MỤC LỤC
MỞ ĐẦU . 1
CHưƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI BẢN THỂ
LUẬN CỦA AUGUSTINO. 7
1.1 Bối cảnh lịch sử. 7
1.2 Những tiền đề tư tưởng của bản thể luận Augustino . 12
1.2.1 Học thuyết ý niệm của Platon . 12
1.2.2 Học thuyết của Philon d’Alexandrie. 24
1.2.3 Học Thuyết của Plotin. 26
1.2.4 Kinh Thánh. 30
1.3 Vài nét về thân thế, sự nghiệp của Augustino và tác phẩm Tự thuật. 47
CHưƠNG 2. THẦN LUẬN CỦA AUGUSTINO . 56
2.1 Khái niệm về bản thể luận. 56
2.2 Quan niệm về Chúa trời . 62
2.2.1 Quan hệ đức tin - lý trí. 63
2.2.2 Chúa trời và Christ . 67
CHưƠNG 3. QUAN NIỆM VỀ THẾ GIỚI VÀ CON NGưỜI CỦA
AUGUSTINO. 85
3.1 Quan niệm về thế giới . 85
3.1.1 Vũ trụ luận và thuyết sáng thế . 93
3.1.2 Quan niệm về thời gian. 980
3.2 Tồn tại người . 853
3.2.1 Con người hiện thực. 93
3.2.2 Bản chất của con người . 908
3.3 Một số đánh giá . 105
KẾT LUẬN. 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 113
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Bản thể luận của Augustino, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặc biệt
là Plotin, triết gia rất có ảnh hưởng đến tư tưởng của Augustino, không thể
không đề cập đến quan niệm về Chúa trời.
Với Platon, tôn giáo dường như là lĩnh vực của trái tim, tuy nhiên Chúa
trời không chỉ là đối tượng của đức tin mà còn là đối tượng của tri thức nữa.
Có hai cách thức để khẳng định sự tồn tại của Chúa trời. Đó là cách thức vật
lý và cách thức biện chứng dẫn tới chứa trời.
Trong cách thức vật lý tới Chúa trời, từ xuất phát điểm về quan niệm
của vận động Platon cho rằng: vận động là một điều không thể bàn cãi, nhưng
vận động như đã nói ở trên đó là tự vận động tức là tự sự vật đã có xung lực
vận động hay vận động nhờ xung lực từ bên ngoài. Tất cả mọi vận động nhờ
cái khác, nhờ xung lực từ bên ngoài thì cuối cùng cũng phải quay về với sự tự
vân động đầu tiên. Cái tự vận động phải là cái có trước. Từ sự hiển nhiên vận
động này ta suy ra trong thế giới có nguồn gốc vận động. Đó là linh hồn, khi
mà linh hồn có trước thể xác. Các nhà triết học trước Socrate đã không nhận
thấy điều này và học đã đi vào ủng hộ chủ nghĩa vô thần. Theo Platon, linh
hồn nào tốt thì sẽ tạo nên những vận động có trật tự, được sắp xếp. Linh hồn
nào xấu thì những vận động xuất phát từ nó thường tùy tiện, lộn xộn. Có
những linh hồn thống trị, tạo nên sự vận động của vũ trụ, đây là những linh
hồn tốt và được sắp xếp quy củ. Linh hồn tối cao nhất mà từ đó được vận
23
động phổ quát nhất của vũ trụ thì cũng là linh hồn hoàn thiện nhất và thánh
thiện nhất. Tuy có nhiều linh hồn nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta biết
rằng có một linh hồn hoàn thiện nhất.
Platon không hướng tới một nhất thuần luận thuần túy, cũng không
hướng tới một Đấng sáng thế, mà ông hướng tới một kiến trúc sư của thế giới.
Đó là một Chúa trời trong lòng thế giới. Đó là linh hồn của thế giới. Vì cái
linh hồn thế giới tồn tại trước vũ trụ và cái tinh thần có trước cho thấy sự tiên
nghiệm của Chúa trời.
Platon không hề đề cập đến Chúa trời như là một cá nhân. Ở Platon có
thể tìm bản chất của Chúa trời trong cái tuyệt đối hoàn toàn độc lập, cũng như
trong cái giá trị tuyệt đối, Chúa trời là cái hiện hữu thuần túy, vừa là cuộc
sống, vừa là hành động. Trong cuộc sống con người có thể tương đồng với
Chúa trời thông qua cầu nguyện. Với Platon, cầu nguyện thật là quan trọng.
Cầu nguyện ở đây không phải là một hình thức xin xỏ như trẻ con, không thể
nào mua chuộc được Thượng đế. Ý nghĩa đích thực của cầu nguyện không
cho phép chúng ta van xin những điều mình cầu mong giống như những đứa
trẻ vẫn làm. Chúng ta cầu nguyện để cầu mong những gì hợp với lẽ phải đạo
đức và một tâm hồn tinh khiết, trong sạch.
Học thuyết ý niệm, bên cạnh đó là quan niệm về Chúa trời, về con
người của Platon là những nền tảng quan trọng có ảnh hưởng xuyên suốt
trong quá trình phát triển của truyền thống tư tưởng phương Tây sau này,
trong đó có triết học Ki tô giáo với thời kỳ đầu được đặt nền móng bởi các
giáo phụ, nổi bật là St. Augustino.
Augustino không chỉ tiếp thu những tư tưởng triết học của Platon. Ngài
còn chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của trường phái Platon mới, đặc biệt là
tư tưởng của Plotin. Nhờ bạn bè và giám mục Ambroise thời danh lúc bấy
giờ, Agustino đã học hỏi được từ những lý thuyết của Pltotin những câu trả
lời thỏa đáng cho những thắc mắc của ông đang trong khi ông vẫn còn đắm
24
chìm trong giáo thuyết của đạo Manes. Plotin đã giúp Augustino đột phá
trong tư tưởng khi khẳng định con người có thể đạt đến được chân lý của cái
khả tri và li khai được với những liên hệ thực tại của thể xác. Đó là một khám
phá mới và thật lớn đối với Augustino lúc bấy giờ, trong lúc ông đang phải
đấu tranh, dằn vặt với chính con người mình bởi những thú vui xác thịt. Trong
triết học của Plotin ông đã tìm ra một cách giải thích thỏa đáng hơn về Kitô
giáo, khác hẳn với sự giải thích đơn giản mà mẹ ông vẫn thường khuyên bảo
ông. Augustino muốn tìm ra những tương đồng trong giáo lý của thuyết
Platon mới với giáo lý Kitô giáo, đã có những lúc ông thấy không có gì xa
cách giữa Ki tô giáo tư tưởng của thuyết Platon mới và không cần phân biệt tư
tưởng của hai hệ thống tri thức này.
Augustino mô tả lý thuyết của trường phái Platon mới như một lý
thuyết chứa đựng những những lý thuyết đặc biệt của Kitô giáo về Thiên chúa
và vũ trụ của ngài, về công cuộc tạo dựng vũ trụ, về sự hiện diện của ánh sáng
thần linh trong trần gian này và trong tâm hồn con người. Dường như những
điều này ông đã gặp được trong lý thuyết của phái tân Platon trước khi đọc
được trong Kinh thánh.
1.2.2 Học thuyết của Philon d’Alexandrie
Philon d’ Alexandrie cũng thường được gọi là Philon le Juif vì ông là
một triết gia Do Thái, nhưng lại có tinh thần Hi Lạp. Ông là con của một gia
đình giàu có và thần thế ở Alexandrie, ông đã được giáo dục cả về Do Thái
giáo và tư tưởng Hi Lạp. Năm 40 sau công nguyên ông đã được những người
đồng đạo Do Thái cử đi yết kiến Đại đế Caligula để xin miễn cho dân Do
Thái khỏi phải thờ hoàng đế vì đó là một điều nghịch với tinh thần nhát thần
của Do Thái giáo.
Thời kỳ này văn hóa Hi Lạp đã trở thành di sản của người Do Thái vì
người ta chỉ còn đọc kinh thánh Do Thái bằng những bản dịch Hi Lạp. Đa số
các tác phẩm của Philon đều là những cuộc tranh luận triết lý về một số ẩn dụ
25
trong kinh thánh. Ông muốn thực hiện một tổng hợp giữa những lý thuyết của
tiên tri Moise, triết gia Platon và Zenon. Philon muốn đưa ra những chân lý
được nói đến một cách ẩn dụ trong kinh thánh ra với mọi người. Với ý định
tổng hợp này Philon muốn dung hòa mặc khải với lý trí. Có thể nói, vấn đề vĩ
đại nhất trong kinh viện học trung cổ, kể cả thời kỳ bắt đầu của nó là thời kỳ
các giáo phụ là vấn đề dung hòa giữa tín ngưỡng và lý trí thì vấn đề này đã
thùa hưởng được tù tinh thần của Philon.
Trong nhiều quan niệm khác nhau về Đức Chúa trời, Philon nhận thấy
thích hợp nhất với quan niệm về Chúa trời của Platon. Platon cho rằng: Chúa
trời đã hiện hữu từ rất lâu mà lúc ấy vũ trụ chưa có và sau khi vũ trụ này đã
được Ngài làm cho có rồi thì Chúa trời vẫn tiếp tục hiện hữu như một thực tại
vô thể xác, hiện hữu trên và vượt trên vũ trụ thể xác này. Bên cạnh Chúa trời
là những ý tưởng cũng Hằng cửu và Chúa trời là ý niệm cao nhất của các ý
niệm. Philon đồng tình với Platon ở điểm này duy chỉ có một điều đó là các ý
tưởng trong thế giới ý tưởng của Platon thì Philon không cho chúng là hằng
cửu. Ông quả quyết rằng, kinh thánh đã nói rõ, chỉ có Chúa trời toàn năng,
đấng thụ tạo ra muôn vật hữu hình và vô hình là hằng cửu mà thôi.
Philon luôn luôn hướng sự suy tư của mình đến một thế giới mang đậm
màu sắc tôn giáo. Ông cố gắng trả lời cho câu hỏi: làm thế nào để các tạo vật
có thể vươn lên đến Chúa trời? Tiếp đó làm thế nào để Chúa trời hành động
được trên các tạo vật. Để trả lời cho câu hỏi này Philon cho rằng nhờ Logos
(Ngôi lời) mà Chúa trời hoạt động trên vũ trụ và vũ trụ có thể vươn lên đến
Chúa trời được. Giữa Chúa trời hoàn hảo và vô hạn và vũ trụ nhỏ mọn. Ngôi
lời là trung gian giúp trao đổi tư tưởng và hành động. Logos được xem như
công cụ của Chúa trời trong công cuộc tạo dựng vũ trụ.
Theo Philon có một Chúa trời siêu việt, giữa Chúa trời và vũ trụ có một
điều xa cách vượt bực. Chỉ có những trung gian đặc biệt như Logos mới liên
kết lại được. Ngoài ra còn có sự hiện hữu của những thụ tạo vô hình, thi hành
26
những mệnh lệnh của Chúa trời, nhằm mục đích giúp đỡ con người tri nhận
được Chân lý. Có thể tri nhận ra một tinh thần sùng kính Chúa trời hết mực
nơi Philon, một con người uyên thâm và huyền nhiệm. Ông đã cố gắng kết
hợp tất cả những gì là ưu trội nhất, mọi hình thức và trình độ làm đẳng cấp để
liên kết linh hồn con người với Chúa trời.
1.2.3 Học Thuyết của Plotin
Những tư tưởng của Plotin là một trong nhưng tiền đề quan trọng nhất
hình thành nên những tư tưởng trong học thuyết của Augustino. Căn cứ trên
những hàm ý hoàn hảo nhất của Platon, Plotin đã khai triển một lý thuyết đầy
đủ về đơn nhất như là một nguyên tắc cao siêu nhất hay là nguyên nhân tối
cao.
Sự đơn nhất hoàn hảo theo Plotin thì đó là nguyên lý tối hậu cho mọi
vật. Mỗi sự vật chỉ tồn tại được với điều kiện là chúng không bị tản mát, đa
tạp mà phải thuần nhất. Một khi sự thống nhất tan biến thì sẽ không có gì có
thể tồn tại cả, một khi bị phân tán hữu thể sẽ bị sai đi cùng với sự đổ vỡ của
thống nhất đó. Trình độ của các hữu thể khác nhau cũng là do trình độ thống
nhất hơn kém nhau quy định. Như vậy chỉ duy nhất cái đơn nhất mới là
nguyên lý kết nạp được mọi đa tạp, vì theo kinh nghiệm, ngoài cái đơn nhất ra
cái gì cũng đa tạp và cần đến một cái gì ngoài chúng. Tất cả những gì đa tạp
đều không thể tự thân tồn tại được, tất cả những gì đa tạp đều không có khả
năng tự túc, những gì đa tạp đều cần đến những thành tố cấu tạo nên chúng, vì
mỗi thành tố ấy chỉ hiện hữu được là nhờ ở sự hòa hợp của nó với những cái
khác và cảm thấy cần đến những cái khác. Chỉ có cái đơn nhất là không cần
đến một cái gì khác, nên cái đơn nhất tự túc và tự tại. Từ đây cái đơn nhất
tuyệt đối vô song, siêu việt nên tất cả. Đơn nhất là cái gì hoàn toàn tuyệt đối,
hoàn toàn tự túc.
Chính sự hoàn toàn tự túc và tuyệt đối vô song mà đơn nhất vượt trên
mọi tư tưởng, không cần đến một cái gì ngoài mình, đơn nhất cũng không cần
27
đến tư tưởng hay tri thức và bất cứ một tác động tri thức nào, kể cả tác động
tự tri thức đều giả thiết một sự phân ly giữa chủ tri và khác tri, nên Plotin
khẳng định đơn nhất hoàn toàn không có một tri thức nào cả và đơn nhất
không biết đến cả chính mình nữa. Hơn nữa tri thức còn là cái gì đó phụ
thuộc. Còn đơn nhất thì không phụ thuộc vào cái gì khác. Plotin cho rằng tư
tưởng như là con mắt được ban bố cho người mù còn người mắt sáng rồi thì
không cần. Chỉ những bản chất đa tạp, mới cần tự tri thức chính mình mới cần
biết số và phẩm những thành tố cấu tạo nên chúng, chỉ duy nhất đơn nhất là
không cần đến điều đó. Dĩ nhiên đơn nhất không ngoại lai với chính mình.
Những tác động thường hằng qua đó đơn nhất tự hữu chính mình, bản chất
của đơn nhất thuần túy tuyệt vời, siêu việt mọi tư tưởng, tri thức. Cũng không
một ngôn ngữ nào có thể diễn tả đơn nhất được cả. Plotin cho rằng: Ta có thể
nói về đơn nhất, nhưng không thể diễn tả nó được. Khi muốn diễn tả nó,
chúng ta như những con người được tiêm nhiễm đầy một hứng khởi thần diệu,
tự cảm thấy một cái gì trong mình lớn lao, cao cả hơn chính bản thân mình.
Khi sử dụng trí khôn, ta cảm thấy đơn nhất ở tận nền tảng trí khôn của ta và
chính nó đã sản xuất ra trí khôn với tất cả sự sáng sủa chứa đựng trong đó.
Bằng mọi sự giao tiếp tinh thần, chúng ta đạt được đơn nhất mà không cần
đến một tư tưởng lý luận nào cả. Một khi có ánh sáng đột nhiên lóe lên trong
linh hồn thì ta phải tin tưởng là đã nhìn thấy đơn nhất. Sự tập trung sẽ giúp trí
khôn nhận ra ánh sáng thuần túy xuất phát từ tuyệt đối. Dường như đây là một
trải nghiệm tâm linh dựa trên sự nỗ lực của bản thân mỗi con người. Đó là
một sự im lặng mà nơi đây không có sự hiện diện của tri thức, tư tưởng, một
sự thuần túy tâm linh. Thậm chí chúng ta còn phải loại bỏ những gì không
tham dự vào tinh thần thuần túy để cảm nhận ánh sáng thuần túy này và đây
cũng là nhiệm vụ của linh hồn.
Nhiều học giả cho rằng đơn nhất của Plotin có kế thừa nhiều tính chất
đơn nhất của Platon như: không có đồ hình, không ở vào một vị trí nào, không
28
vận chuyển cũng không đứng im, không đồng tính hay tha tính với bất cứ thứ
gì, khổng có phẩm tính, không đồng đều, không thời gian, cũng không là hữu
thể và thống nhất như một đơn vị. Ngoài những tính chất phản diện như trên,
đơn nhất còn có những tính chất chính diện mà Plotin gọi là cái thiện.
Cái thiện là nguyên tắc tuyệt đối mà mọi sự phải lệ thuộc, vì cái thiện
chính là một cái thiện tự nội, nghĩa là nó phải hoàn toàn tự túc với chính
mình, không cần đến một cái gì khác ngoài nó để hiện hữu. Cái thiện là hữu
thể tuyệt đối, nó đã hiện hữu trước mọi sự, đang khi ấy cái ác chưa có. Trong
trình độ trật tự vạn vật, đối với mỗi cái, cái thiện lập tức nằm ngay trong
nguyên tắc ở bên trên chúng, ví dụ cái thiện của vật chất là mô thức, cái thiện
của con người là linh hồn, cái thiện của tinh thần là tuyệt đối.
Mỗi cái thiện đều sản xuất ra một cái gì trong sự vật mà nó là cái thiện.
Mô thức mang lại cho vạn vật trật tự và vẻ đẹp, linh hồn mang lại cho thể xác
sự sống, tinh thần mang lại cho linh hồn sự khôn ngoan và hạnh phúc và cái
Thiện mang lại cho tinh thần ánh sáng soi sáng cho nó. Vậy là đơn nhất còn là
cái thiện. Chính sự hoàn bị tuyệt đối của nó, đơn nhất là nguyên nhân sản sinh
ra mọi sự, nên ta có thể gọi nó là Thiên chúa và đơn nhất là sức mạnh sáng tạo
ra mọi vật.
Plotin cho rằng Thiên chúa sáng tạo ra mọi vật bằng cách luôn luôn bất
động. Sáng tạo là phóng tỏa ra một luồng ánh sáng thoát li từ tuyệt đối, mà
không làm xáo trộn sự an nghỉ của mình, như ánh sáng luôn luôn lan tỏa từ
mặt trời, bất kỳ sự vật gì khi đạt đến sự hoàn bị thì đều sản sinh. Một sự
phóng tỏa cái gì đó là hình ảnh của chính sự vật sẽ được phóng tỏa ra, như lửa
phóng tỏa ra sức nóng, tuyết phóng tỏa ra sức lạnh. Vậy chắc chắn Thiên chúa
phải sản sinh ra các sự vật, vì Thiên chúa là đơn nhất tràn đầy nhựa sống có
sức mạnh bao la, phi thường.
Từ học thuyết ý niệm của Platon và thuyết siêu hình của Plotin,
Augustino đã cho ra đời thuyết khải thị, trong đó ông làm vén bức màn thần
29
thoại che dấu vũ trụ khả niệm, yếu tính trùng với trí năng của Thiên Chúa mà
ta gọi là Ngôi Lời. Ông khẳng định: Ở trong Thiên Chúa, cái được tạo dựng,
đó là sự sống. Do đó tất cả những gì hiện hữu, chỉ hiện hữu bằng cách xâm
nhập vào ý niệm của Ngôi Lời. Vậy là Ngôi Lời là suối nguồn của mọi thực
tại. Nhờ sự vật, ta có thể hiểu được về Ngôi Lời. Vẻ đẹp của sự vật chỉ là dấu
tích vẻ đẹp của Thiên Chúa và sự hoành tráng của sự vật là hình ảnh quền
năng của Thiên Chúa.
Logos ( Ngôi lời) cũng là suối nguồn của mọi tri thức tinh thần, Thiên
Chúa là đường, là sự thật và là sự sống. Khi chiêm ngắm chân, thiện, mỹ
chúng ta không quy chiếu về những quy chuẩn chiêm ngắm của Platon nhưng
quy chiếu về ý niệm của Ngôi lời là nguồn suối soi chiếu mọi nhận thức về
chân lý. Cũng trong Ngôi lời có thể nhận thấy các lý tưởng về nhân đức, do
đó lương tâm đích thực là tiếng nói của Chúa. Học thuyết của Augustino cũng
ít đề cập đến yêu tính hơn trong triết học của Platon. Trước hết theo
Augustino yếu tính không làm mô thức cho sự vật, cũng không tạo nên vũ trụ,
chúng chỉ là ý niệm của Thiên Chúa. Đằng khác Thiên Chúa lại là Hữu Thể
cá biệt và hoạt động. Thiên Chúa đi vào trần gian, lịch sử của con người qua
Chúa Kitô nên Thiên Chúa là hữu thể có thực chứ không phải là hình bóng.
Mặc dù chịu ảnh hưởng của Platon nhưng Augustino mang tính hiện sinh
nhiều hơn trong cách sống và những kinh nghiệm từ nỗi khắc khoải của ông
trong việc đi tìm Thượng Đế. Cũng do ảnh hưởng của Platon mà tư tưởng của
ông có khuynh hướng nhị nguyên, tách thế giới ra làm hai: một là thế giới khả
tri, hai là thế giới khả giác. Cũng bởi vậy ông coi trọng linh hồn hơn thân xác
và linh hồn sử dụng thân xác như một dụng cụ. Với quan niệm nhị nguyên
này, Augustino đã ảnh hưởng rất lớn và sâu trong giáo hội Công Giáo suốt
nhiều thế kỷ. Con người được nhìn nhận khá bi quan và tiêu cực có thể nói là
hơi cực đoan. Có thể nói Augustino là người đầu tiên trong lịch sử Phương
Tây mô tả khá chân thực về con người một cách sống động nhưng cũng
30
không kém phần bi đát. Tự do theo quan điểm của ông đó là khả năng lựa
chọn và trở về với Thiên Chúa. Nếu con người chọn điều xấu thì con người sẽ
xa rời Thiên Chúa.
Tóm lại là Augustino đã rút tỉa được nhiều điều mới mẻ từ triết học cổ
đại phương Tây và đặc biệt là Platon và phái Platon mới để hòa nhập vào đạo
lý Kitô của mình.
1.2.4 Kinh Thánh
Sau Triết học cổ đại phương Tây, Kinh thánh là một tiền đề hình thành
nên tư tưởng triết học của Augustino. Thiên Chúa là Chân lý nên phần nào
Thiên Chúa ở trong con người. Nhưng vì Thiên Chúa là vĩnh cửu nên Người
cũng siêu vượt con người. Vậy phải có cách để con người nhận thức Thiên
Chúa. Augustino đã đi từ những tư tưởng của các triết gia trước ông, rồi kết
hợp những tư tưởng đó với Đức tin đó là chân lý mạc khải của Kinh Thánh.
Đầu tiên ông cho rằng hành trình truy tìm chân lý vĩnh hằng là sự lần mò,
trong đó có nhiều ký hiệu để hướng dẫn về với Thiên Chúa. Và để thấy những
ký hiệu đó thì cần có ánh sáng để soi dẫn giống như việc chúng ta không thể
thấy được sự vật nếu sự vật ấy không chìm ngập trong ánh sáng. Vì vậy, Ngài
kết luận rằng trí khôn con người cần có sự soi sáng để có thể “thấy” những ký
hiệu đó nơi các tạo vật. Điều kiện để phân biệt được đâu là ký hiệu đúng
chúng ta phải tin vào Mạc khải. Chính Mạc khải giúp chúng ta vươn lên trên
lý trí, giúp ta tin vào những dấu hiệu Kinh Thánh và tin vào thẩm quyền của
đối tượng vĩnh cửu là Thiên Chúa. Một thẩm quyền cao nhất trong tất cả các
thẩm quyền.
Vậy là sự xuất hiện của Kitô giáo đánh dấu một bước ngoặt triệt để
trong tư duy triết học. Việc các tôn giáo cổ mất dần ảnh hưởng và việc phổ
biến Kitô giáo có nghĩa là xuất hiện một tôn giáo mới với các triết lý mới căn
cứ trên tư tưởng cơ bản của Kinh Thánh. Các tư tưởng triết học cơ bản trong
31
Kinh Thánh đã ảnh hưởng đến tất cả các Giáo phụ cũng như các nhà kinh viện
ở giai đoạn sau của thời Trung cổ. Các tư tưởng đó là:
Quan niệm về Chúa như một nhân cách. Thời cổ đại chưa hề biết tới
một vị thần linh duy nhất. Các thần linh của thần thoại Hi Lạp không phải là
các thần linh có nhân cách vì đặc điểm thần thánh đó là sự bất tử. Các vị thần
ra đời, thù ghét lẫn nhau, chiến đấu, sinh đẻ và thù hằn nhau, như những con
người bình thường. Chỉ có Kinh thánh mới đưa ra quan niệm về Chúa như
một thần linh duy nhất và độc đáo, tính thần thánh đã vượt lên trên hoàn toàn
tự nhiên và con người. Nếu triết học cổ đại đã tiến một số bước theo hướng
nhận thức sự đặc thù của cái thần thánh, thì Kitô giáo đã đưa ra quan niệm
hoàn toàn độc đáo với một Đức Chúa trời duy nhất. Bên cạnh một thần linh
duy nhất, các nhà triết học cổ đại còn giả định tồn tại các thần linh khác. Quan
niệm của Kinh thánh về Chúa độc đáo, vô tận về tiềm năng khác hoàn toàn
với mọi cái khác. Kinh Thánh đã loại trừ mọi hình thức của đa thần giáo và
ngẫu tượng giáo.
Những tư tưởng quan niệm về Đức Chúa Trời như một nhân cách, đã
có nguồn gốc phát triển sâu xa trong truyền thống tư tưởng của Tây phương.
Có rất nhiều các đạo thần thánh với những quan niệm khác nhau về Thần
trong quá trình biện chứng của lịch sử. Một trường hợp điển hình đặt nền
móng cho sự phát triển về thế giới quan tôn giáo, cũng như sự thống nhất với
một vị thần tối cao duy nhất đó là Đạo Osiris, một tôn giáo cổ của Ai Cập.
Đất Ai Cập xưa kia được chia làm nhiều tỉnh, những khu mương đào từ
sông Nil nhằm phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp đã tạo ra những thành thị
được giao nhau, dần dần hình thành những quốc gia nhỏ. Lâu dần những quốc
gia nhỏ này hợp lại tạo thành hai nước lớn là Bắc Ai Cập và Nam Ai Cập. Bắc
Ai Cập với địa hình chủ yếu là đồng bằng so với Nam ai Cập với đất đai khô
cằn hơn, đã có cơ hội phát triển và giàu mạnh hơn bên cạnh đó là những cuộc
32
trao dổi công thương với các tàu nước ngoài. Osiris là một ông vua của miền
Bắc Ai Cập.
Tôn giáo Ai Cập vốn ban đầu mang nhiều di tích vật tổ. Đó là những
con thú trong thiên nhiên như: diều hâu, bò, chim ưng, chó sói. Những người
trong cùng thị tộc liên hệ với nhau về nguồn gốc qua cùng một vật tổ. Có
những thị tộc quan niệm rằng tất cả họ đều sỉnh ra từ một loài chim, thị tộc
khác thì lại quan niệm đó là chó sói. Sở dĩ có điều này là do thời kỳ này chưa
có những khái niệm trừu tượng như con số được gắn với những ý nghĩa văn
hóa hoặc là tên riêng, lúc này chỉ có những hiện tượng cụ thể được lấy ngay
từ thiên nhiên dưới sự quan sát trực quan. Nhưng ở Ai cập có hai vị thần
chính đó là Thần Mặt trời và Thần Osiris. Thần Mặt trời tượng trưng cho sự
lớn lao, sức mạnh và quyền lực thì thần Osiris lai đại diện cho một nhu cầu
của con người trần thế. Đó là nhu cầu cứu hồn, một nhu cầu sau khi chết mà
ban đầu chỉ là đặc quyền của nhà vua và quan lại, sau này nó đã là quyền của
đông đảo nhân dân. Một biểu hiện cho sự hợp tác về quyền lợi và những biến
đổi ở kiến trúc thượng tầng, từ tổ chức thị tộc ban đầu nên chế độ chiếm hữu
nô lệ.
Truyền thuyết kể rằng Osiris là ông vua của vùng đồng bằng Ai Cập.
Thần Osiris đại diện cho nông nghiệp, của cải, công lý và lòng bác ái đối lập
với thần Osiris là thần Seth, thần của sấm sét, xa mạc và sự khô cằn. Thần
Seth đã giết thần Osiris bằng cách lừa chàng vào một chiếc hòm và thả trôi
sông. Sau này bà Isis vợ thần Osiris tìm được xác chồng và nhờ phép thuật đã
làm sống lại, dưới hình thức một nhân vật có tên là Horus. Horus sau này
đánh bại Seth rồi thống nhất Ai Cập. Horus chính thức được coi là con của
Thần Osiris và có quyền thừa kế tài sản. Sau này ở Ai Cập nhân dân có tục là
diễn lại kịch thánh, những người được xem kịch này sẽ được đồng nhất với
thần Osiris và linh hồn sẽ được cứu vớt sau khi chết. Sau này ở các nhà thờ
Kitô giáo có các kịch thánh được diễn lại với việc chúa Jesus Kitô đã hiến
33
thân mình và được sống lại. Tư tưởng cứu hồn trong đạo Osiris rất quan trọng
nó ảnh hưởng không những trong phạm vi Ai Cập mà còn lan sang cả Lưỡng
Hà, Địa Trung Hải, Tiểu Á và cuối cùng được phổ biến ở Châu Âu với hình
thức là Kitô giáo với những giá trị hết sức nhân văn đó là cứu vớt nhân loại.
Quan niệm về Đức Chúa Trời như một nhân cách đã được hình thành
trên cả cơ sở tinh thần lẫn cơ sở vật chất. Nếu như Đạo Mặt trời với thần Mặt
trời tượng trưng cho uy quyền, sức mạnh từ bên trên, thì Đạo cứu hồn như đi
từ bên dưới lên, với nguyện vọng được cứu rỗi từ nhân dân và khi Kitô giáo
ra đời thì đây là hình thức cao nhất. Trải qua những giai đoạn phát triển của
xã hội cộng đồng nguyên thủy thì quan niệm về Thần cũng thay đổi theo. Ban
đầu đó là những vật tổ, sau này là đạo yêu tinh và cuối cùng là thần thánh.
Thần ban đầu với sức mạnh siêu nhiên và trấn áp con người dần dần đã gần
gũi với con người hơn. Cuối cùng thần đã trở thành người và cho đến khi
chúa Jesus Kitô ra đời trong Kitô giáo. Đây là kết quả cao nhất với việc Đức
Chúa Trời đã thành người để cứu vớt nhân loại.
Nếu như Thần ban đầu với những nét dữ dội, nghiêm khắc, điều này
còn được lưu giữ lại qua những hình tượng điêu khắc của các nền văn minh
cổ xưa, thì dần dần hình ảnh của thần đã thân thiện hơn rất nhiều. Điều này ta
có thể thấy trong kinh thánh. Cựu ước và Tân ước cho ta hai hình ảnh khác
nhau về Chúa. Chúa trong Cựu ước nghiêm khắc và Chúa trong Tân ước nhân
từ bác ái. Trong Cựu ước nói nhiều đến luật thì trong Tân ước Chúa Trời đã
được nhân cách hóa qua hình ảnh Chúa Jesus Kitô nên gần gũi hơn rất nhiều.
Khẳng định cho sụ tuyên xưng của Kitô giáo là: “Đức Jesus là Chúa” [1 Cr.
12:3]. Đức Chúa trời đã trao mình trong nhân loại và lịch sử nhân loại qua
hình ảnh của Chúa Jesus Kitô.
Sau khi chế độ phong kiến được hình thành từ chế độ chiếm hữu nô lệ,
một số lượng lớn nô lệ trở thành nông nô và hưởng được một số quyên lợi
mới tất nhiên là họ vẫn bị bóc lột nhưng với một xã hội đỡ hẹp hòi hơn. Họ
34
cho rằng kết quả này là do Thượng đế mang lại và sự hiến tế cho Thượng đế
là một nghĩa vụ thiêng liêng. Có thể nhận thấy rõ điều này trong kinh thánh
qua việc Đức Chúa trời bắt Áp-ra-ham hiến con: “Khi mọi việc kia đã xong,
thì Đức Chúa Trời thử Áp-ra-ham! Người thưa rằng: Có tôi đây. Đức Chúa
Trời phán rằng: hãy bắt đứa con một ngươi yêu dấu, là Y-sắc, và đi đến xứ
Mô-ri-a, nơi đó dâng đứa con là của lễ thiêu ở trên một hòn núi kia mà ta sẽ
chỉ cho. Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem hai đầy tớ và con mình là Y-sắc,
cùng đi, người cũng chặt củi để dùng về của lễ thiêu, rồi đi đến nơi mà Đức
Chúa Trời đã truyền dạy.” [St. 22:1-3]. Đã có thời gian trong thời kỳ thị tộc
tan rã người dân phải hiến mọi của cải thu hoạch đầu tiên cho Thần như: Lúa
gạo, bò, dê và cả con đầu lòng của họ nữa. Họ đến chốn Đức Chúa Trời đã
phán dạy, tại đó Áp-ra-ham lập bàn thờ, chất củi lên, trói Y-sắc con mình lại,
để lên đống củi trên bàn thờ. Áp-ra-ham bèn giơ tay ra cầm lấy dao đặng giết
con mình. Thiên sứ của Đức Giê- hô- va từ trên trời kêu xuống rằng: Hỡi Áp-
ra- ham, Áp-ra-ham! Người thưa rằng: có tôi đây. Thiên sứ phán rằng: Đừng
tra tay vào mình con trẻ và chớ làm chi hại đến nó, vì bây giờ ta biết rằng
ngươi thật kính sợ Đức Chứa Trời, bởi cớ không tiếc với ta con ngươi, tức
con một ngươi. Áp-ra- ham nhướng mắt lên, xem thấy sau lưng một con chiên
đực, sừng mắc trong bụi cây, bèn bắt con chiên đực đó dâng làm của lễ t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004807_1_5877_2002898.pdf