MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ CÁC CẤP Ở VIỆT NAM
6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam 6
1.2. Các yếu tố đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự 30
1.3. Các yêu cầu đối với áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự 36
Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ CÁC CẤP Ở VIỆT NAM 46
2.1. Sự ra đời, phát triển của Tòa án quân sự và tình hình xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự những năm gần đây 46
2.2. Những ưu điểm về áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự 54
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế của áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự 58
Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ HÌNH SỰ SƠ THẨM CỦA TÒA ÁN QUÂN SỰ CÁC CẤP Ở VIỆT NAM 72
3.1. Các giải pháp chung 73
3.2. Các giải pháp cụ thể 86
KẾT LUẬN 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
98 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1994 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oạt động xét xử và sự phán quyết của Tòa án và có thể tác động vào ý chí của Thẩm phán, HTQN ở phạm vi, mức độ và hình thức khác nhau. Vì vậy, để bảo đảm sự khách quan, đúng đắn trong việc áp dụng pháp luật khi xét xử, Thẩm phán, HTQN cần có bản lĩnh vững vàng và đề cao trách nhiệm và tính độc lập trong quá trình xét xử.
Tính độc lập của việc áp dụng pháp luật thể hiện HĐXX không bị lệ thuộc vào bất kỳ một sự tác động của cá nhân, tổ chức nào hoặc dư luận xã hội; HĐXX không phụ thuộc vào kết luận của cơ quan điều tra, quyết định truy tố của Viện kiểm sát, yêu cầu của đương sự;... Đây là nguyên tắc Hiến định trong hoạt động của Tòa án nói chung và của HĐXX nói riêng. Tính độc lập đòi hỏi Thẩm phán và Hội thẩm đánh giá chứng cứ theo niềm tin nội tâm trên cơ sở xem xét đầy đủ tất cả các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Mọi phán quyết của HĐXX chỉ căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, độc lập không có nghĩa là Thẩm phán và Hội thẩm quyết định các vấn đề theo ý muốn chủ quan của mình mà là điều kiện để Thẩm phán và Hội thẩm khách quan, vô tư trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ và ra các phán quyết về vụ án.
1.3.5. Tính thống nhất
áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm của TAQS do một HĐXX tiến hành. Kết quả áp dụng pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào trình độ năng lực, ý thức pháp luật,... của từng Thẩm phán và HTQN. Ngoài ra, việc áp dụng pháp luật trong xét xử còn phải tuân thủ những nguyên tắc khác như: nguyên tắc pháp chế; mọi công dân bình đẳng trước pháp luật;... Vì vậy, khi xét xử các TAQS phải đảm bảo tính thống nhất trong việc tuân thủ các nguyên tắc áp dụng pháp luật.
Tính thống nhất trong hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở sự thống nhất giữa các TAQS khi áp dụng pháp luật ở các phương diện sau đây:
- Thống nhất về quy trình áp dụng pháp luật, về cách đánh giá tình tiết, chứng cứ vụ án cũng như tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả của vụ án và các tình tiết khác liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án.
- Thống nhất về nhận thức đúng đắn nội dung của các quy phạm pháp luật cần áp dụng.
- Thống nhất về quan điểm, đường lối xử lý đối với các loại tội phạm để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tính thống nhất của việc áp dụng pháp luật của các TAQS phụ thuộc vào nhiều yếu tố: phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ năng lực, ý thức pháp luật,... của từng Thẩm phán, HTQN; sự hoàn thiện pháp luật, việc giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật của cơ quan có thẩm quyền.
1.3.6. Tính khả thi của bản án, quyết định của Tòa án
Hoạt động xét xử là một biện pháp hữu hiệu mà Nhà nước sử dụng nhằm đấu tranh, phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật. Vì vậy, hoạt động áp dụng pháp luật trong xét xử nói chung, trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS nói riêng có ý nghĩa chính trị, xã hội sâu sắc và bản án, quyết định của Tòa án là sự ghi nhận kết quả của quá trình áp dụng pháp luật trong xét xử thể hiện tập trung ý nghĩa chính trị, xã hội đó. Các phán quyết của Tòa án không chỉ trực tiếp có tác dụng giáo dục, cải tạo người phạm tội mà còn có ý nghĩa giáo dục, nâng cao ý thức của mỗi công dân trong việc tự giác chấp hành pháp luật, quy tắc của cuộc sống, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong tình hình hiện nay. Với ý nghĩa như vậy, vấn đề đặt ra là bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên phải đảm bảo tính khả thi, tức là khả năng thực tế thi hành được bản án, quyết định của Tòa án.
Để đảm bảo tính khả thi trên thực tế, việc ra bản án, quyết định của Tòa án phải chính xác, khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật... có sức thuyết phục cao, đồng thời quy phạm pháp luật đã áp dụng cũng phải có tính khả thi trên thực tế.
Điều cần lưu ý khi nghiên cứu các yêu cầu để đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử nói chung, xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS nói riêng là tính liên hệ và quy định lẫn nhau giữa các yêu cầu cụ thể, do đó không thể chỉ chú ý yêu cầu này mà bỏ qua hoặc xem nhẹ yêu cầu khác. Vấn đề này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc xác định và thực hiện các giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử.
Tiểu kết Chương 1
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử xự chung được Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, nhân dân thực hiện quyền tự do, dân chủ và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật,... Tuy nhiên, vai trò của pháp luật chỉ trở thành hiện thực khi các quy phạm pháp luật đã ban hành được thực thi trên thực tế.
Có nhiều hình thức để thực hiện pháp luật, trong đó áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc thù luôn có sự tham gia của Nhà nước. áp dụng pháp luật trong xét xử nói chung và xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS nói riêng là một dạng cụ thể của áp dụng pháp luật. Là cơ quan xét xử của Nhà nước được tổ chức trong quân đội, ngoài những đặc điểm chung, hoạt động áp dụng pháp luật của TAQS có những đặc thù về thẩm quyền và nhiệm vụ xét xử.
Việc áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS được thực hiện thông qua HĐXX gồm Thẩm phán và các Hội thẩm quân nhân theo nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Do đó, các yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của TAQS được xác định bao gồm: những yếu tố thuộc về cá nhân người Thẩm phán và HTQN (như: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất chính trị, đạo đức); mức độ hoàn thiện, giải thích pháp luật; hoạt kiểm tra giám đốc án, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, rút kinh nghiệm xét xử và chỉ đạo hoạt động xét xử của cấp có thẩm quyền. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả xét xử đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với việc áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm TAQS là phải đảm bảo tính hợp pháp, chính xác, khách quan, công bằng, bình đẳng, thống nhất và tính khả thi của bản án, quyết định của Tòa án.
Việc nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề nêu trên có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đây là cơ sở lý luận để xem xét và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các TAQS những năm qua và từ đó đề xuât kiến nghị và những giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả xét xử, đáp ứng theo yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chương 2
thực trạng áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp ở Việt Nam
2.1. Sự ra đời, phát triển của Tòa án quân sự và tình hình xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự những năm gần đây
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của Tòa án quân sự Việt Nam
Quá trình ra đời và phát triển của các TAQS nước ta từ năm 1945 đến nay gắn liền với quá trình phát triển của Cánh mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể phân thành quá trình phát triển của các TAQS Việt Nam thành các giai đoạn cơ bản sau đây:
Giai đoạn 1945 - 1960;
Giai đoạn 1960 - 1986;
Giai đoạn 1986 đến nay.
- Giai đoạn 1945 - 1960: Xuất phát từ học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Toà án nói chung và TAQS nói riêng là công cụ hữu hiệu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để kịp thời trấn áp sự phản kháng của bọn phản cách mạng và tội phạm nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, giữ vững nền độc lập của dân tộc; bảo vệ chính quyền cách mạng, sức mạnh chiến đấu của quân đội, giữ vững an ninh trật tự xã hội cho nhân dân. Vì vậy, ngay sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 33C-SL về việc thành lập các TAQS trong phạm vi cả nước.
Theo Sắc lệnh này, các TAQS có thẩm quyền xét xử tất cả các người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trừ khi phạm nhân là binh sỹ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật (Điều 2) [26, tr.12]. Ngày 15/01/1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 07/SL bổ sung thẩm quyền xét xử cho các TAQS xét xử cả những việc bắt cóc tống tiền, ám sát và những tội phạm khác [26, tr.22].
Do khó khăn phức tạp về thông tin liên lạc trong điều kiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước, để kịp thời bảo vệ sức mạnh chiến đấu của quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946 (về thành lập Tòa án binh lâm thời đặt trụ sở tại Hà Nội), Sắc lệnh số 19/SL ngày 16/02/1947 và Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp ban hành Thông lệnh số 60 ngày 28/5/1947 thành lập các Toà án binh trên toàn cõi Việt Nam. Theo các văn bản này, các Toà án binh gồm một Chánh án và hai Hội thẩm; một uỷ viên chính phủ buộc tội và một lục sự ghi chép và có thẩm quyền xét xử các quân nhân và thường dân phạm bất cứ tội gì gây thiệt hại cho quân đội. Cũng như các TAQS, các Tòa án binh không phải là cơ quan chuyên trách mà chỉ thành lập khi có vụ việc xảy ra.
Cán bộ làm công tác xét xử của các TAQS và Toà án binh chủ yếu do những cán bộ chỉ huy trong quân đội kiêm nhiệm (trừ một Hội thẩm chuyên môn do cơ quan tư pháp cử ra). Do pháp luật của Nhà nước ta ban hành còn rất ít, nên khi xét xử các TAQS, các Toà án binh vừa phải vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước dân chủ cộng hòa, vừa phải vận dụng các quy định pháp luật của chế độ cũ, nếu các quy định đó không trái với chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa. Các Tòa án binh vừa làm công tác xét xử, vừa làm công tác điều tra, truy tố, quản lý, giáo dục phạm nhân, tuyên truyền giáo dục pháp luật. Những quyết nghị của TAQS và Toà án binh sẽ đem thi hành ngay, không ai có quyền chống án, trừ trường hợp bản án tuyên xử tử thì tội nhân có quyền đệ đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm [26, tr.13,49]. Các TAQS và Toà án binh là tiền thân của các TAQS sau này.
- Giai đoạn 1960 - 1986: Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức TAND năm 1960 được ban hành, trong đó khẳng định rõ các TAQS thuộc hệ thống TAND là cơ quan xét xử của Nhà nước được tổ chức trong quân đội, chịu sự giám đốc xét xử của cơ quan cao nhất là TANDTC và được tổ chức theo những quy định riêng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và phát triển hệ thống TAQS thống nhất gồm hai cấp: gồm TAQS Trung ương, các TAQS quân khu, quân chủng. Hệ thống tổ chức TAQS hai cấp được duy trì trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cho đến khi ban hành Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 1986.
Các TAQS quân khu, quân chủng có thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm các vụ án thuộc thẩm quyền theo Sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946 và Thông lệnh số 60 ngày 28/5/1947. TAQS Trung ương thực hiện chức năng chỉ đạo, hướng dẫn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của các TAQS cấp dưới. Đội ngũ cán bộ chuyên trách của các TAQS các cấp được hình thành và từng bước phát triển. Đến năm 1962, các TAQS được tăng cường, các Thẩm phán chuyên trách và cử ra HTQN để tham gia xét xử các vụ án thuộc thẩm quyền. Các chức vụ như Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán TAQS các cấp đều do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng bổ nhiệm. Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ TAQS ngày càng được quan tâm và từng bước nâng cao. Sau khi đất nước thống nhất, các TAQS được xây dựng thành một hệ thống thống nhất trong toàn quân. Biên chế, tổ chức và đội ngũ cán bộ chuyên trách của các TAQS ngày càng ổn định. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn được chú trọng, một số cán bộ TAQS được gửi đi đào tạo trong nước và nước ngoài.
- Giai đoạn 1986 đến nay: Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở Hiến pháp 1980 và Luật Tổ chức TAND 1981, Pháp lệnh tổ chức TAQS 1986 được ban hành thay thế các văn bản dưới luật trước đây (Sắc lệnh số 163/SL và Thông lệnh số 60) quy định về tổ chức và hoạt động của TAQS. Theo Pháp lệnh này, hệ thống TAQS được tổ chức ở 3 cấp: TAQS Trung ương; các TAQS quân khu và tương đương và các TAQS khu vực. Lần đầu tiên trong lịch xử, các TAQS thực hiện chế độ xét xử hai cấp như các TAND theo các thủ tục: sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Đội ngũ cán bộ ngành TAQS nói chung và đội ngũ Thẩm phán nói riêng từng bước phát triển, trưởng thành, trình độ chuyên môn nghiệp vụ không ngừng được nâng cao. Tổ chức và biên chế của các TAQS phù hợp với yêu cầu xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới đủ sức hoàn thành chức năng, nhiệm vụ xét xử theo quy định của pháp luật.
Trải qua các giai đoạn cách mạng, ngành TAQS không ngừng phát triển và trưởng thành cùng với sự phát triển của đất nước, quân đội. Từ các TAQS ban đầu, Tòa án binh và ngày nay TAQS được tổ chức thành một hệ thống hoàn chỉnh; từ xét xử theo một thủ tục sơ thẩm đồng thời là chung thẩm đến thực hiện chế độ xét xử hai cấp (sơ thẩm, phúc thẩm), các TAQS Việt Nam đã khẳng định rõ vai trò, vị trí của mình trong sự nghiệp chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đã hoàn tốt chức năng, nhiệm vụ được giao: bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân. Bằng hoạt động của mình, Toà án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh, chống và phòng ngừa tội phạm, các vi phạm pháp luật khác.
2.1.2. Khái quát chung về tình hình xét xử hình sự sơ thẩm của các Tòa án quân sự những năm 2000 - 2004
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật nói chung của nước ta ngày càng được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế. Hiến pháp 1992, Luật tổ chức TAND và Pháp lệnh tổ chức TAQS cũng được sửa đổi bổ sung trong các năm 2002 và 2003; các TAQS khu vực được tăng thẩm quyền xét xử. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án nói chung và các TAQS nói riêng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới. Các Bộ luật cơ bản như: BLHS 1985, BLTTHS 1988, BLDS 1995,... đã được sửa đổi bổ sung toàn diện trong thời gian gần đây đã khắc phục những khiếm khuyết về mặt lập pháp, tháo gỡ kịp thời các vướng mắc của thực tiễn và thể hiện đầy đủ và toàn diện hơn chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đây cũng là một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động xét xử của các Toà án nói chung và các TAQS nói riêng và cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Cùng với sự phát triển của đất nước, tình hình chính trị - xã hội ngày càng ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững,..., Quân đội nhân dân Việt Nam đang từng bước xây dựng theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và quân đội, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong quân đội nói chung và của các TAQS nói riêng, tổ chức, biên chế và đội ngũ cán bộ của ngành TAQS không ngừng được kiện toàn. Chất lượng đội ngũ cán bộ TAQS, đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán ngày càng được nâng cao đáp ứng kịp thời yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp của đất nước. Cùng với sự phát triển của xã hội, ý thức pháp luật, ý thức trách nhiệm của nhân dân nói chung và của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nói riêng không ngừng được nâng cao. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để các cơ quan bảo vệ pháp luật đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và TAQS nói chung cũng có không ít những khó khăn nhất định, đó là:
- Tình hình thế giới và khu vực vẫn còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch ra sức chống phá cách mạng nước ta với những âm mưu thâm độc và xảo quyệt.
- Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật trong lĩnh vực tư pháp nói riêng không ngừng được hoàn thiện. Tuy nhiên, cuộc sống xã hội luôn biến động, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp với những hình thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Trong khi đó pháp luật lại bị động, chưa dự liệu đầy đủ; thủ tục, trình tự sửa đổi, bổ sung pháp luật rất phức tạp và tốn khá nhiều thời gian, công sức và chi phí nên không kịp thời khắc phục được những vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Tổ chức, biên chế của TAQS các cấp đã được củng cố, kiện toàn. Chất lượng đội ngũ cán bộ ngành TAQS được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Thẩm quyền xét xử của các TAQS khu vực được mở rộng theo quy định của BLTTHS 2003,... Tuy nhiên, chất lượng về mọi mặt của đội ngũ cán bộ ngành TAQS nói chung và đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm quân nhân nói riêng chưa không đồng đều.
Tất cả những yếu tố nêu trên đều ít nhiều tác động, ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng pháp luật của các TAQS. Song, được sự quan tâm lãnh đạo về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và quân đội mà trực tiếp là sự lãnh đạo của Đảng ủy quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy các cấp, sự chỉ đạo nghiệp vụ của TAND tối cao, TAQS Trung ương, trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng, các TAQS luôn xác định xét xử là nhiệm vụ chính trị trung tâm, và đã có nhiều cố gắng khắc phục mọi khó khăn, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chất lượng và hiệu quả hoạt động xét xử của TAQS nói chung và xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói riêng trong thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây không ngừng được nâng cao. Hàng năm, các TAQS đã tích cực, chủ động giải quyết nhanh, gọn các vụ án đã thụ lý không để án tồn đọng, kịp thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nhất là đối với bị can, bị cáo.
Theo báo cáo thống kê của ngành TAQS, trong các năm 2000 - 2004, số vụ án do TAQS cấp quân khu và khu vực đã giải quyết án theo trình tự sơ thẩm như sau:
- Tổng số vụ án phải giải quyết: 1.784 vụ/2.692 bị cáo, đã giải quyết: 1.784 vụ/2.692 bị cáo, trong đó:
+ Xét xử: 1.572 vụ/2.346 bị cáo.
+ Trả Viện kiểm sát để điều tra bổ sung: 180 vụ/311 bị cáo.
+ Đình chỉ vụ án: 14 vụ/17 bị cáo.
+ Tạm đình chỉ vụ án: 01 vụ/ 01 bị cáo.
+ Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử: 17 vụ/17 bị cáo.
- Các hình phạt đã áp dụng đối với các bị cáo bao gồm:
+ Phạt tù chung thân đối với 13 bị cáo;
+ Phạt tù từ trên 15 năm đến 30 năm: 34 bị cáo;
+ Tù từ trên 7 năm đến 15 năm: 186 bị cáo;
+ Tù từ trên 3 năm đến 7 năm: 475 bị cáo;
+ Tù từ 3 tháng đến 3 năm: 1014 bị cáo;
+ Phạt từ nhưng cho hưởng án theo: 576 bị cáo.
+ áp dụng các loại hình phạt khác: 47 bị cáo.
+ Miễn hình phạt: 01 bị cáo.
Nhìn chung chất lượng xét xử theo thủ tục sơ thẩm các vụ án hình sự của các TAQS được giữ vững. Các phiên tòa xét xử đều được tiến hành đảm bảo tính công khai, dân chủ, bình đẳng, khách quan, công bằng và nghiêm minh theo tinh thần cải cách tư pháp của Nghị quyết số 08-NQ/TW. Năng lực xét xử, tác phong điều hành phiên tòa, kỹ năng xét hỏi, điều khiển quá trình tranh tụng tại phiên tòa, viết bản án... của đội ngũ Thẩm phán có nhiều tiến bộ, thể hiện sự vững vàng về kiến thức pháp luật và kỹ năng áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án cụ thể. Các sai sót nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật của những năm trước đây đã được TAQS chú ý rút kinh nghiệm và cơ bản đã được khắc phục. Việc xét xử sơ thẩm của các TAQS đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, Trong những năm qua trong ngành TAQS không có trường hợp nào xét xử oan người vô tội. Các bản án và quyết định của các TAQS về các vụ án có sức thuyết phục cao, được dư luận đồng tình, ủng hộ và đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Cùng với việc thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong quá trình xét xử, các TAQS luôn quán triệt đầy đủ, kịp thời các quan điểm, chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước, bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của quân đội và địa phương nơi đóng quân. Kết quả xét xử của các TAQS trong những năm qua đã kịp thời trừng trị nghiêm khắc bọn tội phạm, góp phần tăng cường pháp chế XHCN và đấu tranh phòng chống tội phạm. Thông qua hoạt động xét xử, các TAQS không chỉ ra phán quyết và áp dụng hình phạt để giáo dục cải tạo bị cáo mà còn góp phần giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và trách nhiệm công dân cho cán bộ, chiến sỹ và nhân dân; ngăn chặn các hành vi phạm tội tương tự xảy ra. Thông qua công tác xét xử các TAQS còn giúp cho chỉ huy các đơn vị trong quân đội và chính quyền địa phương thấy rõ nguyên nhân, điều kiện phạm tội để từ đó có biện pháp khắc phục và tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, quản lý con người, quản lý tài sản, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật Quân đội, pháp luật của nhà nước, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội.
Nhìn chung, chất lượng xét xử hình sự sơ thẩm của Tòa án quân sự các cấp trong những năm qua là đáng khích lệ, tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những hạn chế nhất định. Theo báo cáo thống kê giải quyết án hàng năm của các TAQS, một số vụ án sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị bị cải sửa theo các trình tự tố tụng luật định. Tuy số vụ án bị cải sửa không nhiều nhưng đã làm ảnh hưởng đến chất lượng xét xử chung của toàn ngành. Qua nghiên cứu, xem xét vụ án bị cải sửa cho thấy các sai sót tập trung ở một số vấn đề cơ bản sau:
- Xác định không đúng tư cách tố tụng của những người được triệu tập tham gia phiên tòa;
- Xác định sai tội danh và áp dụng không đúng điều khoản BLHS;
- Không xác định đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự;
- Quyết định mức hình phạt không phù hợp (quá nặng nặng hoặc quá nhẹ) với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi pham tội của bị cáo;
- Xác định không đúng hoặc không đầy đủ về các khoản và mức bồi thường thiệt hại,...
Tuy tính chất của các loại sai sót nêu trên không phải là nghiêm trọng nhưng cần được nghiên cứu tìm ra nguyên nhân để từ đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp đồng bộ nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong xét xử sơ thẩm của các TAQS đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
2.2. Những ưu điểm về áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của các Tòa án quân sự
Kết quả đạt được trong hoạt động áp dụng pháp luật khi xét xử sơ thẩm những năm gần đây của các TAQS được thể hiện ở một số điểm chủ yếu sau đây:
2.2.1. Về áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự
Việc áp dụng các quy định của BLTTHS về xét xử sơ thẩm được các TAQS chú trọng và thực hiện nghiêm túc. Sau khi được phân công chủ tọa phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án, các Thẩm phán đã nghiên cứu một cách thận trọng và toàn diện để nắm vững nội dung và các tình tiết của vụ án; kiểm tra, xem xét và đánh giá đầy đủ và tỷ mỷ tính hợp pháp, tính khách quan và liên quan của các chúng cứ, tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án trên cơ sở pháp luật, ý thức pháp luật và niềm tin nội tâm của mình và làm các công tác chuẩn bị khác để tiến hành xét xử vụ án. Nhờ việc nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án đã phát hiện được một số vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp mình hoặc có những căn cứ đình chỉ vụ án theo quy định tại Điều 107 BLTTHS và Nghị quyết 32/2000/NQ-QH11. Những trường hợp cơ quan điều tra chưa thu thập đầy đủ chứng cứ về các tình tiết của vụ án; vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc phát hiện có tội phạm mới hay người phạm tội mới, đều được phát hiện kịp thời để ra các quyết định xử lý theo đúng quy định của pháp luật như: quyết định chuyển vụ án cho Tòa có thẩm quyền; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ vụ án hoặc tạm đình chỉ vụ án. Theo số liệu thống kê các năm 2000 - 2004 của ngành TAQS, trung bình hàng năm số vụ án mà các TAQS ra các loại quyết định này chiếm khoảng 11% tổng số vụ án đã thụ lý.
Ngoài ra, việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cũng được các TAQS thực hiện chặt chẽ, đúng quy định pháp luật. Thực tiễn xét xử những năm qua cho thấy chưa có một quyết định nào về áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; về đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án bị Viện kiểm sát kháng nghị. Các trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung đều được cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đồng tình. Chỉ có một số rất ít trường hợp cơ quan điều tra, Viện kiểm sát giữ nguyên kết luận điều tra hoặc cáo trạng (do không thể điều tra được). Trong các trường hợp này Tòa án đưa vụ án ra xét xử và ra phán quyết trên kết quả điều tra công khai và tranh tụng dân chủ, bình đẳng giữa các bên tại phiên tòa. Một số trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung đã được VKSQS đình chỉ vụ án vì hành vi không cấu thành tội phạm. Điều đó đã phản ánh một cách tương đối khách quan chất lượng nghiên cứu hồ sơ vụ án và áp dụng đúng đắn pháp luật của các TAQS ở giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Các TAQS đã đưa 100% số vụ án đã thụ lý trong năm (và đủ điều kiện) ra xét xử đúng thời hạn luật định. Đối với một số vụ án trọng điểm, các TAQS đã chú ý tập trung nghiên cứu và tổ chức xét xử trong thời gian ngắn để phục vụ kịp thời yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đơn vị hoặc địa phương. Hầu hết các bản án sơ thẩm đã xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của những người được triệu tập tham gia phiên tòa. Việc tống đạt các quyết định tố tụng cho bị cáo và triệu tập các thành phần tha
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc
- bia.doc