i
MỤC LỤC
MỤC LỤC.i
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN . iii
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU .iv
MỞ ĐẦU .1
CHưƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BÁO IN VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU .8
1.1. CÁC KHÁI NIỆM CÔNG CỤ.8
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm báo in.8
1.1.2. Khái niệm khí hậu và biến đổi khí hậu.9
1.2. THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU HIỆN NAY .11
1.2.1. Trên thế giới .11
1.2.2. Tại Việt Nam .16
1.3. ĐưỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NưỚC VỀ BIẾN
ĐỔI KHÍ HẬU.27
1.4. VAI TRÕ CỦA BÁO IN TRONG VIỆC THÔNG TIN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU.30
1.4.1. Tuyên truyền văn bản pháp luật về biến đổi khí hậu .35
1.4.2. Phản ánh các biểu hiện điển hình của biến đổi khí hậu, tiên phong trong việc
phát hiện các vấn đề vi phạm trong việc bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi
khí hậu.37
1.4.3. Thông tin dự báo, cảnh báo, phản ánh hậu quả và tình hình khắc phục ảnh
hưởng của thiên tai do biến đổi khí hậu gây ra .38
1.4.4. Tuyên truyền các mô hình ứng phó với biến đổi khí hậu .40
1.4.5. Phản ánh những vướng mắc trong thực thi chính sách .40
1.4.6. Phản ánh việc hợp tác quốc tế trong vấn đề biến đổi khí hậu.40
CHưƠNG 2: THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRÊN
BÁO IN CỦA BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRưỜNG.44
2.1. VÀI NÉT VỀ BÁO IN CỦA BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRưỜNG .44
2.1.1. Báo Tài nguyên và Môi trường .44
2.1.2. Tạp chí Tài nguyên và Môi trường .44
2.2. THỰC TRẠNG NỘI DUNG THÔNG TIN VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU .45
51 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 888 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Báo in của bộ tài nguyên và môi trường với vấn đề biến đổi khí hậu hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịch trình thương thuyết nhằm
đạt đến một thỏa thuận tiếp nối nghị định thư Kyoto, mà như đã nói ở trên sẽ
hết hạn vào năm 2012. Thỏa thuận này trên nguyên tắc phải được thông qua
trễ nhất là vào tháng 12/2009.
Đến nay, Hội nghị đã trải qua 21 kỳ hội nghị. Tuy nhiên, cũng đã có 1
kỳ COP thất bại ê chề, đó là COP15 năm 2009 tại Copenhague (Đan Mạch).
Tuy vậy, hội nghị này đã thông qua được mục tiêu chung là giữ mức tăng
nhiệt độ không quá 2°C. Các nước phát triển lúc ấy cũng đã cam kết từ đây
đến năm 2020 sẽ huy động tổng cộng 100 tỷ đôla mỗi năm để giúp các nước
nghèo thích ứng với biến đổi khí hậu. Sau đó, hội nghị Cancun (Mehicô) năm
2010 đã cụ thể hóa mục tiêu hạn chế mức tăng nhiệt độ ở 2° C với việc thành
lập các định chế như Quỹ xanh về khí hậu.
Chính hội nghị Durban (Nam Phi) năm 2011 đã đề ra mục tiêu là đến
năm 2015 tất cả các bên tham gia Công ước LHQ về khí hậu phải thông qua
một thỏa thuận sẽ được thực hiện kể từ năm 2020.
Để tạm thời thay thế cho nghị định thư Kyoto, hội nghị Doha (Qatar)
đã thông qua cam kết của nhiều nước công nghiệp cho thời kỳ thứ hai thực
hiện nghị định thư này (2013-2020). Hai hội nghị Vacxava (Ba Lan) 2013 và
Lima (Peru) 2014 đã đạt được những bước cần thiết để chuẩn bị cho hội nghị
COP21 ở Paris.
Trong một năm qua, đại diện của 195 quốc gia ký kết Công ước
CCNUCC đã thường xuyên họp lại để cố đạt được một văn bản sẽ được thông
qua ở thủ đô Pháp.
14
Thực tiễn BĐKH đã được chứng minh trên cơ sở khoa học của các tổ
chức trên thế giới, trong đó có tổ chức CPCC - là một tổ chức của các nhà
khoa học hàng đầu trên thế giới về khí hậu học và thiên văn học. Họ đã đưa ra
04 báo cáo về tình hình thực tiễn BĐKH toàn cầu. Đây chính là cơ sở thực
tiễn cho các quốc gia xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia.
Báo cáo đánh giá lần thứ nhất (1990) là cơ sở để Liên Hiệp Quốc quyết
định thành lập Ủy ban Liên chính phủ về Thay đổi khí hậu (IPCC) và tiến tới
ký kết Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC)
vào tháng 6/1992.
Báo cáo đánh giá lần thứ hai (1994) là cơ sở để thảo luận và thông qua
nghị định thư Kyoto tại hội nghị lần thứ ba các bên công ước (1997).
Báo cáo đánh giá lần thứ ba (2001), sau 10 năm thông qua UNFCCC.
Báo cáo đánh giá lần thứ tư (2007) sau 10 năm thông qua nghị định
Kyoto và một năm trước khi bước vào thời kỳ cam kết đầu tiên theo nghị định
thư (2008-2012), để chuẩn bị cho việc thương lượng về thời kỳ cam kết tiếp
theo. Mỗi lần đánh giá đều có những tiến bộ mới về nguồn số liệu và phương
pháp, làm giảm đáng kể những điều chưa chắc chắn tồn tại trước đây, do đó,
nâng cao rõ rệt mức độ tin cậy của những kết luận về BĐKH trong quá khứ
cũng như trong tương lai.
Những kết luận chính trong báo cáo đánh giá lần thứ tư, báo cáo mới
nhất của IPCC được công bố tháng 2/2007.
* Sự nóng lên toàn cầu của hệ thống khí hậu hiện nay là chưa từng có
và rất rõ ràng từ những quan trắc nhiệt độ và đại dương trung bình toàn cầu,
sự tan chảy của băng và tuyết trên phạm vi rộng lớn và sự dâng lên của mực
nước biển trung bình toàn cầu. Xu thế tăng nhiệt độ trung bình chuỗi số liệu
100 năm (1906-2005) là 0,74 độ C; xu thế tăng nhiệt độ trong 50 năm gần đây
là 0,13 độ C/1 thập kỷ, gấp 2 lần xu thế tăng của 100 năm qua.
Nhiệt độ trung bình ở Bắc cực đã tăng với tỷ lệ 1,5 độ C/100 năm, gấp
2 lần tỷ lệ tăng trung bình toàn cầu. Nhiệt độ trung bình ở Bắc cực trong 50
15
năm cuối ở thế kỷ 20 cao hơn bất kỳ nhiệt độ trung bình của 50 năm nào khác
trong 500 năm gần đây và có thể là cao nhất, ít nhất là trong 1.300 năm qua.
Nhiệt độ trung bình ở lớp đỉnh băng vĩnh cửu ở Bắc bán cầu đã tăng 3
độ C kể từ 1980. 12 năm gần đây (1995-2006) nằm trong số năm nóng nhất
trong chuỗi quan trắc bằng máy kể từ năm 1850.
* Mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng với tỷ lệ trung bình
1,8mm/năm trong thời kỳ 1961-2003 và tăng nhanh hơn với tỷ lệ 3,1mm/năm
trong thời kỳ 1993-2003. Tổng cộng, mực nước biển trung bình toàn cầu đã
tăng lên 0,31m trong 100 năm gần đây.
Chính sự tan băng ở Greenland, Bắc cực và Nam cực đã làm cho mực
nước biển tăng nhanh hơn trong thời kỳ 1993-2003. Ngoài ra nhiệt độ trung
bình của đại dương toàn cầu tăng lên (ít nhất là tới độ sâu 3.000m) cũng góp
phần vào sự tăng lên của mực nước biển.
* Số liệu vệ tinh cho thấy, diện tích biển băng trung bình năm ở Bắc
cực đã thu hẹp 2,7%/ thập kỷ. Riêng mùa hè giảm 7,4%/ thập kỷ. Diện tích
cực đại của lớp phủ băng theo mùa ở Bắc bán cầu đã giảm 7% kể từ năm
1990, riêng trong mùa xuân giảm tới 15%.
Trong Chương trình Khoa học TV, các nhà khoa học đã đưa ra thông
báo: Hiện tượng băng ở Nam cực đang tan chảy dưới đáy băng. Các thềm
băng trung bình đã giảm 1,325 nghìn tỷ tấn mỗi năm trong thời gian từ 2003 -
2008 do băng tan chảy. Còn ở Bắc cực mùa Đông ở bán cầu bắc của trái đất
sẽ trở nên lạnh giá hơn do hiện tượng ấm lên ở Bắc cực khiến băng tan chảy
càng mạnh. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra kết luận “Loài người đang đối mặt
với một nghịch lý về BĐKH. Sự ấm lên và tình trạng suy giảm diện tích băng
ở Bắc Cực không làm tăng nhiệt độ ở mọi nơi trên địa cầu, mà lại làm giảm
nhiệt độ ở những vùng thuộc vĩ độ thấp, khiến mùa đông ở bán cầu bắc trở
nên lạnh hơn”.
16
1.2.2. Tại Việt Nam
Theo Luật Khí tượng thủy văn, “biến đổi khí hậu” là sự thay đổi của
khí hậu trong một khoảng thời gian dài do tác động của các điều kiện tự nhiên
và hoạt động của con người, biểu hiện bởi sự nóng lên toàn cầu, mực nước
biển dâng và gia tăng các hiện tượng khí tượng thủy văn cực đoan.
Đối chiếu với khái niệm này, các nhà khí tượng, các nhà khoa học cho
rằng, các biểu hiện của BĐKH ngày càng rõ nét tại Việt Nam. Những năm gần
đây, các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng được ghi nhận nhiều hơn.
Năm 2015 tại Việt Nam ghi nhận nhiều hiện tượng cực đoan về khí
tượng thủy văn (KTTV), cụ thể như:
- Hạn hán khốc liệt ở Ninh Thuận và Nam Trung bộ, đây là đợt hạn hán
gay gắt và nghiêm trọng nhất trong vòng 30 năm qua và Ninh Thuận đã phải
công bố tình hình thiên tai hạn hán.
- Mưa lớn trái mùa gây lũ lớn ở Quảng Ngãi, khiến cho mực nước ở
các sông dâng cao, lũ quét xuất hiện ở một số huyện miền núi, khoảng 1.600
người ở huyện Ba Tơ bị cô lập hoàn toàn, đây là đợt mưa lũ lớn giữa mùa khô
chưa từng có từ trước đến nay ở vùng này.
- Nắng nóng lịch sử ở Bắc bộ, Trung Bộ, có 30 điểm suốt từ miền Bắc
vào miền Trung nhiệt độ đều trên 40 độ C, hơn 19 điểm nhiệt độ cao vượt
mức lịch sử, cao nhất là Con Cuông – Nghệ An, 42,7 độ.
- Siêu giông càn quét Hà Nội, với gió giật tới cấp 9, chưa từng thấy
trong vòng 50 năm qua.
- Rét bất thường ở Sa Pa, giữa mùa hè nắng nóng nhiệt độ Sa Pa đột ngột
giảm xuống còn 12.6 độ C, một hiện tượng hiếm thấy trong vòng 25 năm qua.
- Mưa lớn lịch sử ở Quảng Ninh: Tổng lượng mưa từ ngày 25 đến ngày
29 tháng 7 ở Móng Cái, Tiên Yên, Quảng Hà, Uông Bí, Bãi Cháy, Cô Tô lên
tới 500 – 1500 mm.
- Lũ thấp chưa từng thấy ở Đồng bằng sông Cửu Long, thấp nhất kể từ 1916.
17
- Năm 2015 cũng là năm có hiện tượng El Nino mạnh nhất, ảnh hưởng
rộng nhất và có thời gian kéo dài nhất trong chuỗi 60 năm có số liệu quan trắc.
Năm 2016, ở nước ta thời tiết ôn hòa hơn năm trước, song cũng ghi
nhận một số cực đoan: Tiếp nối Elnino từ 2015 gây nên tình trạng hạn hán
khắp nơi; mưa đặc biệt lớn gây ngập lụt tại TP. HCM (tháng 9/2016), không
có lũ ở ĐBSCL, bão số 1 gây gió đặc biệt mạnh ở Bắc Bộ, lũ lụt tại miền
Trung như Hà Tĩnh, Quảng Bình (tháng 10/2016)
Theo ông Nguyễn Văn Tuệ, Cục trưởng Cục Khí tượng Thủy văn và
Biến đổi khí hậu nhận định: “Nguyên nhân của những bất thường nói trên
chắc chắn có phần do ảnh hưởng của BĐKH. BĐKH không còn là câu chuyện
của 10, 20, 50 năm hay 100 năm tới, mà đã là nguy cơ hiện hữu, trong đó có
sự thay đổi của các quy luật thời tiết. Khi các quy luật bị phá vỡ, khó đoán
định, chúng ta không thể chỉ dựa vào những kinh nghiệm tích lũy được để
sinh tồn, thay vào đó, cần phải học cách ứng phó và thích nghi”.
Trong tương lai, BĐKH sẽ tác động rất lớn đến Việt Nam. Cụ thể:
a. Tác động chung
Nhiệt độ trung bình, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí
hậu tăng lên. Mực nước biển dâng do sự giãn nở nhiệt của đại dương, sự tan
băng ở các cực và các đỉnh núi cao. Các thiên tai và hiện tượng thời tiết cực
đoan (hạn hán, bão lũ..vv) xảy ra với tần suất, độ bất thường và cả cường độ
tăng lên đáng kể. BĐKH tác động đến tất cả các lĩnh vực tại các vùng miền.
Tuy nhiên, mức độ tác động có sự khác nhau tùy thuộc vào từng địa phương,
từng lĩnh vực và các hoạt động ứng phó.
Đối với nước ta, mực nước biển dâng sẽ làm mất đi một vùng đất rộng
lớn. Đó là các hệ sinh thái đất ngập nước của những đồng bằng rộng nhất của
cả nước, đặc biệt là đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và đồng bằng sông
Hồng (ĐBSH). Đây là nơi sinh sống của cả một cộng đồng dân cư lâu đời, cái
nôi của nền văn minh lúa nước, vùng có tiềm năng sản xuất nông nghiệp lớn
18
nhất và các sinh cảnh tự nhiên của nhiều loài bản địa, bao gồm cả các vườn
quốc gia, các khu bảo tồn, các khu dự trữ sinh quyển.
ĐBSCL được xác định là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến
đổi khí hậu, vì đó là một đồng bằng trẻ, có địa hình thấp và phẳng, cao độ
bình quân từ 1 đến 1,5 mét, rất thấp do với vùng nước biển. Đây cũng là vùng
chịu tác động rất lớn của sự thay đổi về biên độ triều của mực nước biển.
Nước biển dâng lên sẽ làm triều cường tiếp tục lên cao hơn. Bên cạnh đó,
ĐBSCL còn chịu tác động của lũ của sông Mêkong. Lũ tràn về, kết hợp với
triều cường xuất hiện, làm mực nước ứ lại, khiến nhiều nơi bị ngập lụt. Đó
chính là hiện tượng ngập lụt ở thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) hiện nay.
Diện tích đất bị xâm nhập mặn, bị khô cạn, nhiễm phèn ngày càng tăng.
Hiện nay, trong toàn vùng, có khoảng 2,1 triệu hectares (ha) đất bị
nhiễm mặn và 1;6 triệu ha bị nhiễm phèn. Trong thời gian tới, dưới tác động
của BĐKH thì tất cả các hậu quả sẽ trở nên nghiêm trọng hơn. Sản lượng
luơng thực của ĐBSCL sẽ bị giảm. Các vùng chuyên canh cây ăn trái, nuôi
trồng thủy hải sản thì chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng. Vấn đề an ninh lương thực
sẽ bị đe dọa và thiệt hại tài sản tính đến con số vài chục tỷ đô la Mỹ.
BĐKH còn ảnh hưởng đến khu vực nội địa (sông, hồ, đầm lầy). Do sự
thay đổi về thời tiết dẫn đến thay đổi lưu lượng sinh học bao gồm các cây
trồng nông, công, lâm nghiệp, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế.
Đồng thời, thiên tai do BĐKH cũng dẫn tới ảnh hướng đến sức khỏe, chất
lượng sống của con người, như: ốm đau, thương tích, suy dinh dưỡng, bệnh
dịch mới, các bệnh do côn trùng có tỷ lệ tử vong cao...
b. Tác động của biến đổi khí hậu tới tài nguyên nước
Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia thiếu nước. Dưới tác động của
BĐKH, khi nhiệt độ trung bình tăng, độ bất thường của thời tiết, khí hậu và
19
thiên tai sẽ gia tăng gây ảnh hưởng rất lớn đến tài nguyên nước ngọt ở những
khía cạnh sau:
Nhu cầu nước sinh hoạt cho con người, nước phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng, giao thông... đều tăng. Bên cạnh đó
tần suất số lượng nước bốc hơi tại các thủy vực (ao, hồ, suối) cũng tăng, dẫn
đến sự suy thoái tài nguyên nước về cả số lượng lẫn chất lượng. Đồng thời,
những thay đổi về lượng mưa cũng dẫn tới những thay đổi về dòng chảy của
các con sông.
Cường độ của các trận lũ, tần suất và đặc điểm của những đợt hạn hán
diễn biến khó lường. Khi băng tuyết ở các cực tan chảy sẽ làm tăng dòng chảy
ở các con sông và làm tăng lũ lụt. Khi băng tan hết, lũ lụt sẽ giảm đi nhưng
dòng chảy của các con sông cũng giảm đi, thậm chí cạn kiệt. Nạn thiếu nước sẽ
trầm trọng hơn. Điều này đặc trưng cho các nước châu Á với nguồn nước sông
ngòi phụ thuộc nhiều vào nước thượng nguồn, tiêu biểu là sông Mê Kông.
Một hậu quả nghiêm trọng khác của BĐKH tới tài nguyên nước là hạn
hán gia tăng. Hạn hán không những dẫn tới hậu quả làm giảm năng suất mùa
màng, thậm chí mất trắng, mà còn nguy cơ dẫn đến hoang mạc hóa, nhất là ở
những vùng vốn hiếm nước, làm tăng nguy cơ cháy rừng, gây thiệt hại to lớn
về nhiều mặt.
c. Tác động của biến đổi khí hậu tới lĩnh vực nông nghiệp
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 75% dân số sống bằng nghề
nông nghiệp và 70% lãnh thổ là nông thôn, với cuộc sống người dân còn phụ
thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Sản xuất nông
nghiệp hiện nay vẫn chú yếu dựa trên các hộ cá thể, quy mô nhỏ, trình độ
khoa học kỹ thuật chưa cao.
Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, ông Ousmane
Dione nhấn mạnh trong buổi gặp gỡ báo chí khi vừa nhận chức tại Hà Nội
20
năm 2016 đã phân tích: nền kinh tế Việt Nam thời gian qua đã và đang chịu
ảnh hưởng rõ rệt từ BĐKH như lũ bão, xâm nhập mặn, hạn hán. Bằng chứng
là tăng trưởng ngành nông nghiệp trong 9 tháng đã giảm, gia tốc gia tăng
không còn do nền sản xuất lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Người đứng đầu
WB tại Việt Nam cho rằng: Sản xuất nông nghiệp Việt Nam đã và đang thụ
động thay đổi trước sự thay đổi hằng ngày, hàng giờ của tự nhiên. Trong thời
gian tới, những tác động của biến đổi khí hậu sẽ còn ghê gớm hơn, nhanh hơn
và nặng nề hơn do đó hệ quả sẽ nặng nề hơn. Đây chính là bài toán, là thách
thức, đòi hỏi Việt Nam không thể chần chừ trong cải cách nền nông nghiệp
thích ứng với BĐKH. Cũng theo ông Ousmane, hiện vấn đề hạn mặn, ngập lụt
hay thiếu nước đã và đang xảy ra hằng ngày ở những nơi mà bao năm qua
Việt Nam vẫn canh tác tự nhiên mà không gặp phải vấn đề này. Chỉ đến thời
điểm hiện nay, khi không còn nước nổi ở Đồng bằng Sông Cửu Long, hạn
mặn xuất hiện thì người nông dân mới cảm nhận được những hệ quả to lớn.
Chính việc sản xuất nông nghiệp của chúng ta hiện nay còn phụ thuộc
rất nhiều vào thời tiết. Khi nhiệt độ, tính biến động và tính dị thường của thời
tiết và khí hậu tăng sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sản xuất nông nghiệp, nhất là
trồng trọt. Ngoài ra cũng làm tăng dịch bệnh, dịch hại, giảm sút năng suất của
mùa màng. Sự gia tăng của thiên tai và các hiện tượng cực đoan của thời tiết,
khí hậu như bão, lũ lụt, hạn hán, giá rét sẽ ảnh hường trực tiếp và mạnh mẽ tới
sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ hải sản.
Trong thời gian qua, ở nhiều địa phương, mùa màng đã bị mất trắng do
thiên tai (lũ lụt và hạn hán). Đợt lũ lụt lịch sử trong năm 2016 tại các tỉnh
miền Trung là một minh chứng. Theo số liệu thống kê, riêng tại tỉnh Quảng
Bình đã có 18 người chết, hàng trăm ha nuôi trồng thủy sản, hoa mầu bị mất
trắng, giao thông bị phá hủy Tỉnh Quảng Bình đề nghị Chính phủ hỗ trợ
cứu đói 5.000 tấn gạo, 250 tỷ đồng để khắc phục thiên tai.
21
Điều đáng chú ý, Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu gạo mỗi năm đạt 4
tỉ USD, chiếm hơn 1/5 tổng giá trị xuất khẩu gạo toàn cầu. Riêng vùng đồng
bằng sông Cửu Long đã đóng góp tới một nửa sản lượng lúa gạo của Việt
Nam, 70% lượng thủy sản và 1/3 tổng sản phẩm quốc dân (GDP). Tuy vậy,
đây cũng là một trong những vùng đồng bằng chịu nhiều ảnh hưởng nhất từ
BĐKH cũng như các diễn biến ở thượng nguồn. Mới đây, tháng 6/2016 Ngân
hàng Thế giới (WB) vừa phê duyệt khoản tín dụng 310 triệu USD giúp Việt
Nam nâng cao sức chống chọi với BĐKH và bảo đảm sinh kế bền vững cho
1,2 triệu người dân sinh sống tại 9 tỉnh vùng ĐBSCL đang bị ảnh hưởng bởi
tình trạng BĐKH, ngập mặn, xói lở bờ biển, và lũ lụt.
d. Tác động của biến đổi khí hậu tới đa dạng sinh học rừng
Nước biển dâng cao 1m dự đoán sẽ có 78 (27%) sinh cảnh tự nhiên
quan trọng, 46 khu báo tồn (33%), 9 khu vực có đa dạng sinh học quan
trọng(23%) bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhiệt độ trung bình tăng sẽ làm thay
đổi vùng phân bố và cấu trúc quần xã sinh vật của nhiều hệ sinh thái. Ranh
giới nhiệt của các hệ sinh thái đất ngập mặn và lục địa có xu hướng dịch
chuyển lên cao hơn. Các loài nhiệt đới sẽ giảm đi trong các hệ sinh thái ven
biển và có xu hướng chuyển dịch lên các đới và vĩ độ cao hơn trong các hệ
sinh thái trên cạn, các loài ôn đới (thường cho năng suất sinh học cao) sẽ giảm
đi, cấu trúc chuỗi và lưới thức ăn cùng thay đổi. Nhiệt độ tăng còn làm gia
tăng khả năng cháy rừng, nhất là các khu rừng trên đất than bùn, vừa gây thiệt
hại tài nguyên sinh vật, vừa tăng lượng phát thải khí nhà kính làm gia tăng
BĐKH.
Trong tình hình hiện nay, khi nạn chặt phá rừng còn khá phổ biến, thậm
chí là nghiêm trọng ở một số địa phương, nhiều khu rừng đầu nguồn bị suy
thoái, bị phá hủy, nhiều diện tích rừng bị thu hẹp đáng kể để chuyển đổi thành
22
các ao đầm nuôi thủy hài sản. Điều này sẽ càng làm gia tăng tác động tiêu cực
của BĐKH đến nhiều các lĩnh vực khác nhau của tự nhiên và kinh tế xã hội.
e. Tác động của biến đổi khí hậu tới sức khỏe
BĐKH gây ra chết chóc và bệnh tật do: Đó là hậu quả của thiên tai như
nắng nóng, rét hại, bão, lũ lụt, hạn hán... Các loại dịch bệnh xuất hiện và gia
tăng dưới tác động của sự thay đổi nhiệt độ và hoàn cảnh, nhất là các bệnh
truyền qua vật trung gian như sốt rét (do muỗi truyền), sốt xuất huyết (muỗi),
viêm não (muỗi), qua môi trường nước (các bệnh đường ruột) và các bệnh
khác (suy dinh dưỡng, bệnh về phổi...).
Ở Việt Nam, trong thời gian qua nhiều bệnh có diễn biến phức tạp và
bất thường hơn (sốt xuất huyết), một số bệnh cũ quay trở lại (dịch tả), một số
bệnh mới xuất hiện và gây ra những thiệt hại đáng kể.
f. Tác động cùa biến đổi khí hậu tới cơ sở hạ tầng
Sự bất thường về khí hậu gây ra mực nước biển dâng, nhiệt độ tăng sẽ
gây ra ngập lụt và tác động tới tiện nghi, tính hữu dụng, độ bền cũng như độ
an toàn của các công trình dược thiết kế trước đó. Vì vậy, đánh giá tác động
của BĐKH cho từng loại cơ sở hạ tầng đã có tại nhiều địa phương cụ thể để
có giải pháp phù hợp.
Ví dụ, một nghiên cứu của tổ chức Công đoàn mỏ - hóa chất - năng
lượng quốc tế (ICEM) năm 2007, đánh giá nhanh quy mô vả ảnh hưởng của
hiện tượng mực nước biển dâng tại Việt Nam đã chỉ ra rằng, theo kịch bản
cùa IPCC, nếu mực nước biển dâng cao lm vào năm 2100 thì: 14.520km (4
4%) diện tích của Việt Nam sẽ bị ngập vĩnh viễn. Trên 60% (39/64 tỉnh) và
6/8 vùng kinh tế sổ bị ánh hưởng. Khoảng 20% (2.057/10.511 xã) trên cả
nước sẽ bị ngập một phần hay toàn bộ. Theo kịch bản này, BĐKH sẽ ảnh
hưởng đến cơ sở hạ tầng như sau: 574 km đê, 9.200 km (4,3%) đường bộ của
cá nước sẽ bị ngập vĩnh viễn. Riêng ĐBSCL sẽ bị ngập 90% đường bộ. 20
23
tỉnh sẽ có các cơ sở sản xuất bị ngập nước, trong đó TP. HCM khoảng 500
doanh nghiệp (9%), 16 khu công nghiệp (9 bị ngập sâu), ĐBSCL có 19 khu bị
ảnh hưởng (13 khu bị ngập sâu).
g. Tác động của biến đổi khí hậu tới môi trường
BĐKH gây nên tình trạng tị nạn môi trường khí hậu (trong nước và
quốc tế) do mất nơi ở hoặc do bệnh tật và nghèo đói.
Đã có những cảnh báo cho rằng, vấn đề tị nạn khí hậu không chỉ lả đơn thuần
là vấn đề xã hội, kinh tế mà có thế là vấn đề chính trị, chiến tranh (Nobber,
2007). An ninh sinh thái do sự nhiễu loạn của nhiều hệ sinh thái, sự xâm lấn
của các sinh vật lạ và sinh vật biến đổi gen (theo Nguyễn Đình Hòe và
Nguyễn Ngọc Sinh, 2008). Thêm vào đó, do BĐKH làm tăng sự khan hiếm
và thay đổi sự phân bố của các nguồn tài nguyên thiết yếu như nước, đất... và
ở mức độ cao hơn có thế dẫn tới: Làm trầm trọng thêm các thách thức về an
ninh lương thực, an ninh năng lượng, mâu thuần xã hội và sự phân hoá giàu
nghèo.
h. Tác động của biến đổi khí hậu tới vùng ven biển
Vùng ven biển (VVB) Việt Nam chạy dài suốt 15 vĩ độ từ Bắc xuống
Nam qua 29/65 tỉnh thành, cố một ý nghĩa đặc biệt quan trọng về nhiều mặt:
phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh quốc phòng.
VVB là nơi chịu tác động mạnh mẽ nhất của thiên tai mà trước hết là bão, lũ
lụt gây những tổn thất nặng nề về người và của.
Nước biển dâng sẽ tác động chủ yếu đối với VVB. Gây hiện tượng
ngập lụt, mất nơi ở và diện tích sản xuất (nông nghiệp thủy sản và làm muối),
gây nhiễu loạn các hệ sinh thái truyền thống ở đây.
Hiện tượng xâm nhập mặn sẽ gia tăng, các hệ sinh thái đất ngập nước
ven biển, nhất là rừng ngập mặn, môi trường sống của các loài thuỷ hải sản,
bức tường chắn sóng và giảm tác động của sóng, bão, nguồn sống hàng ngày
24
của cộng đồng địa phương sẽ bị thu hẹp nhanh chóng. Các cơ sở hạ tầng, nhất
là các cảng, khu đô thị, khu công nghiệp, hệ thống giao thông sẽ bị tác động
mạnh, thậm chí phải cải tạo, nâng cấp hoặc di dời. Nước biển dâng và nhiệt
độ tăng sẽ làm ảnh hướng lớn tới các rạn san hô. Nhiệt độ nước biển chỉ cần
tăng một vài độ thì san hô có thể chết hàng loạt. Hàng năm, thiệt thiệt hại do
thiên tai gây ra ước tính chiếm khoảng 1% ổng sản phẩm quốc nội
(GDP).
i. Tác động của BĐKH đến văn hóa, thế thao, du lịch, thuơng mại và dịch vụ
BĐKH có tác động trực tiếp đến các hoạt động văn hóa, thể thao, du
lịch, thương mại, dịch vụ, đồng thời có ảnh hường gián tiếp thông qua các tác
động đến các lĩnh vực khác như giao thông, vận tải, xây dựng nông nghiệp,
sức khỏe và cộng đồng, du lịch sinh thái, các sân golf và vùng thấp ven biển
cũng như các công trình hạ tầng liên quan khác có thể bị ngập, di chuyến hay
ngừng trệ,... Hệ lụy của vấn đề này làm gia tăng chi phí cho việc cải tạo, di
chuyển và bảo dưỡng các hạng mục đã có.
Nhiệt độ tăng và sự rút ngắn mùa lạnh làm giảm tính hấp dẫn của các
khu du lịch, nghỉ dưỡng nổi tiếng trẽn núi cao, trong khi mùa du lịch mùa hè
có thể kéo dài thêm. Những cơ sở hạ tầng du lịch ở các vùng núi cao sẽ bị
mưa lũ vả trượt lở đất đe dọa. Vùng đất thấp ven biển sẽ bị nước biển dâng
cao làm chìm ngập, bãi biển bị xói mòn, thậm chí bị xói lở sạch. Lũ lụt ven bờ
và nước dâng do bão kèm triều cường tấn công và phá hủy các cơ sở lưu trú
được xây dựng trên các bãi biển. Nhiều hòn đảo thấp có khả năng bị nhấn
chìm. Những loại thiên tai này không chi gây thiệt hại cho chủ sở hữu các bất
động sản, mà còn làm giảm lượng du khách tìm đến các điểm du lịch này, từ đó
tác động mạnh đến hàng triệu người sinh sống bằng kinh doanh dịch vụ du lịch.
25
k. Tác động của biến đổi khí hậu với năng lượng
Nước biển dâng gây các tác động đối với năng lượng ở những điểm sau:
Ảnh hưởng tới hoạt động của các dàn khoan được xây dựng trên biển,
hệ thống dẫn khí và các nhà máy điện chạy khí được xây dựng ven biển, làm
tăng chi phi bảo dưỡng, duy tu, vận hành máy móc, phương tiện,...
Các trạm phân phối diện trên các dải ven biển phải tăng thêm năng lượng tiêu
hao cho bơm tiêu nước ở các vùng thấp ven biển. Mặt khác, dòng chảy các
sông lớn có công trình thủy điện cũng chịu ảnh hưởng đáng kể.
Nhiệt độ tăng cũng gây tác động đến ngành năng lượng: Tăng chi phí thông
gió, làm mát hầm lò khai thác và làm giảm hiệu suất, sản lượng của các nhà
máy điện. Tiêu thụ điện cho sinh hoạt gia tăng và chi phí làm mát trong các
ngành công nghiệp, giao thông, thương mại và các lĩnh vực khác cũng gia
tăng đáng kể.
Như vậy, có thể khẳng định: BĐKH đang hiện hữu, việc nghiên cứu về
BĐKH tại Việt Nam chỉ mới bắt đầu từ thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Tuy
nhiên, đến năm 2008, khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chương trình mục
tiêu Quốc gia về BĐKH thì việc nghiên cứu một kịch bản BĐKH và nước
biển dâng cho Việt Nam được chính thức được đặt ra. Tháng 6/2009, kịch bản
BĐKH và nước biển dâng cho Việt Nam đầu tiên được công bố là trở thành
một sự kiện nổi bật của ngành TNMT năm đó. Lần đầu tiên, giới khoa học
Việt Nam đã định hình về BĐKH đến năm 2100 tại Việt Nam.
Năm 2012 và 2016, Bộ TN&MT thực hiện việc cập nhật kịch bản
BĐKH và nước biển dâng cho Việt Nam theo lộ trình đã được xác định trong
Chiến lược quốc gia về BĐKH. Các kịch bản này đã cung cấp những thông
tin mới nhất về những biểu hiện, xu thế biến đổi của khí hậu và nước biển
dâng trong quá khứ và kịch bản BĐKH và nước biển dâng trong thế kỷ 21 ở
Việt Nam.
26
Phiên bản 2016 của kịch bản BĐKH chỉ rõ: Theo kịch bản RCP4.5
(phát thải trung bình), mức tăng nhiệt độ trung bình năm phổ biến từ 1,3 đến
1,7oC vào giữa thế kỷ 21; từ 1,7 đến 2,4oC vào cuối thế kỷ. Nhìn chung, nhiệt
độ phía Bắc tăng cao hơn phía Nam. Theo kịch bản RCP8.5 (phát thải lớn),
vào giữa thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm ở phía Bắc có mức tăng phổ biến
từ 2,0 đến 2,3oC và ở phía Nam từ 1,8 đến 1,9oC. Đến cuối thế kỷ, mức tăng
từ 3,3 đến 4,0oC ở phía Bắc và từ 3,0 đến 3,5oC ở phía Nam.
Theo kịch bản RCP4.5, đến cuối thế kỷ 21, lượng mưa trung bình năm
có xu thế tăng ở hầu hết diện tích cả nước, phổ biến từ 5 đến 15%. Một số
tỉnh ven biển Đồng Bằng bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Trung Trung Bộ có thể tăng
trên 20%. Đối với lượng mưa cực trị, lượng mưa một ngày lớn nhất có xu thế
tăng trên toàn lãnh thổ Việt Nam với mức tăng phổ biến từ 10 đến 70%. Mức
tăng nhiều nhất ở Đông Bắc, Trung Bộ (từ Thừa Thiên - Huế đến Quảng
Nam) và Đông Nam Bộ.
Theo kịch bản RCP4.5, vào cuối thế kỷ 21 mực nước biển dâng cao
nhất ở khu vực qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004706_1_1823_2002794.pdf