờ họ đã tôi luyện mình trong thử thách, nhận ra được – mất, và trên
tất cả, họ biết tự đấu tranh với mình để giữ cho được giá trị thiêng liêng nhất
của hai tiếng Con Người. Người đọc Việt hôm nay phát hiện ở đất nước bạn
một tính cách qua một hình mẫu văn học. Chúng ta nhìn lại quá khứ dân tộc
và văn học dân tộc mình cũng thấy hiện thành hình bởi những con người bé
nhỏ về hình thể nhưng lớn lao về tầm vóc, những chị Út Tịch, chị Sứ của
miền Nam thành đồng Tổ quốc. Đó sẽ là gì nếu chúng ta không gọi cho nó
bằng cái tên tính cách Việt? Và cái sản phẩm này nó đã định hình trên dải đất
hình chữ S chúng ta. Chủ nghĩa anh hùng có thể ngày nay ít được nhắc đến
nhưng chúng ta vẫn cứ thấy sức lay động của nó nếu lật lại những trang sách
về quá khứ dân tộc một thời.
Cùng với lịch sử và văn học Xô-viết, lịch sử và văn học Việt Nam của 30
năm khói lửa đã ghi nhận đóng góp của một thế hệ, một lớp người biết nghĩ
và sống cho tiếng gọi cao cả nhất : Đất Nước.
2.1.2. Phẩm chất của con người mới trong lao động
Buổi đầu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều nước bắt đầu
bằng công cuộc kiến thiết, bởi những cuộc chiến liên tiếp đã để lại sau lưng
nó những đổ nát. Xác định cuộc sống lao động xã hội chủ nghĩa là một địa
bàn nhiều tiềm năng, các nhà văn Xô-viết hăm hở khám phá và khai thác nó.
Nhà văn Việt Nam từ khi xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc (sau 1954)
cũng mang tâm thế đó.
Sôlôkhốp để lại một tiếng vang lớn với đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nông thôn với bộ tiểu thuyết hai tập Đất vỡ hoang. Thực ra viết về tài này
có các tác giả khác cũng thành công không kém, như A. Platônôp, nhưng tác
phẩm Hố móng của ông bị coi là tác phẩm “trật đường ray”, không tiêu biểu
cho phong cách CNHT XHCN nên không được Việt Nam tiếp nhận. Học tập
thủ pháp của Sôlôkhốp trong đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, một số nhà
văn Việt Nam cũng tạo được một vị thế cho mình như Đào Vũ với Cái sân
gạch và Vụ lúa chiêm, Chu Văn với Bão biển, Nguyễn Thị Ngọc Tú với Đất
làng, Buổi sáng, Nguyễn Khải với Mùa lạc, Nguyễn Tuân với bút kí Sông
Đà… Tinh thần chung của các tác phẩm là tinh thần ngợi ca những nhân tố
tích cực trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả cảm hứng phê phán
những cái tiêu cực, có hại cho tập thể. Đó cũng vừa như một công thức đối
với đề tài này. Con người mới lúc này mang những nét đẹp và vai trò riêng
của nó.
@. Yêu nước, yêu lao động, biết quên mình trong lao động
Tiêu chuẩn trên là một dấu hiệu để khu biệt người anh hùng lao động với
kiểu hiệp sĩ trong văn học trung đại.
Là một người lính rời khỏi cuộc nội chiến, Đavưđốp – nhân vật chính
trong Đất vỡ hoang – đã trở thành thợ tiện, một đảng viên cộng sản nhà máy
Piuchilốp, được tổ chức xếp vào “đoàn hai vạn rưỡi” đi về nông thôn tham gia
vận động tập thể hóa nông nghiệp. Anh đã tiến hành hàng loạt biện pháp
nhằm đưa Grêmiátsi Lốc nơi anh đến thành một nông trang tập thể. Tinh thần
dấn thân của một người lính vốn mang nhiệt thành yêu nước về với cuộc đời
thường thì gắn với công cuộc xây dựng chung đã giúp Đavưđốp vượt qua
nhiều khó khăn đặt ra với anh: nhiều hộ cá thể không nhiệt thành với nông
trang, giai cấp kulắc sau nội chiến vẫn là một đe dọa với cách mạng, những
phần tử chống phá công cuộc cải tổ chung của chính quyền Xô-viết… Cuối
cùng, Đavưđốp và một đồng chí của anh, Nagunốp, đã hy sinh, nhưng
Grêmiátsi Lốc ngày một tiến lên. Tinh thần quên mình trong lao động, vì lợi
ích chung nơi Đavưđốp, Nagunốp, và nhiều nhân tố mới ở Grêmiátsi Lốc
(như: Maiđanhikốp, Varia, bác Salưi…) đã tạo nên một cuộc hồi sinh nơi này.
Không đặt lợi ích và quyền hành của mình lên trên hết, với vai trò chủ
tịch nông trang, Đavưđốp đã làm gương khi lên nương, làm đồng. Làm được
điều này chính vì ở Đavưđốp mang tư thế mang tinh thần của một con người
thuộc giai cấp tiên phong biết quên mình trong lao động. Nhờ đó mà anh lôi
kéo về phía mình ngày một đông đảo những con người biết tin và ủng hộ cái
mới. Sôlôkhốp miêu tả hình ảnh người chủ tịch nông trang tập thể trên trang
viết của ông thực sự là một con người dành cho lao động: “Đavưđốp nhớ lao
động chân tay đến bần thần cả người. Thân thể mạnh khỏe cường tráng của
anh khao khát lao động, thứ lao động nó làm cho chiều đến, các bắp thịt đau
dần trong cái mệt bã khoan khoái…” [57, tr.24-25].
Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận xây dựng ở nông thôn, nhiều con
người mới khác được ra đời để cuối cùng, như tinh thần của phương pháp
hiện thực xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển mang tính cách mạng của cái mới.
Trung thành với quan điểm lí luận của văn học vô sản, theo sát truyền thống
Sôlôkhốp, xuyên suốt các tác phẩm văn học Việt Nam thời kì này là hai loại
hình tượng trung tâm: nhân vật cộng sản dẫn đầu công cuộc tập thể hoá, giúp
người nông dân xác lập ý thức XHCN (kiểu Đavưđốp) và nhân vật trung nông
khắc phục ý thức tư hữu để đi đến khẳng định thái độ XHCN (kiểu
Maiđannhicốp).
Cách xây dựng cốt truyện, xây dựng tính cách nhân vật, cách xử lí mâu
thuẫn trong Bão biển (Chu Văn), Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm (Đào Vũ), Đất
làng, Buổi sáng (Nguyễn Thị Ngọc Tú),… làm người đọc dễ dàng liên hệ trực
tiếp với Đất vỡ hoang (Sôlôkhốp), Vùng mỏ Đônbat (Gorbatốp), Chuyện
thường ngày ở huyện (Ôveskin)…
Tiếp mạch tinh thần Đavưđốp của Sôlôkhốp, các nhà văn của ta viết về
đề tài lao động xã hội chủ nghĩa đã có những nhân vật kiểu Đavưđốp. Tiệp
của Chu Văn (trong Bão biển), Khái của Nguyễn Thị Ngọc Tú (trong Đất
làng) đều là những người lính phục viên về làng góp phần xây dựng một hậu
phương lớn trong cuộc trường chinh chống Mỹ. Tinh thần hăng hái luôn
thường trực ở họ. Nhiều đêm, các nhân vật trên mất ngủ vì thôn xã đang cần
đến những dự tính để thay đổi mà họ tự thấy mình phải có trách nhiệm. Tiệp
và những thanh niên tiên tiến ở Sa Ngoại (như Ái, Vượng, Nhân, Thành,
Huy…), đã chung tay trong tiếp cận những kĩ thuật mới áp dụng trên đồng
ruộng, từng bước ổn định lòng dân, tạo niềm tin vào công cuộc xây dựng,
phát triển quê hương, đã đánh đổi cả tính mạng để có con đê tưởng chừng
không thể thực hiện nổi trên bãi Mập Đớp bao nhiêu phen đón lũ. Quan trọng
hơn, với tấm lòng của những người con yêu nước, tin tưởng vào cách mạng,
họ đã bền bỉ đấu tranh với các lực lượng chống phá ở lĩnh vực tinh thần
(Thiên chúa giáo) đối với nhân dân Sa Ngoại. Tiệp hy sinh nhưng Sa Ngoại
hồi sinh. Khái, bí thư đảng ủy hợp tác xã Trung Dũng cũng đã tiến công liên
tục trên mặt trận lao động sản xuất để đưa Trung Dũng đi vào thực chất hơn là
những con số được báo cáo. Anh đôn đốc cải tiến kĩ thuật trong ủ giống, trên
đồng ruộng, áp dụng trồng cà vào mùa rét, hăm hở với việc thay đổi năng
suất, sản lượng lúa Trung Dũng, tiến hành xây dựng công trường chống lũ…
Khái không đơn độc trong hành trình của mình. Bên anh còn có Thức, Liên,
Ngát, ông Minh, cụ Hớn… Nhìn lại các tác phẩm thuộc đề tài lao động sản
xuất ở nông thôn của ta và văn học Xô-viết, bao giờ người đọc cũng thấy hiện
lên cả một tập thể người cứ vươn dần lên trong cuộc chiến với những trở lực
tự nhiên (và cả con người) đang đe dọa quá trình xây dựng chung. Cái công
thức này vẫn có ý nghĩa nhất định của nó trong quá trình xây dựng nhân vật
của các tác giả. Với chúng tôi, đó là một thành công (trong một chừng mực
nào đấy) của người sáng tác trong việc nêu bật sức mạnh tập thể: những con
người biết quên mình trong lao động xã hội chủ nghĩa. Một dân tộc biết yêu
hòa bình, yêu lao động hẳn phải có một sức mạnh tập thể và những con người
đại diện cho nó thì mới có thể làm nên những thắng lợi khác nhau. Đào, Huân
(trong truyện ngắn Mùa lạc) và một số nhân vật khác trong tập truyện cùng
tên trên của Nguyễn Khải đều là những con người như thế. Chấm, Trọng,
Quyện trong Cái sân gạch của Đào Vũ, ông lái đò trên sông nước Đà giang
trong tùy bút của Nguyễn Tuân cũng vậy. Trên cái nền của cuộc sống đang
hồi sinh từng ngày là những người chủ của nó. Đào Vũ dành nhiều sự quan
tâm cho Chấm – nữ nhân vật chính của tác phẩm: “Từ ngày vào hợp tác xã,
Chấm thấy đầu óc mở mang ra nhiều, lại thấy lòng dạ dường như hồ hởi,
thanh thoát hơn. Nhất là trong lao động, hợp tác xã càng đẩy việc khoán công
tiến tới thì Chấm càng lập những thành tích mới. Ở tổ khu nhà ngói, Quyện là
ngọn cờ đỏ thì ở tổ 6 này, ngọn cờ ấy chính là Chấm” [82, tr.756]. Nguyễn
Tuân cũng đã miêu tả cuộc vượt thác, cuộc chế ngự thiên nhiên của ông lái
sông Đà thật nhẹ nhàng, ngoạn mục.
Trong các tác phẩm trên, có khi nhân vật chính phải chịu những tổn thất,
hy sinh, có cả những nhân vật phụ cũng chịu số phận bi đát vì công cuộc xây
dựng chung. Đó là trường hợp của Liên trong Đất làng của Nguyễn Thị Ngọc
Tú. Liên là người thanh niên mới ở Trung Dũng. Cô hy sinh trong một trận
cứu cháy do bom Mỹ trút xuống làng. Một công thức được định ra với văn
học hiện thực xã hội chủ nghĩa là sự tổn thất nếu có được nói đến cũng chỉ là
tạm thời, và với tinh thần ấy, những trường hợp như Liên, Tiệp, Đavưđốp lẽ
tất phải gieo mầm sự sống. Sự sống phải được sản sinh trong tương lai. Với
cha đẻ tinh thần của các tác phẩm thì, chính những nhân tố hết mình với lao
động tập thể đã gieo trồng trên mảnh đất của họ những loại hoa tươi quả ngọt
cho đời.
@. Tinh thần làm chủ tập thể, biết phát huy sức mạnh tập thể
Một quy định lịch sử cũng vừa là thước đo đối với con người thời chiến
là tính cộng đồng, tính tập thể. Đi vào văn học thế tất phải là những con người
của tập thể. Do đó, những con người mới thường là người đại diện cho tập
thể.
Để những con người mới đại diện được cho tập thể, thường các nhà văn
miêu tả họ đều có một vị trí nào đó, một chỗ đứng nhất định về mặt chính
quyền, tổ chức. Đavưđốp là chủ tịch nông trang, bạn chiến đấu với anh, đứng
cùng chiến tuyến trong công cuộc thay đổi diện mạo nông thôn – Nagunốp –
là bí thư chi bộ Grêmiátsi Lốc, Tiệp là ủy viên hành chính xã, Thất là chủ tịch
xã (sau này là hai chủ nhiệm hợp tác xã Sa Tiến, Sa Thắng), Khái là bí thư
đảng ủy, Hân là chủ nhiệm hợp tác xã Trung Dũng v.v… Nhất thiết họ đều là
đảng viên. Việc chính trị hóa văn học thể hiện rõ nhất qua những vị trí mà các
nhân vật này nắm giữ.
Khi đứng trong tổ chức, tập thể, những người đứng đầu luôn là người đề
xuất ý kiến về những vấn đề của nông trang, của hợp tác, thường là những ý
tưởng táo bạo, lớn lao, nhiều người khác né tránh. Nhiệm vụ của anh chủ tịch
Grêmiátsi Lốc là vận động một trăm phần trăm nông dân tham gia tập thể
hóa; Tiệp đặt ra cho mình trách nhiệm đắp đê trên bãi Mập Đớp mà nghe ra ai
cũng dè dặt, không đồng tình, Khái lo xây dựng công trường chống lũ ở
Trung Dũng… Và, để xứng đáng là người đứng đầu, họ luôn là những người
đi đầu. Cha đẻ của tác phẩm, những nhà văn chiến sĩ, kết cấu cho nhân vật
của mình thường đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong lao động. Để có
được kết quả đầy tin tưởng, Đavưđốp, Tiệp, Khái (cùng những người bạn
cùng chiến trường thôn ấp lúc ấy) được miêu tả thường ít ăn, thiếu ngủ, về
đến nơi ở đã từ giữa đêm về sáng. Bằng nhiệt tình và khả năng lao về phía
trước, họ đã thuyết phục, kéo về phía họ được những con người mới khác –
những con người mà trước đây tư tưởng cá nhân, óc tư hữu choáng hết những
suy nghĩ, tình cảm của họ (kiểu như Khái đối với Tuấn, bí thư chi đoàn thanh
niên ở Trung Dũng; Tiệp đối với Thành, một thanh niên công giáo ở Sa
Ngoại, gia đình lão Am đối với con đường đến với hợp tác xã của lão).
Được xem như là những người đại diện cho tập thể, những người anh
hùng trên mặt trận lao động sản xuất ngoài việc đi đầu trong tất cả các hoạt
động, các phát kiến, còn là những con người biết dựa vào sức mạnh tập thể,
biết phát huy vai trò của tập thể. Đavưđốp chia nông trang viên Grêmiátsi Lốc
thành ba đội sản xuất, Tiệp cắt đặt cho tổ bèo, tổ du kích, thanh niên địa
phương… những nhiệm vụ khác nhau, có lúc anh còn được đặt trong tình
huống nan giải và đã nghĩ đến sự trợ giúp của những tập thể khác, Khái phân
công công việc cho Thức, Tuấn, Liên… Không khí lao động tập thể vì thế,
được tái hiện trên các trang viết, rất khẩn trương, nhộn nhịp, khỏe khoắn, yêu
đời. Nó giống với cảnh phá đường trong thơ Tố Hữu ngày nào. Tính cách
mạng, tiến lên, hướng về phía trước tràn ngập trong không khí được mô tả ấy.
Những con người mới như thấy gắn kết với nhau hơn vì lợi ích chung. Đó là
tâm trạng của Đavưđốp khi đến với các đội sản xuất: “lòng xúc động khoan
khoái khi thấy mọi người nhất tề đứng dậy chào anh. […]. Đến bây giờ họ đã
gắn bó với anh, thực sự vui mừng khi thấy anh đến, và đón anh như đón
người nhà. Đavưđốp ý thức được ngay tất cả những điều đó và một niềm vui
sâu sắc rung động tận đáy lòng anh…” [57, tr.75]. Còn đây là tâm trạng của
Huân khi sống như người một nhà với những con người đến với Điện Biên:
“Chiến tranh, gian khổ, năm tháng đã luyện cho tâm hồn anh một cái gì rất
trong đến nỗi anh soi vào mình mà thấy được tâm tư của người khác, một
nghị lực mà chỉ những lúc khó khăn mới thấy hết được sức mạnh của nó, và
sự hy sinh hồn nhiên, giản dị cho lý tưởng của mình và những người khác
cùng đi với mình trên một con đường” [62, tr.137].
Trong các tác phẩm trên, những cuộc họp, những liên hoan là một phần
không thể thiếu. Có lẽ do yêu cầu tái hiện bản thân hiện thực một cách chính
xác, trung thực (và một phần, như đã nói, trong nhiệm vụ phục vụ đường lối
của Đảng) mà nhà văn đã mang những nội dung ấy vào sáng tác. Hội họp là
một cách biểu dương lực lượng, một cách phát hiện sáng kiến, phát hiện con
người trong cảm quan của các nhà chính trị. Với nhà văn, đó như là một sự nỗ
lực để thể hiện tính đảng trong tác phẩm. Điều này có vẻ hợp thời, có vẻ lô-
gích trong tác phẩm nhưng lại khiến người đọc có cảm giác nặng nề, căng
thẳng khi tiếp cận. Cái mà người đọc cần là trạng thái hồi hộp khi dõi theo số
phận của nhân vật hơn là những tranh luận của nhân vật mà họ biết trước là
cái mới sẽ được ủng hộ. Đó lại là những cuộc họp vào ban đêm (vì ban ngày
tất cả dồn tâm lực cho những sự biến của đồng ruộng, của luống cày) gây cho
ta cái cảm giác dường như nó không thật, cuộc sống và con người đang được
tô hồng.
Những con người đứng đầu tập thể, đại diện cho tập thể và biết phát huy
sức mạnh tập thể cứ lớn mãi không ngừng về chiều kích của nó. Ngoài đấu
tranh với lực lượng tự nhiên thì đấu tranh trong tư tưởng của họ, trong tư
tưởng của tập thể cũng hết sức quan trọng. Cả Đavưđốp và Tiệp đều có những
cuộc vật lộn với chính những tình cảm thật nhất của mình. Cuộc vật lộn này
không quá cam go. Cuối cùng cả hai đều chiến thắng, họ từ bỏ tình yêu của
mình bởi vì họ là những đảng viên, được sự giáo dục của Đảng. Chính môtíp
“người Đảng” đã bộc lộ một khía cạnh khác của tính đảng trong văn học. Đọc
lại các tác phẩm, ta nhận thấy tính đơn điệu, một giọng trong cách thể hiện
nhân vật. Do tất yếu của lịch sử và đòi hỏi của văn nghệ cách mạng, nhân vật
mới này không thể khác được.
@. Kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng và những phần tử bất lợi
cho tập thể
Nếu như ngày trước, khi là những người lính trên chiến trường, những
con người mới này chỉ có một lực lượng duy nhất để đương đầu là kẻ thù thì
vào thời bình, trên trận tuyến để kiến thiết đất nước, họ có “hàng vạn thứ”
phải đối mặt, giải quyết. Đó là nhiệm vụ cách mạng ở thời bình dành cho họ.
Họ nhận nhiệm vụ ấy bằng cả một nhiệt tâm lớn dù biết rằng “Đây là nơi
chiến đấu khó khăn nhất!”, “ở đây không được thuần như khi làm một quân
nhân” (lời nhân vật Tiệp trong Bão biển). Có nhân vật luôn mang tính cách
mạng, cương quyết ủng hộ chính quyền cách mạng như Nagunốp trong Đất
vỡ hoang. Anh kiên quyết học tiếng Anh để khi có dịp đối diện với kẻ thù sẽ
ném ra tiếng hờn căm với bè lũ phát xít lúc bấy giờ: “mình cần tiếng Anh
[…]. Đêm đêm mình sẽ không ngủ, mình sẽ dốc hết chút sức lực còn lại,
nhưng… – và nghiến chặt hai hàm răng nhỏ và đều sít, anh tiếp – mình sẽ
học bằng được tiếng ấy! Mình sẽ nói chuyện bằng tiếng Anh, không chút
nương nhẹ gì với bọn phản cách mạng thế giới! […] “Mày đã uống máu giai
cấp công nhân Anh, uống máu nhân dân Ấn Độ và bao nhiêu dân tộc bị áp
bức khác phải không? Con quỷ khát máu đứng tựa lưng vào tường kia?” Chỉ
nói thế thôi! Những câu ấy mình học thuộc trước tiên” [56, tr.303].
Được xây dựng như là những nhân tố xung kích nhất, quyết tiến nhất,
những chiến sĩ cộng sản năm xưa rất kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng
trì trệ, bảo thủ, có hại cho ích lợi tập thể. Khái, Đổng, Hân, Nhiên… là những
cán bộ cốt cán của Đảng lãnh đạo Trung Dũng tiến lên đúng thực chất. Nhưng
Tỵ (trong Đất làng) lại là kiểu cán bộ đầy óc tư hữu, luôn toan tính để có lợi
cho mình, để mình được an thân (dù khoác dưới cái áo ích lợi tập thể). Tư
tưởng đó không bao giờ được những con người đặt lợi ích chung lên trên
đồng tình.
Trong các tác phẩm, tác giả thường miêu tả những cuộc tranh luận trong
chính nội bộ lãnh đạo về một vấn đề nào đó cuối cùng sẽ phát hiện được một
(hoặc một vài) cá nhân “có vấn đề” đi ngược lại lợi ích chung. Những cuộc
họp nông trang trong Đất vỡ hoang, những buổi họp bàn về vấn đề của hợp
tác xã trong Đất làng, Bão biển là nơi bộc lộ được những điều cần phải giải
quyết, những “trận địa” khó khăn m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN033.pdf