MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM 6
1.1. Nhân sinh quan Phật giáo 6
1.1.1. Vị trí nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học
Phật giáo 6
1.1.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo 11
1.2. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam 24
1.2.1. Quá trình ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam 24
1.2.2. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến một số lĩnh vực trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam 30
Chương 2: SỰ BIẾN ĐỔI CỦA NHỮNG ẢNH HƯỞNG NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - XU HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 48
2.1. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo ở nước ta hiện nay 48
2.1.1. Nhân tố kinh tế 48
2.1.2. Sự giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới 54
2.1.3. Những hiện tượng lợi dụng tôn giáo để chống phá đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước 56
2.1.4. Quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và chính sách đối với tôn giáo 59
2.2. Sự biến đổi ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay 63
2.2.1. Thực trạng 63
2.2.2. Xu hướng biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo 68
2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo ở nước ta hiện nay 74
2.3.1. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh tế thị trường, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh 74
2.3.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo, tổ chức phật tử trong đời sống kinh tế - xã hội 77
2.3.3. Đấu tranh chống những hiện tượng lợi dụng Phật giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của nước ta 82
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
92 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7052 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tình thương nhân loại đối với tất cả mọi người, phải giúp đỡ san sẻ, đùm bọc, không vụ lợi, không đợi chờ sự đền đáp và hoàn toàn mang tính tự nguyện.
Nếp sống của con người Việt Nam nghiêng về nội tâm, hướng nội. Ngày nay, sau khi đã trải qua nhiều mất mát, hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, người dân Việt Nam rất nhạy cảm trước mọi niềm vui nỗi buồn của mọi người, sẵn sàng chia sẻ, đồng cam cộng khổ với những người xung quanh. Dân gian ta có câu "hàng xóm láng giềng những khi tắt lửa tối đèn có nhau" có ý muốn nói tới sự đùm bọc, quan tâm chu đáo, chia sẻ lẫn nhau khi gặp khó khăn. Đây là một nghĩa cử cao đẹp của con người Việt Nam. Cái nghĩa cử ấy, ngoài yếu tố truyền thống, phải chăng cũng có ảnh hưởng từ giáo lý nhân sinh quan Phật giáo? Bởi vậy, trong việc giải quyết các mối quan hệ xã hội, người Việt Nam đề cao và lấy cái tâm làm gốc, thiên về tình cảm. Cho đến hiện nay, đối với nhiều gia đình người Việt Nam thì mười điều tâm niệm và mười bốn điều răn của Phật được xem là những giá trị đạo đức và được họ treo ở những nơi trang trọng nhất với ý muốn luôn nhắc nhở những thành viên trong gia đình phải sống theo những điều Đức Phật đã dạy.
Điều răn thứ sáu trong mười bốn điều Phật dạy có ghi: "Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu". Phật đã dạy các đệ tử rằng, cùng tột các điều thiện không gì bằng hiếu, cùng tột các điều ác không gì bằng bất hiếu. Ngay trong gia đình, Phật dạy mọi tín đồ phải có hiếu với ông bà cha mẹ:
Phụng dưỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu; thay mặt cha mẹ thực hiện những việc cần thiết thuộc bổn phận của cha mẹ; duy trì bảo vệ làm vẻ vang cho truyền thống gia đình, giữ gìn tài sản của gia đình do cha mẹ tích lũy được; sau khi cha mẹ mất làm lễ thành phục theo đúng lễ, tổ chức an táng trọng thể [46, tr. 175].
Vợ chồng phải thủy chung, kính trọng và thông cảm lẫn nhau. Cha mẹ phải thương yêu con cái, "phải tránh cho con rơi vào ác đạo; dạy con cái làm những công việc hữu ích; đem lại cho con cái một sự giáo dục tốt đẹp; cưới vợ gả chồng cho con cái thành hôn với con em những gia đình lương hảo, đến một lúc thích hợp thì phân chia tài sản cho các con" [46, tr. 175]. Hàng xóm, bạn bè phải ân cần khoản đãi, rộng lượng vui vẻ giúp đỡ lẫn nhau... Đây cũng là những điều hết sức cần thiết đối với mỗi thành viên trong gia đình hiện đại. Những điều Phật dạy đã được thẩm thấu và được phát huy trong mỗi gia đình Việt Nam. Điều đó đã nói lên triết lý nhân sinh của Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng trong lối sống của con người Việt Nam, nó góp phần hình thành và duy trì nguyên tắc sống và hoạt động của người Việt.
Còn trong quan hệ cộng đồng, con người Việt Nam lấy tâm làm gốc, đây là sự tự tâm, là thứ tình cảm trong sáng. Trong mười điều tâm niệm Phật đã dạy và được con người Việt Nam lĩnh hội: "Thi ân đừng cầu đền đáp vì cầu đền đáp là thi ân có mưu tính" [23, tr. 20]. Tình cảm này được con người Việt Nam coi trọng, là sự thể hiện của tấm lòng và đem bày tỏ với mọi người, đặt tình cảm lên trên hết, đây vốn là truyền thống trọng nghĩa của dân tộc ta.
1.2.2.3. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến văn hóa
Giữa đạo đức, lối sống,văn hóa không có ranh giới rõ ràng, rành mạch, ví như sự khác nhau về lối sống là do sự khác biệt về văn hóa quy định, hay đạo đức là phần cơ bản trong giá trị của văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, ngoài đạo đức, lối sống thì văn hóa còn có ngoại diên rộng: như văn học nghệ thuật, thị hiếu, thẩm mỹ... vì vậy tác giả luận văn xin đề cập những tiểu tiết chưa có dịp bàn đến trong những nội dung nói trên (đạo đức, lối sống).
Từ khi được truyền bá vào Việt Nam, Phật giáo đã trải qua nhiều bước thăng trầm trong lịch sử, có lúc đạt tới đỉnh cao rực rỡ, cũng có lúc bị lãng quên. Mỗi bước phát triển của Phật giáo đều gắn bó chặt chẽ, hòa quyện với sự hình thành nền văn hóa Việt Nam (bao gồm: Tư tưởng, văn học nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc...).
Trong thời kỳ đầu, ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam được biểu hiện chủ yếu thông qua việc chép kinh học Phật, sinh hoạt Phật giáo còn rất thô sơ, việc dịch kinh, làm chùa được thực hiện vào khoảng thế kỷ thứ II. Nguyễn Lang đã viết: "Đạo Phật thấm vào văn minh Giao Châu tự nhiên và dễ dàng như nước thấm vào lòng đất" [19, tr. 48].
Đến thế kỷ thứ X - XV, con người Việt Nam trong quá trình lao động sản xuất đảm bảo đời sống của mình vừa tạo ra những cái đáp ứng nhu cầu tất yếu đầu tiên như ăn, mặc, ở... đồng thời còn thỏa mãn sự tưởng tượng hư ảo bằng việc xây dựng các đền chùa để thờ Phật, thờ Thần. Trong kiến trúc truyền thống Việt Nam, chùa tháp là một trong những công trình kiến trúc có giá trị văn hóa, truyền thống khá đậm nét nhằm thỏa mãn nhu cầu tôn giáo. Phật giáo, trong đó triết lý nhà Phật là yếu tố chủ đạo của kiến trúc chùa tháp Việt Nam.
Dưới đời Trần chùa được mọc lên ở khắp mọi nơi, các tín đồ Phật giáo cũng tăng lên rất nhanh và nhiều. Làng lớn có đến 10 chùa, làng nhỏ cũng khoảng 5-6 chùa. Số tăng sĩ ít nhất cũng khoảng 30.000 vị. Dưới triều Nguyễn, chùa được xây dựng nhiều, trong đó có nhiều chùa nổi tiếng như chùa Thiên Mụ, chùa Tháp v.v... Chùa không chỉ là nơi quy tụ tín ngưỡng mà còn là địa điểm sinh hoạt văn hóa, biểu diễn văn nghệ, vui chơi hội hè, diễn xướng của người dân, là môi trường nuôi dưỡng cho sự khéo léo của bàn tay khối óc con người. Phật giáo không chỉ dừng lại ở tầng lớp trên mà đã thâm nhập vào tầng lớp bình dân ở khắp miền đất nước. Phật giáo không gò ép con người vào trật tự chính trị xã hội, cũng không biện hộ cho ngoại xâm. Nó nêu cao lòng từ bi, giáo dục lòng thương yêu mọi người, đặc biệt là những người nghèo khổ. Phật giáo đi vào lòng người dân Việt Nam và được cải biến cho phù hợp với tín ngưỡng truyền thống của nhân dân Việt Nam. Ông Bụt tượng trưng cho đấng tối cao luôn hiểu thấu mọi chuyện trên đời, luôn thân thiện gần gũi với mọi người ngay cả những em bé. Bụt luôn xuất hiện kịp thời, giúp đỡ những người tốt bị điều oan ức, Bụt rất nhân từ và thương người.
Thời Lý - Trần với sự phát triển cường thịnh của Phật giáo Việt Nam, số lượng chùa chiền và tăng lữ đông hơn hẳn các thời khác. Thời Lý, các Thiền sư có công giúp vua về mọi mặt như chính trị, quân sự, ngoại giao. Sư Khuông Việt và sư Pháp Thuận được nhà Vua cho tiếp xứ Trung Quốc, sư Vạn Hạnh được Vua Lê Đại Hành hỏi ý kiến trước khi xuất đánh quân Tống v.v... Giai đoạn này các nhà sư là lực lượng tri thức của xã hội, họ là lực lượng đông đảo sống gần gũi với quần chúng nhân dân, thông cảm và hiểu được mọi khổ đau của người dân đang bị chính sách độ hộ hà khắc thống trị bóc lột. Các Thiền sư không có ý muốn tranh ngôi vua, không dành quyền bính cũng như địa vị ngoài đời; họ được vua tin tưởng, coi trọng, yêu mến; họ chỉ tâm niệm có một điều là giúp vua. Họ đã cộng tác, liên kết với vua để hy vọng có thể đem lại hạnh phúc cho dân chúng, giúp họ thoát khỏi cảnh sống khổ cực. Bên cạnh đó các ông vua rất cần sức học tập của các Thiền sư. Như vậy có thể thấy, Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng trực tiếp đến chính trị của đất nước ta.
Thời kỳ này, nhiều vị vua, quan là những tín đồ Phật giáo có tư tưởng triết lý về cuộc sống nhập thế, nhưng không tách khỏi tư tưởng dân tộc. Có nhà vua rất mộ Phật như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông cuối đời đã vào chùa tu Phật.
Phật giáo được xem là yếu tố không thể thiếu trong cấu trúc văn hóa dân tộc, góp phần tạo nên nét bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Ta có thể thấy chí hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam độc lập của các Thiền sư rất rõ rệt. Trên phương diện địa lý, các Thiền sư muốn dời kinh đô tới một nơi có thể dựng nên sự nghiệp độc lập lâu dài. ở phương diện học thuật, họ có công rất lớn trong việc đào tạo tầng lớp trí thức, không có chấp vào thuyết trung quân, biết dung hợp các ý thức hệ dị biệt như Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. ở phương diện văn hóa, họ đã tạo nên cả một triều đại lấy đức từ bi làm yếu tố căn bản cho chính trị. Còn trên phương diện văn học, họ lại là những người đóng góp vào lĩnh vực sáng tác nhiều nhất, những sáng tác này đều mang chủ đề Phật giáo. Các Thiền sư đều đã để lại cho đời sau những tác phẩm có giá trị nhiều mặt... Trong đó phải kể đến các tác phẩm như: "Khóa hư lục" của Trần Thái Tông; "Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục…" của Tuệ Trung Thượng Sĩ - đó là những tác phẩm rất có giá trị về mặt triết lý.
Đặc biệt, các nhà sư còn là thầy dạy văn hóa một thời. Các Thiền sư đã mở trường dạy học cho cả tăng sĩ và tu sĩ. Sư Vạn Hạnh đã đào tạo Lý Công Uẩn tại chùa Lục Tổ. Trí Thiền sư trên núi cao đã đào tạo Tô Hiến Thành và Ngô Hoài Nghĩa... Về mỹ thuật, thời Lý cũng mang đậm dấu tích của Phật giáo. Lý Thái Tổ lên ngôi năm 1010 đã cho xây 8 ngôi chùa ở quê nhà, 300 ngôi chùa khác trong nước cũng được dựng lên, các chùa hư nát thì đều được sửa lại; năm 1024, ông cho xây dựng thêm chùa Trấn Giáo. Năm 1036, vua Lý Thái Tông tổ chức việc đúc tượng Phật Đại Nguyện; năm 1049, xây dựng chùa Một Cột; Năm 1056, Lý Thánh Tông khởi công xây dựng chùa Sùng Khánh Báo Thiên và phát 12.000 cân đồng để đúc chuông; năm 1058 Lý Nhân Tông dựng chùa Lam Sơn và xây Tháp đá tại huyện Quế Dương…
Thời vua Trần Nhân Tông là thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo. Phật giáo Trúc Lâm là một nền Phật giáo độc lập, uy tín và tinh thần của nó là uy tín và tinh thần của quốc gia Đại Việt. Tuy nó tiếp nhận ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa nhưng có nét độc đáo riêng của mình, là một giáo hội Việt Nam phục vụ cho người dân Việt Nam, duy trì cũng như bồi đắp cá tính con người Việt Nam. Đặc điểm nổi bật của Phật giáo Trúc Lâm là vấn đề nhập thế. Đạo Phật phục vụ đời sống tâm linh giải thoát và đời sống xã hội, triết lý về đời sống nhập thế của các Thiền sư là không thoát lý khỏi tư tưởng dân tộc. Tuy là một tín đồ Phật giáo, nhưng Trần Thái Tông không quên trách nhiệm của mình. Ông đã viện dẫn lời của Quốc sư để nói lên điều đó: "Phàm đã làm vua trong thiên hạ phải lấy ý muốn của thiên hạ là ý muốn của mình, phải lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình" [34, tr. 212].
Nhiều vị cao tăng thời Lý - Trần đã tham gia chính sự và các hoạt động xã hội, rất nhiều vị vua, quan, tướng lĩnh là các tín đồ Phật giáo hết lòng nâng đỡ Phật giáo. Với tư tưởng triết lý nhập thế, Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo thời Trần, đã có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc và ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa dân tộc.
Văn hóa đời Trần đã có những đóng góp hết sức lớn lao của đạo Phật, mang đậm màu sắc của triết lý Phật giáo với ưu điểm nổi bật là tinh thần khoan dung, con người được giải thoát có cuộc sống thoải mái, tự do không phải tuân thủ nghiêm ngặt những giới luật của nhà chùa:
"Cư trần lạc đạo hãy tùy duyên.
Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền,
Châu báu đầy nhà đừng chạy kiếm,
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền?" [19, tr. 349].
Triều đình đã nhiều lần tổ chức các khoa thi để chọn người hiền tài. Người tài xuất hiện nhiều được triều đình đãi ngộ. Phong trào học tập các kinh điển của cả Nho, Phật và Lão phát triển sâu rộng. Đặc biệt chữ Nôm xuất hiện đã góp phần tô đậm thêm bản sắc văn hóa Việt Nam. Văn hóa đời Trần là nền văn hóa độc lập mà cốt tủy là tư tưởng triết học Phật giáo trong đó có triết lý về nhân sinh.
Đến đời Lê, Phật giáo không còn đóng vai trò là quốc giáo. Hoạt động chủ yếu của các tín đồ Phật giáo chủ yếu là việc tu hành nhằm thoát khỏi cuộc sống trần thế và Phật giáo chuyển dần vào dân gian, gắn bó với làng xóm cộng đồng. Nho giáo bước lên chiếm lĩnh vũ đài chính trị, trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần người Việt Nam.
Sau thế kỷ XV, chế độ phong kiến Việt Nam bước vào thời kỳ suy tàn. Nhiều giá trị Nho giáo bị đảo lộn, do đó các tập đoàn phong kiến muốn dựa vào Phật giáo để ru ngủ quần chúng nhân dân đồng thời giảm bớt sự phẫn nộ của họ... Nhờ vậy Phật giáo dần được khôi phục trở lại. Tuy là tư tưởng Phật giáo có nhiều tính chất thần bí, song những triết lý nhân sinh của Phật giáo vẫn là chỗ dựa tinh thần của nhiều người dân Việt Nam. Triều đình nhà Nguyễn góp phần quan trọng trong sự phát triển lâu dài của Phật giáo Việt Nam, duy trì nền văn hóa mang màu sắc Phật giáo của dân tộc. Tư tưởng nhân sinh Phật giáo là gốc, yếu tố căn bản của văn hóa Việt Nam, nó đã có công lao đáng kể trong việc tạo dựng một nền văn hóa phong phú đậm đà bản sắc dân tộc, định hình, hướng dẫn sự hình thành nếp sống, lối tư duy của người dân Việt Nam.
Tóm lại, từ khi du nhập vào Việt Nam, theo suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, Phật giáo luôn có mặt và gắn bó mật thiết với đời sống tinh thần của người dân Việt Nam biểu hiện trên một số lĩnh vực như: đạo đức, lối sống, văn hóa..., trong đó ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức có phần nổi trội hơn. Phật giáo đã được người Việt tiếp nhận một cách dễ dàng tự nhiên, vì có nhiều điểm tương đồng. Phật giáo từ cái ngoại lai trở thành cái bản địa, từ xa lạ trở thành thân thuộc với mọi người. Có thể nói, chính truyền thống sẵn có của dân tộc đã dễ dàng hòa quyện với giáo lý nhà Phật, tạo nên một chủ nghĩa tích cực mang màu sắc Việt Nam, một nhân tố bền vững trong nhân sinh quan Việt Nam.
Chương 2
Sự biến đổi của những ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo ở Việt Nam hiện nay- xu hướng và giải pháp
2.1. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo ở nước ta hiện nay
2.1.1. Nhân tố kinh tế
Là một trong những bộ phận hợp thành kiến trúc thượng tầng của xã hội, với tư cách là một tôn giáo, Phật giáo chịu sự quy định của tồn tại xã hội (trước hết là các quan hệ kinh tế). Điều này đúng như C.Mác đã nói: Mỗi lần xã hội có biến đổi to lớn thì quan điểm và quan niệm của con người lại biến đổi theo, có nghĩa là quan niệm của tôn giáo cũng biến đổi. Còn Ph.Ăngghen cũng đã viết trong tác phẩm "Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" như sau: "Chỉ có thể nói đến những bước ngoặt lịch sử lớn có kèm theo những sự thay đổi về tôn giáo" [30, tr. 260]. Từ đó dẫn đến sự ảnh hưởng của nó trong đời sống tinh thần con người Việt Nam cũng biến đổi.
ở Việt Nam trước đây, trong thời kỳ chiến tranh, cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã phát huy tác dụng, nhưng khi đất nước đi vào xây dựng kinh tế - xã hội trong thời kỳ hòa bình thì cơ chế ấy tỏ ra lạc hậu không còn phù hợp nữa. Trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp không phát huy được khả năng sáng tạo của con người trong lao động sản xuất, mọi người làm ăn cầm chừng, dẫn đến tình trạng nền kinh tế nước ta nhiều năm dậm chân tại chỗ, không phát triển được.
Thêm vào đó là sự sai lầm trong quản lý kinh tế - xã hội của nước ta cộng với sự khủng hoảng của mô hình chủ nghĩa xã hội, đế quốc Mỹ bao vây cấm vận, cũng như khó khăn do thiên tai v.v... đã làm cho đời sống kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục tình hình, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã tiến hành công cuộc đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới của nhân dân ta đã từng bước thu được những thành tựu rất quan trọng và vững chắc trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, trước hết là lĩnh vực kinh tế. Đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng đã chỉ rõ, các thành phần kinh tế phải tuân theo pháp luật và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, không cô lập cùng tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân. Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên càng phải quan tâm đến tính chất của sự tăng trưởng, gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ cải thiện môi trường, khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi đôi với xóa đói giảm nghèo, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa là quy luật để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh; thực hiện nhất quán việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã khai thác, phát huy được mọi tiềm năng, sức mạnh của các thành phần kinh tế nhằm phát triển kinh tế đất nước, như Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa VI (tháng 3/1989) khẳng định: "Phát triển kinh tế nhiều thành phần có kế hoạch, có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đến sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa" [8, tr. 57] - đó là sự thể hiện bước phát triển mới trong tư duy kinh tế của Đảng.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó đã được thể hiện nhất quán trong đường lối phát triển kinh tế tại các kỳ Đại hội của Đảng khóa VII, VIII và IX.
Trên đất nước ta hiện nay, sự đổi mới về kinh tế đã làm biến đổi bộ mặt xã hội, sự nghiệp đổi mới đã làm thay đổi sâu sắc và toàn diện đời sống xã hội, trong đó nét nổi bật là sự phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cùng với sự đổi mới đi lên của đất nước, sự phát triển Phật giáo cũng có nhiều nét mới so với trước thời kỳ đổi mới, số lượng chùa chiền và tín đồ Phật giáo tăng lên nhanh chóng. Sự phát triển nhanh chóng của Phật giáo hiện nay đã đặt ra nhiều vấn đề phải quan tâm giải quyết. Lý do hướng tới đạo Phật của nhiều người không giống nhau. Chẳng hạn, do hiểu biết không đầy đủ giáo lý của nhà Phật cho nên nhiều người đi chùa và sa đà vào việc lễ bái, mê tín dị đoan; thậm chí đã có rất nhiều người đã trở thành nô lệ của việc tướng số, cúng bái, tiêu phí nhiều thời gian và tiền bạc, ảnh hưởng đến hoạt động lao động sản xuất và đời sống của cá nhân và xã hội.
Bên cạnh những thành tựu, những mặt tích cực do đổi mới đem lại thì cũng xuất hiện nhiều biểu hiện tiêu cực như tham nhũng, hối lộ, thói quen tiêu dùng, tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường v.v... phát triển. Do tác động của cơ chế thị trường, những người dân buôn bán ở thành thị thích nghi nhanh chóng hơn cả, họ chấp nhận sự cạnh tranh, cuộc sống có nhiều rủi ro. Trong cơ chế mới, rất nhiều người nhanh chóng thích nghi, vươn lên tự khẳng định mình; tuy nhiên, cũng có bộ phận nhân dân chưa bắt nhịp và thích ứng với điều kiện mới. Nhiều người trong số họ cảm thấy hoang mang, không tự tin vào chính bản thân, do vậy họ hướng tới Phật giáo, mong tìm thấy chỗ dựa về mặt tinh thần. Vì sao hiện nay khi kinh tế - xã hội của đất nước đang trên đà phát triển thì số người tham gia các hoạt động tôn giáo tín ngưỡng nói chung và Phật giáo nói riêng lại có xu hướng ngày càng gia tăng? Phải chăng là do tác động mặt trái của kinh tế thị trường, như đã đề cập ở trên, là một trong những nguyên nhân của tình trạng đó? Cuộc sống sôi động của kinh tế thị trường có mặt trái của nó, một trong số đó là sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng phát triển. Chính ảnh hưởng của sự phân hóa ấy đã hình thành và phát triển niềm tin tôn giáo ở một bộ phận không nhỏ của các tầng lớp dân cư. Tuy nhiên, cơ chế thị trường khiến người giàu trong phút chốc có thể trắng tay, nhưng cũng làm cho không ít người trở nên giàu có một cách nhanh chóng. Tình trạng này đã thúc đẩy không ít người tìm đến sự đền bù hư ảo của tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có Phật giáo. Những người giàu có thì luôn mong muốn giàu hơn nữa, kéo dài sự giàu sang đó mãi mãi. Khi cuộc sống đầy đủ về mặt vật chất những con người này tìm đến tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng để mong muốn duy trì cuộc sống, kéo dài cuộc sống "mến yêu" ấy. Họ đến chùa xin Phật, Thần, Thánh cứu giúp phù hộ cho cuộc sống được đầy đủ an nhàn ở thế giới hiện thực. Còn khi phải ra đi sang thế giới bên kia họ cầu mong được vào nơi mát mẻ an lạc... Những người giàu có đã vậy, còn những người nghèo thì sao? Họ luôn tâm niệm mong sao có cuộc sống được đầy đủ bằng người; họ cầu mong Đức Phật ra tay cứu giúp, vì vậy họ luôn tin theo tôn giáo, Phật giáo, tin vào các đấng cứu thế. Điều này có thể giải thích được hiện tượng trong xã hội ta hiện nay ngày càng có nhiều người đến với Phật giáo, họ tham gia hoạt động Phật giáo không còn thuần túy chỉ là giác ngộ thành Phật. Nhiều người đến chùa lễ Phật để cầu may, giải hạn, tìm đến những nơi thờ tự để xin thẻ, xem tử vi, thậm chí còn tham gia, tổ chức hoạt động đồng bóng hay khấn bái cầu mong Phật che chở cho hành vi sai trái, phi pháp của mình được trót lọt, trúng quả. Họ ngộ nhận Phật là ông Thần, chỉ năng cầu xin và lễ bái là được Phật ủng hộ che chở (tiền xuất Phật biết), hoặc quan niệm có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Xét về mặt kinh tế, ta thấy những người này đóng góp nguồn kinh phí không nhỏ để thực hiện việc tu bổ sửa chữa chùa trong những năm gần đây.
Từ những quan niệm, cách hiểu và cách làm của một số người như trên đã nêu làm cho kinh tế thị trường đã ùa vào chân của Phật tổ. Có nhà sư đã kiếm chọn những chùa to ở những trung tâm buôn bán lớn, trọng phong bì hơn là hương, hoa; chùa chiền cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc sống trần tục.
Chính ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế - xã hội và mặt trái của kinh tế thị trường, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đã làm cho không ít người đến với tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng để tìm chỗ dựa về mặt tinh thần, tâm linh.
Sau hơn 17 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta giành được những thành tựu rất cơ bản và quan trọng. Lực lượng sản xuất không ngừng được phát triển, quan hệ sản xuất càng được củng cố, đời sống nhân dân đang từng bước được cải thiện, bộ mặt của đất nước ngày càng biến đổi theo hướng hiện đại văn minh v.v... Tuy nhiên, hiện nay đất nước ta đang đứng trước cả cơ hội và thách thức lớn. Nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn thường trực, Việt Nam vẫn nằm trong nhóm những nước nghèo trên thế giới với hơn 70% lực lượng lao động nông nghiệp, nền kinh tế tiểu nông vẫn tồn tại cơ bản trong kinh tế nước ta hiện nay, kinh tế nông nghiệp chủ yếu vẫn còn phù hợp với mô hình gia đình truyền thống.
Môi trường xã hội có ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành niềm tin tôn giáo của con người. Gia đình truyền thống Việt Nam gắn liền ảnh hưởng giáo lý Phật giáo với quan niệm, phong tục tập quán, lễ hội đền chùa kết hợp với tôn giáo của các thế hệ trước trong gia đình hình thành các thế hệ con cháu sau này của người Việt Nam đến với Phật giáo một cách tự nhiên; ngày mồng một, ngày rằm chùa nào cũng đông chật người; hầu như trong gia đình nào cũng có bàn thờ đầy ắp hương hoa; thậm chí ngay ở nơi làm việc của nhiều công sở hay trên các phương tiện giao thông như tàu, thuyền, ô tô v.v.. cũng có bát hương.
Nền kinh tế thị trường đã và đang được xác lập trên đất nước ta, sự tác động của nó đã dẫn nhiều người tìm đến Phật giáo bằng những con đường khác nhau. Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần đã làm cho kinh tế nước ta phát triển, nâng cao đời sống cho nhân dân, kinh tế thị trường đã thức tỉnh tư duy kinh tế của từng người dân và toàn xã hội, làm thay đổi tồn tại xã hội. Điều này góp phần làm giảm bớt niềm tin hư ảo của con người vào Phật giáo, nhiều người đã nhận thấy cuộc sống của họ trên trần thế do chính bản thân họ quyết định, làm chủ, nhiều tín đồ tạm thời không sống đời sống tôn giáo để kiếm tiền, làm các công việc đời thường, hướng đến đời sống thế tục, nhiệt tình với lợi ích thế tục, làm cho lối sống của các tín đồ, phật tử cũng biến đổi nhiều. Cũng có thể lý giải rằng, khi cuộc sống được cải thiện thì nhu cầu tâm linh ngày càng cao hơn, đây là đòi hỏi bản tính của con người cần có niềm tin, thỏa mãn đời sống văn hóa tinh thần. Điều đó chứng tỏ ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo cũng có sự thay đổi rõ rệt. Nhưng sự may rủi trong kinh tế thị trường cũng có khi làm tăng niềm tin hư ảo, kinh tế thị trường lại có mặt trái của nó đó là quy luật cạnh tranh, đi liền sau đó là những toan tính, thủ đoạn, mưu mô. Trong cơ chế thị trường có nhiều người đã giàu lên một cách nhanh chóng do họ chớp được thời cơ, nhưng cũng đưa không ít người đến chỗ phá sản... sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng rõ rệt, dẫn đến sự khác biệt cơ bản về mức sống, tiện nghi sinh hoạt, mức hưởng thụ văn hóa cũng như nâng cao đời sống tinh thần. Từ sự phân hóa giàu nghèo tất yếu dẫn đến sự phân tầng trong xã hội.
Vấn đề giải quyết công ăn việc làm trong cơ chế thị trường hiện nay cũng là vấn đề cấp bách ở xã hội ta. Đến năm 2010 nước ta có khoảng 56,8 triệu người ở độ tuổi lao động, tăng gần 11 triệu người so với năm 2000. Để có thể giải quyết vấn đề việc làm, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và biện pháp tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế, đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở sản xuất, kinh doanh… khôi phục các làng nghề, mở rộng thị trường lao động trong nước, đẩy nhanh xuất khẩu lao động có tổ chức và hiệu quả. Hiện nay, tình trạng thiếu việc làm dẫn tới sự khó khăn bế tắc trong cuộc sống của con người, từ đó cũng làm cho họ đến với tôn giáo bằng thái độ bi quan, tiêu cực, đặt các vấn đề của hiện thực xã hội đằng sau các vấn đề ảo tưởng trần thế.
Nền kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân quan trọng làm nảy sinh các hiện tượng hạn chế, tiêu cực của các hoạ